Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Nghệ thuật trào phúng thơ nôm hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.22 KB, 8 trang )

Nghệ thuật trào phúng thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Mở đầu
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng phức tạp, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của bà có đã tốn
không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu cũng như bao nhiêu những thắc mắc, hoài nghi trong
lòng độc giả. Thậm chí đến ngày nay, những thắc mắc cần lời giải đáp đó vẫn chưa có hồi kết
thúc. Từ đó cho thấy, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương quả là một hiện tượng văn hóa
hết sức độc đáo. Điều này đã trở thành một chủ đề hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu khám phá.
Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, chứng tỏ những đóng góp của bà đối với thơ Nôm dân
tộc chiếm một trí không nhỏ. Trong “gia tài” thơ Nôm của mình, Hồ Xuân Hương đặc biệt thành
công với mảng thơ trào phúng, đả kích. Hồ Xuân Hương đã góp phần đưa nghệ thuật trào phúng
thơ Nôm lên đến đỉnh cao.
Nội dung
1.Vài nét về cuộc đời và sáng tác của Hồ Xuân Hương
1.1 Hồ Xuân Hương – cuộc đời và giai thoại
1.2 Thơ Nôm trào phúng Hồ Xuân Hương – thành công xuất sắc
2. Nét đặc sắc nghệ thuật trào phúng thơ Nôm Hồ Xuân Hương
2.1 Đề tài phong phú, đa dạng
2.1.1 Niềm đồng cảm với phụ nữ
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ chịu sự áp bức
về mặt giai cấp cũng làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói cơm rách áo cũng trăm nghìn thứ trà đạp
mà còn chịu áp bức về mặt giới tính, tinh thần mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt,
đau đớn hơn nhiều lần cái đau khổ về thể chất. Họ giống như những “tội nhân chung thân” suốt
đời gánh trên vai bao nhiêu ràng buộc của luật “tam tòng”, bởi những hủ tục giết chết tình yêu,
tuổi trẻ, hạnh phúc. Đã có rất nhiều nhà văn nhân đạo thể hiện niềm cảm thông xót xa với thân
phận người phụ nữ như người cung nữ (Cung oán ngâm khúc), người chinh phụ (Chinh phụ
ngâm khúc)… Đến Hồ Xuân Hương, người phụ nữ trong thơ bà không phải người phụ nữ lầu
son, gác tía chinh phụ hay cung tần mà là những người phụ nữ hết sức bình thường, những người
phụ nữ lao động chịu nhiều bất hạnh trong đời sống.
Trong thơ mình Hồ Xuân Hương không nói đến toàn bộ nỗi khổ của người phụ nữ, bà dường
như hướng đến nỗi khổ có tính chất giới tính của mình. Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường
xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch khong kém phần chua


chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã dập khuôn theo những chế
ước nặng nề của lễ giáo.
Xuân Hương nêu lên một nét điển hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong kiến đó là “Cảnh
chồng chung”. Nhà thơ vạch ra cảnh làm lẽ chẳng qua chỉ như một thứ làm mướn, thậm chí là
làm mướn không công. Người đàn ông có quyền có năm thê bảy thiếp nhưng người phụ nữ chính
chuyên một chồng. Người phụ nữ chịu cảnh làm lẽ ngoài thỏa mãn cuộc sống dâm dật của bọn
địa chủ còn trở thành thứ nhân công mà không mất tiền thuê. Những câu thơ của bà cất lên đầy
niềm đồng cảm xót thương:
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công!
Khi uất ức không chịu được bà đã lên tiếng chửi mắng quyết liệt nhưng điều kiện xã hội vẫn
ngang nhiên cho phép nó tồn tại. Trước thực tại, bà cũng đành bất lực trong tiếng thở dài. Tiếng
thở dài này càng làm đậm thêm cái mỉa mai của thực tại:


Thân này ví biết đường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong!
Một đặc điểm của thơ Xuân Hương là bà không hề dửng dưng lạnh nhạt mà nhà thơ luôn có một
trái tim bỏng cháy, nói cái gì là nói với tất cả sự chân thành xúc động của mình. Khi giận dữ thì
thét mắng, khi yêu đương thì đằm thắm ngọt ngào. Bà nhìn sự việc với thái độ cảm thông, khoan
dung đại lượng với cảnh ngộ không may của họ qua bài “Không chồng mà chửa”.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tội tày đình. Họ coi người phụ nữ mà
đã thông gian thì đã mất hết cả liêm sỉ nên khi hành hình thì bắt cới áo cánh, để cho mặc váy gia
hình còn những tội khác khi phạt cũng được mặc áo. Với Hồ Xuân Hương, bà quan niệm đó
không phải là tội lỗi mà đó chỉ là chuyện “cả nể” đối với người tình, bởi vì cả nể nên mới hóa dở
dang như vậy “Cả nể cho nên hóa dở dang”. Phụ nữ luôn giàu đức hi sinh, người phụ nữ trong
thơ Xuân Hương cũng vậy, dám sẵn sàng chấp nhận, đương đầu với tất cả “Mảnh tình một khối
thiếp xin mang” và tuyên chiến với lễ giáo phong kiến bằng lời lẽ hùng hồn đanh thép:

Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà, có mới ngoan
Trong những vần thơ của mình Hồ Xuân Hương luôn đem đến cho những người phụ nữ bất hạnh
những lời động viên, muốn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lực sống và chống chọi
với cuộc sống. Đó là tiếng nói tri âm với một bà lang khóc chồng:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên nỗi khóc tỉ ti
Nàng sẽ bảo với một cô gái chồng chết:
Nín đi kẻo thẹn với non sông
Ai về nhắn nhủ đàn em bé!...
Sẽ đem đến chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ phải công bằng và nhân đạo hơn cho những cô
gái không chồng mà chửa có thể tiếp tục sống làm mẹ và làm người:
Không có, nhưng mà có, mới ngoan
Qua đó ta thấy, Xuân Hương không chỉ có cảm thông và bênh vực mà bà còn hết sức đề cao và
ngợi ca họ. Bà tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân chính của họ. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân
Hương không chỉ đẹp về ngoại hình mà họ còn mang những phẩm chất vô cùng cao quý. Hồ
Xuân Hương không ngại ngần dựng nên một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động về cái
đẹp cơ thể của một thiếu nữ:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếc cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bông đảo hương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
(Thiếu nữ)
Bức tranh người thiếu nữ ở đây không gợi lên những dục vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho
người đọc những rung động thẩm mỹ thanh cao. Bởi đó là vẻ đẹp mà tự nhiên đã ban tặng cho
người phụ nữ.
Thông qua những hình ảnh chiếc bánh trôi nước “bảy nổi ba chìm với nước non”; con ốc nhồi
“Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, hay quả mít “da nó xù sì”... nữ sĩ đã chú trọng phát hiện và

khẳng định vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ. Dù hình thù xấu xí,
dù bị “rắn nát” bởi “tay kẻ nặn” nhưng bản chất tốt đẹp, thánh thiện của người phụ nữ không bao
giờ bị mất đi “mà em vẫn giữ tấm lòng son”.


2.1.2 Phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị
Giai cấp phong kiến, mà đại diện là vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ
mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội. Đó là những “quân tử”,
những người mang trong mình bao nhiêu tốt đẹp, trong sạch, thanh cao. Nhưng Hồ Xuân Hương
đã vạch trần bộ mặt thật, lột chiếc áo đạo đức giả thùng thình, phơi bày cái xác thân phàm tục
của họ. Với vũ khí tiếng cười, bà đã đánh rất trúng rất đau từ ông vua ngất ngưởng trên ngai vàng
đến anh thư sinh nghiên bút đến cửa Khổng sân Trình để học đạo thánh hiền. Có thể thấy, đối
tượng đả kích trong thơ bà rất rộng. Với vua chúa, bà chỉ mắng nhè nhẹ mà đau vô kể, và chỉ có
thế cũng đủ làm cho vua chúa tối mặt, bà hạ bệ vua chúa ngang hàng với những kẻ vẫn bị người
“quân tử” cho là “phàm phu tục tử”:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này.
Hình ảnh “một cái này” là cái quạt: “chành ra ba góc da còn thiếu, khép lại đôi bên thịt vẫn thừa”
mà Hồ Xuân Hương đã từng phẩy vào mặt, che lên đầu đấng anh hùng, người quân tử.
Nếu đối với vua chúa, nữ sĩ châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bạn quan thị, nữ sĩ giơ cao
đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng:
Đố ai biết đó vông hay chóc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Có lẽ kẻ chịu nhiều thương tích nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Tự
xưng hiền nhân quân tử, tức đồ đệ của Nho giáo, nhưng việc làm lén lút, thậm chí ý nghĩ trong
đầu chúng cũng bị Hồ Xuân Hương phát hiện và phơi bày ra ánh sáng cho mọi người thấy rằng
những kẻ giả dối ấy, chúng rất đói và háo ăn, song vì khoác chiếc áo đạo đức trên người nên
chúng phải “ăn vụng”. Bà đi guốc trong bụng chúng và chộp ngay được ý nghĩ mờ ám của
chúng:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,

Đi thì cũng dở ở không xong
Đó còn là đám nho sĩ dốt nát, còn huênh hoang, hợm mình là con quan, là cậu ấm, tương lai sẽ là
“rường cột nước nhà” nên ngổ ngáo, xem dưới gầm trời không còn ai nữa. Học không lo học lại
còn đi ghẹo gái, thơ không ra thơ mà dám đề thơ ở chùa, ở miếu. Hồ Xuân Hương đã gọi chúng
là “phường lòi tói”, lũ “ngẩn ngơ”, xưng “chị” và đòi “dạy” chúng “làm thơ” và dọa “Muốn sống
đem vôi quét trả đến” ngay.
Nhắc đến cửa chùa, Hồ Xuân Hương cũng vạch trần những hành vi dâm đãng diễn ra ngay trước
cửa đền chùa:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Qua đó ta thấy tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương rất đa dạng hướng đến mọi đối tượng khác
nhau trong cuộc sống từ bọn vua chúa đến bọn quan thị, từ bọn “hiền nhân quân tử” đến bọn tu
hành núp dưới bóng nhà Phật làm điều xấu. Điều đó đã thể hiện sức bao quát của Hồ Xuân
Hương đối với thế thái nhân tình. Bà đã cười với mọi giọng dõng dạc, chủ động, đàn chị “cười
nhọn, cười sắc, cười gằn”, “cười vào tận óc” những kẻ tự xưng là địa diện cho nề nếp đạo đức xã
hội.
2.1.3 Bộc lộ tiếng lòng của chính mình
Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương ngoài mục đích chĩa mũi nhọn vào chế độ và lễ giáo phong
kiến còn đề cập đến nỗi niềm riêng tư của nhà thơ. Đó là sự thể hiện ước mơ, khát khao hạnh


phúc lứa đôi, muốn có một cuộc sống trần tục thiên về mặt bản năng. Hồ Xuân Hương có ba bài
thơ trữ tình bộc lộ về mình của tác giả. Đó là những bài thơ viết về duyên phận chìm nổi, lênh
đênh của nhà thơ. Lê Trí Viễn đã viết: “Đau đớn ê chề là như vậy, nhưng Xuân Hương vẫn trở về
với bản ngã yêu đời. Lời thơ vẫn trào lộng, hóm hỉnh. Cái luật của đời: bi quá hóa hài. Hài để mà
chua xót, vơi nỗi buồn chán. Càng chua xót, đau thương lại càng tìm đến cái cười... ra nước
mắt.”
Qua chùm ba bài thơ Tự tình I, Tự tình II, Tự tình III đã thể hiện trong sâu thẳm tâm hồn Hồ

Xuân Hương những bi kịch của cuộc đời mà thường ngày cái bản lĩnh cứng cỏi làm lu mờ. Bà là
một người phụ nữ tài hoa nhưng lại vấp phải cuộc đời nhân duyên dở dang, số phận long đong.
Trong đêm khuay khi đối diện với chính mình thì nỗi đau ùa về. Dường như Xuân Hương đã
“ngồi nhẫn tàn canh”, ngồi một mình cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh.
Nhưng những vần thơ của bà không phải vì thế mà trở nên mềm yếu, trong cái mềm yếu ấy vẫn
chứa đựng một bản lĩnh thách thức, hóm hỉnh :
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh!
(Tự tình III)
Ba bài Tự tình là “ba bài than thân làm thành một bộ ba song song nhau, bài nào cũng tiêu tao,
cũng nói ra đáy lòng của người phụ nữ.” Qua ba bài thơ này, nhà thơ thể hiện tấm lòng chân thật
của người phụ nữ về thân phận ê chề, đau khổ của mình. Đồng thời nói lên niềm khát khao cháy
bỏng, ước mơ được yêu, được trao duyên gửi tình của nhà thơ. Nỗi niềm riêng tây của Hồ Xuân
Hương không chỉ được thể hiện ở ba bài thơ Tự tình này mà còn thể hiện ở nhiều bài thơ khác
khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp. Nhiều bài thơ Hồ Xuân Hương viết về người cũng chính là viết
về mình và ngược lại khi viết về mình cũng là viết về người.
2.1.4 Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, điều này không ai có thể phủ nhận nhưng
yếu tố trào phúng và trữ tình không hề đối lập nhau mà trái lại thống nhất chặt chẽ với nhau.
Chính yếu tố trữ tình đã khiến cho yếu tố trào phúng thêm thâm thúy, chua xót. Bức tranh thiên
nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương góp phần không nhỏ vào việc thể hiện nghệ thuật của mình. Đó
là những cảnh thiên nhiên hết sức quen thuộc: chùa Hương, Đèo Ngang, hang Thánh Hóa... thậm
chí hướng đến những không gian nhỏ bé, bình dị ở nơi thôn quê: cái giếng, ngôi chùa, đám hội
xuân, ... những cảnh đẹp hết sức êm đềm.
Thiên nhiên cũng làm nền tạo nên những liên tưởng bất ngờ và thú vị:
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông,
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
(Giếng thơi)

Vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ chính là điều mà nữ sĩ muốn hướng đến. Nó trở thành một tín
hiệu nghệ thuật, vì vậy nó không phải là dâm đãng. Đó là vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng cho người
phụ nữ, Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ, bà nâng niu chân trọng cái vẻ đẹp trần thế,
tự nhiên ấy. Càng bị đè nén thì vẻ đẹp ấy càng muốn bứt phá, khẳng định. Hồ Xuân Hương qua
cảnh gửi tình thể hiện ước mơ khát vọng hạnh phúc của mình.
Chính vì thể hiện khát khao muốn khẳng định nên thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không
bao giờ yên ắng mà nó luôn cựa quậy hết sức sinh động.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo


Đi đôi với cảnh bao giờ cũng là những màu sắc sinh động:
Trai đu gối hạc khom lưng cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
(Đánh đu)
Nhiều người đã liên tưởng và cho rằng thơ Hồ Xuân Hương là “dâm tục” thường thể hiện những
hành vi tính giao của nam nữ. Nhưng đó là một thứ tình dục lành mạnh thể hiện khát vọng lứa
đôi hạnh phúc của người phụ nữ hết sức tha thiết với tình yêu và hạnh phúc gia đình nhưng lại
gặp phải bi kịch. Người đọc vì thế luôn cảm thấy một thiên nhiên căng tràn sức sống, một thiên
nhiên luôn cựa quậy và tươi rói màu sắc.
2.2 Ngôn ngữ và giọng điệu thơ
2.2.1 Thơ Nôm Hồ Xuân Hương – phong phú về mặt từ vựng
Trong kho tàng thơ Nôm trào phúng của Hồ Xuân Hương chúng ta thấy từ vựng trong sáng tác
của bà như những bông hoa muôn sắc màu, màu hoa nào cũng đầy sức sống. Nó như một cơ thể
sống luôn luôn vận động. Đầu tiên là phải kể đến hệ thống những động tự mạnh thể hiện sức
sống mãnh liệt không gì có thể ngăn cản được:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn

Những sự vật trong thơ Hồ Xuân Hương dường như nó không phát triển thuận theo tự nhiên mà
luôn bứt phá thể hiện một sự thách thức, dám đương đầu để mà sống. Hàng loạt động từ trong
xuất hiện trong các bài thơ khác như: nảy (nảy vừng quế đỏ, nảy nét ngang, húc (giậu thưa), nổi
chìm (bảy nổi ba chìm với nước non)...các cách liên kết đó tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, tạo
nên thế giới của sự sống, của thiên nhiên năng động, đầy sức sống. Dường như người đọc bị lay
động bởi những rung chuyển dữ dội của sự sống: nó không im, không tĩnh mà nó sinh sôi, nảy
nở, tung hoành, nhảy múa... Thậm chí những động từ đó còn được sử dụng để tái hiện bước chân
của cuộc sống con người: “Người quen cảnh Phật chen chân xọc, kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm...
Những động từ này góp phần vạch mặt, chửi thẳng vào bọn sư mô đạo đức giả, bọn học trò dốt
nát với những động từ như “đấm, khua, móc” hay “châm húc” (Ong non ngứa nọc châm hoa
rữa / Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa).
Bên cạnh động từ, hệ thống từ vựng tính từ cũng chiếm vị trí không nhỏ trong thơ Hồ Xuân
Hương và tạo được những rung cảm thẩm mĩ hết sức hiệu quả. Thế giới của Hồ Xuân Hương
không bao giờ chịu an phận tĩnh lặng mà luôn luôn phải bứt phá, sinh động. Những tính từ đã
diễn tả màu sắc trong thơ Hồ Xuân Hương. Đó là những màu sắc thường đậm và nóng. Đỏ thì
“đỏ loét”, đỏ “lòm lom”, đỏ “như son”, xanh thì “xanh rì”, trắng thì “trắng phau”, trong thì phải
“trong leo lẻo”, tối thì “tối om om”, sáng thì “sáng banh”, trưa là “trưa trật”. Xuân Hương không
chỉ nhìn “những màu sắc thường “những màu sắc đó phải kêu lên, phải xé ra, phải cao độ” mà
cái nhìn của bà còn như nhát dao, nhát đục, đẽo gọt sự vật, tạo nên những hình khối, những
đường nét sắc nhọn như đập vào mắt người xem:
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hõm hòm hom
(Hang Cắc Cớ)
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
(Quán Khánh)


Đọc thơ Hồ Xuân Hương không chỉ có mắt nhìn, tai nghe mà nói chung các giác quan của ta đều
phải căng lên để cảm nhận. Từ đó cho thấy, hệ thống từ vựng trong thơ Hồ Xuân Hương hết sức

phong phú và đa dạng tạo nên vũ khí sắc bén để châm biếm, đả kích sâu cay.
Bên cạnh đó còn ngôn ngữ phong phua của kho tàng dân gian cũng được Hồ Xuân Hương vận
dụng rất thành công.
2.2.2 Giọng điệu châm biếm đả kích
Giọng điệu chủ đạo trong những sáng tác trào phúng thơ Nôm của Hồ Xuân Hương thể hiện rất
rõ ở giọng điệu châm biếm đả kích. Với giọng điệu này, nữ sĩ hướng tới mọi đối tượng, không bỏ
một ai, từ bọn vua chúa, quan lại đến những kẻ “hiền nhân quân tử”, bọn sư mô núp bóng cửa
chùa làm việc xấu. Đó là những lời đả phá, chế giễu một cách gay gắt. Thông qua giọng điệu đó
bà đã không ngần ngại vạch trần những thói hư tật xấu, những bộ mặt giả nhân giả nghĩa, “ngụy
quân tử”. Với mỗi đối tượng, giọng điệu ấy lại biến hóa linh hoạt.
Chẳng hạn như với bọn sư mô, nhà thơ chỉ phác họa vài nét nhưng người đọc vẫn nhận được
giọng điệu châm biếm thâm thúy, sâu cay của Hồ Xuân Hương về những cảnh “chướng tai gai
mắt” ở nơi thâm nghiêm: sư cụ đang mãi “đáo nơi neo”, chú tiểu thì bỏ kinh kệ, bỏ cả “chày
kinh”. Giọng thơ châm biếm khá chua cay:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vẻ gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn sang Tây Trúc
Trái gió nên cho phải lộn lèo
Với bọn đạo đức giả, những kẻ “xấu nói tốt, dốt nói chữ” những kẻ hợm hĩnh, khoe khoang
giọng điệu châm biếm của Hồ Xuân Hương ngoài việc bóc trần thói đôt nát của bọn chúng còn
thể hiện giọng châm biếm của bậc bề trên “chị” đối với bọn đàn em:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy cho làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa
Cách gọi “ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể hiện rất thành công bản chất ti toe
của những anh nửa trẻ con nửa người lớn. Bọn chúng chỉ là những kẻ “ngựa non háu đá”, hợm
hĩnh chứ thực chất không có một chút học thức thật sự gì.
Giọng điệu châm biếm ấy lại trở nên chua xót khi bà thể hiện hoàn cảnh của những người đàn bà
không chồng mà chửa. Hay khi nghĩ về chính hoàn cảnh bất hạnh của mình thì giọng điệu ấy lại

trở nên mỉa mai gay gắt:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Không chỉ xót xa, chế giễu, giọng điệu châm biếm, đả kích còn hướng tới khẳng định một bản
lĩnh – bản lĩnh Hồ Xuân Hương:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
Từ những điều trên đã cho chúng ta thấy, tiếng cười của Hồ Xuân Hương bao giờ cũng bao hàm
hai mặt: mặt phê phán đả phá và mặt ngợi ca khẳng định. Tiếng cười đơn thuần chỉ tạo ra niềm
vui tức thời cho con người, còn tiếng cười sâu sắc phải là tiếng cười có giá trị nhân đạo. Nó
không chỉ phê phán mà còn ngợi ca, khẳng định bênh vực con người. Tiếng cười của Hồ Xuân
Hương cũng vậy! Bên cạnh việc tố cáo cả một bè lũ phong kiến thống trị trụy lạc, xa hoa thì


tiếng cười trong thơ nữ sĩ còn hướng tới bênh vực những người phụ nữ bất hạnh, chân trọng ngợi
ca những phẩm chất của họ và đặc biệt bản lĩnh của chính bản thân mình.
2.2.3 Kế thừa và sáng tạo lối thơ Nôm thuần túy
Tiếp xúc với thơ Hồ Xuân Hương người đọc được tiếp xúc với tiếng nói thuần túy của dân tộc,
không điển tích cao xa, không chữ sách thông thái. Thơ bà gần với ngôn ngữ bình dân. Câu thơ
thường chỉ như một lời nói cửa miệng:
- Mười bảy hay là mười tám đây?
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ!
Đặc biệt những lời nói ấy được bà đưa vào luật lệ thất ngôn rất tự nhiên:
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Những hình ảnh hết sức bình dân, quen thuộc với đời sống hàng ngày cũng được bà đưa vào
trong thơ như những thi liệu hết sức đắc lực phục vụ cho ngòi bút trào phúng của mình. Nào là
hình ảnh chiếc bánh trôi nước, cái quạt, cây đu, con ốc, quả mít… Hồ Xuân Hương lấy những

vật rất tầm thường mà tự ví mình để chọc thiên hạ và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người phụ
nữ, nàng muốn đả phá mạnh mẽ bộ mặt đạo đức giả của xã hội phong kiến (chẳng hạn như hình
ảnh chiếc bánh trôi bị người ta mân mó nhưng nó vẫn “giữ tấm lòng son”). Hồ Xuân Hương đã
thổi một làn gió khác vào hai thể thơ tứ tuyệt và bát cú khiến nó không còn bị gò bó mà thanh
thoát, thoải mái.
Tuy nhiên không phải vì những lời nói dân giã mà mất đi giá trị thơ của Hồ Xuân Hương, bà vẫn
tạo được những thành công đặc sắc dựng nên những bức tranh lạ thường và tràn đầy sức sống:
Bốn cọc khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng…
Hồ Xuân Hương còn sử dụng lối nói lái, ỡm ờ của dân gian trong các truyện tiếu lâm, truyện
cười và cũng không ngần ngại khi văng tục:
Quán Sư sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đao nơi neo
(Chùa Quán Sứ)
Đầu sư há phải gì... bà cốt
Bé ngọ con ong bé cái nhầm
(Sư bị ong châm)
Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày cũng như thành ngữ, tục ngữ, lối ca dao cũng được bà vận dụng
hết sức thành công chính xác đến “ghê người”.
Bên cạnh việc vận dụng ngôn ngữ dân gian, lối thơ Nôm thuần túy mà Hồ Xuân Hương còn tạo
cho mình một phong cách riêng thể hiện một bản lĩnh sáng tạo. Bà có ý thức nâng những ngôn
ngữ đời thường lên những tầm biểu hiện cao. Chẳng hạn việc Hồ Xuân Hương dùng hai chữ
“xọc”và “dòm” trong bài “Động Hương Tích” ( so sánh với “bước” và “nhìn”: gợi cảnh đông
đúc, gợi liên tưởng đến hoạt động tính giao.). Những con chữ trong thơ bà như nhảy múa rất tài
tình. Bà dùng trong một bài thơ 27 chữ mà có đến 5 chữ chỉ những con vật cùng loài cóc: (chẫu)
chàng, (nhái) bén, nòng nọc,
(chẫu) chuộc, đây là một sự cố ý nghệ thuật để chế giễu cái chết của Tổng Cóc...
Chính việc vận dụng ngôn ngữ dân gian và nâng lên một tầm cao, Hồ Xuân Hương đã khẳng

định được tài năng vượt trội của mình vừa thể hiện thành công ngòi bút trào phúng vừa thể hiện


bản lĩnh thơ của mình. Xuân Diệu mệnh danh Hồ Xuân Hương là “bà chúa thơ Nôm” quả là
đúng đăn!
KẾT LUẬN
Có thể nhận thấy rằng trên thế giới những nhà thơ thiên tài trữ tình không nhiều lắm và càng
hiếm hoi khi nhìn sang lĩnh vực thơ trào phúng nhất là đối với phụ nữ. Nhưng ở Việt Nam ta lại
có một thiên tài trào phúng và lại là nữ. Ở Hồ Xuân Hương không phải chỉ có tiếng cười, lời chế
giễu... mà trên những cái ấy là tiếng kêu than uất ức, thậm chí có cả nước mắt mà bà cố nuốt đi.
Đọc thơ Xuân Hương, ta càng thấy thấm thía với ý của Xuân Diệu : “Những nhà trào phúng vĩ
đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng lời nói, họ ném cả trái tim của họ, ném cả cuộc
đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực
chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”. Cuộc đời Hồ Xuân Hương và thơ bà là
một hiện tượng hết sức phức tạp, nhiều điều còn chưa rõ ràng nhưng dù sao với những tài liệu
mà hiện chúng ta đang có thì con người và thơ Hồ Xuân Hương là một niềm tự hào trong văn
học Việt Nam – một nữ thi sĩ đầy bản lĩnh và tài hoa



×