Thơ Nôm Hồ Xuân Hương Từ góc nhìn văn bản học
GS.TS. Kiều Thu Hoạch
Viện Nghiên cứu Văn hóa
“Những kết luận thu được do kết quả nghiên cứu văn bản nhiều khi đã lật nhào những lập luận
thông minh nhất của các nhà nghiên cứu văn học” (Đ.X. Likhatsôp).
Quả có như vậy, bởi trong thực tiễn thì công tác nghiên cứu văn bản bao giờ cũng phải là tiền đề
của công tác nghiên cứu văn học. Lấy ngay việc nghiên cứu văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương
mà nói; nếu người nghiên cứu không đọc được chữ Nôm, không am tường lý thuyết văn bản
học (textologie), thì làm sao có thể tuyển chọn được những bài thơ khả dĩ coi là thơ Nôm Hồ
Xuân Hương, trong bộn bề những bản viết tay (manuscrit) hoặc những bản sao (facsimile) đang
nằm tản mát trong kho sách Hán Nôm. Mà đâu chỉ giỏi chữ Nôm, chỉ nắm vững lý thuyết văn
bản học là đủ làm nghề nghiên cứu thơ văn Hán-Nôm. Với một bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương
chẳng hạn, nếu không hiểu từ Việt cổ, không nắm vững điển cố văn học Hán, không có tri thức
văn hóa-lịch sử dân tộc sâu rộng... thì làm sao có thể chú thích, chú giải chính xác. Mà đã không
phiên âm đúng, không chú giải đúng thì nói gì đến việc bình giảng văn học đúng với cái hay cái
đẹp của bài thơ...
Gần đây, xuất hiện công trình Hồ Xuân Hương, con người - tư tưởng - tác phẩm của Hoàng
Bích Ngọc (Nxb Văn hóa - Thông tin, H, 2003, 748 trang); được đánh giá “là công trình nghiên
cứu đồ sộ công phu... trước Hoàng Bích Ngọc chưa ai làm được đầy đủ, nghiêm túc như thế”
(Hồ Sĩ Giàng). Vậy người viết xin lấy ngay công trình hoành tráng này như một lệ chứng để
tiện trao đổi về lĩnh vực văn bản học thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Trước hết, xin nói ngay, trong bài viết này người viết chỉ bàn về vấn đề văn bản thơ Nôm Hồ
Xuân Hương, mà không bàn về các vấn đề khác như thơ chữ Hán, tiểu sử, v.v... Trong công
trình của mình, Hoàng Bích Ngọc có nêu các tài liệu trích dẫn để tuyển chọn thơ Nôm truyền
tụng của Hồ Xuân Hương như sau:
1- Hồ Xuân Hương thi tập. Nhà in Xuân Lan 1913 và 1914 (gọi tắt Xuân Lan 1913, Xuân Lan
1914).
Theo đánh giá của Hoàng Bích Ngọc thì đây là những bản Quốc ngữ đầu tiên về thơ Hồ Xuân
Hương và là tài liệu có độ “trung thực” cao nhất trong các bản thơ Nôm truyền tụng mà chúng ta
có được (Sđd, tr.246). Sau đó, tác giả Hoàng Bích Ngọc còn cho rằng 3 tập Xuân Lan hiện còn
trong Thư viện Khoa học trung ương là “một tài liệu có giá trị về văn bản học” (Sđd, tr.247).
Lạ thật! Thơ Hồ Xuân Hương là thơ chữ Nôm, không rõ Hoàng Bích Ngọc căn cứ vào đâu mà
đánh giá bản Quốc ngữ Xuân Lan là “tài liệu có độ trung thực cao nhất trong các bản Thơ Nôm
truyền tụng mà chúng ta có được” và theo nguyên lý văn bản học nào mà coi là “một tài liệu có
giá trị về văn bản học”.
2- Xuân Hương thi tập. Bản khắc ván năm 1921 (gọi tắt: Xuân Hương thi tập 1921, hoặc Khắc
ván 1921). Hoàng Bích Ngọc cho biết bản này được ấn hành bởi Phúc Văn Đường. Ở Bản khắc
ván 1921 có những bài trùng với Bản khắc ván 1914, nhưng chữ nghĩa chính xác hơn (có ý
nghĩa và logic hơn), và cho biết nội dung có các bài sau: 1. Thơ hỏi nguyệt, 2. Thơ gửi cho ông
Chiêu Hổ, 3. Thơ ông Chiêu Hổ họa lại..., tổng cộng 73 bài.
Người đọc thấy tác giả công trình so sánh bản 1921 với bản 1914, lại có nhận xét này nọ, những
tưởng tác giả hẳn phải đối chiếu tỉ mỉ giữa hai văn bản. Ai dè, thực tế “nói vậy mà không phải
vậy”. Bức ảnh chụp bản Xuân Hương thi tập (Phúc Văn Đường tàng bản) tr.249, không phải là
bản 1921, tức Bản khắc năm Khải Định 6, mà là Bản khắc năm Canh Ngọ, Bảo Đại 6 (1930).
Thực ra, cùng là ván gỗ của Phúc Văn Đường, nhưng Bản khắc năm Bảo Đại 6 (1930) với Bản
khắc năm Khải Định 6 (1921) có số lượng và thứ tự các bài thơ không hoàn toàn như nhau. Bản
khắc 1921 mở đầu là bài Thơ tự tình, rồi đến bài Đề nhị mĩ nhân đồ... Tổng cộng cả thơ Nôm
Hồ Xuân Hương và thơ Nôm của các tác gia khác là 42 bài. Bản này hiện có ở Thư viện Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, số ký hiệu: VNb 21a. Xin mời Hoàng Bích Ngọc đến tra cứu lại.
Nếu chúng tôi không lầm, thì Hoàng Bích Ngọc chưa từng tiếp xúc trực tiếp với Bản khắc 1921,
mà chỉ lấy theo tư liệu của GS. Nhan Bảo (Những phát hiện mới về Hồ Xuân Hương, NXB.
KHXH, H, 2000). Khi photo, Hoàng Bích Ngọc đã che hoặc xóa chữ B ở dưới cột chữ Hán
Xuân Hương thi tập, nhưng với con mắt nhà nghề thì vẫn thấy được đó là bản mà ông Nhan Bảo
đem từ Pháp về, bởi ở Việt Nam hiện không có bản này. Lý do đơn giản nữa là chỉ cần nhìn tự
dạng là thấy khác nhau hẳn. Hơn nữa bản của sách Nhan Bảo, lật tờ bìa trong có ghi rõ: Bảo
Đại Canh Ngọ niên tân san. Còn bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chữ “Xuân Hương thi
tập” ở cột giữa, bên tả có cột chữ Phúc Văn Đường tàng bản, bên hữu có cột chữ Phụ: Danh
gia ca vịnh, và trên cùng trang giấy có dòng chữ in ngang: Long phi Tân dậu Xuân tân san. Đó
là những yếu tố văn bản mà người nghiên cứu văn bản học không thể bỏ qua khi xem xét một
văn bản cụ thể.
3- Quốc âm thi tuyển. Bản khắc ván năm 1914 (và 1909) (gọi tắt: Khắc ván 1914 và Khắc ván
1909).
Theo giới thiệu của tác giả Hoàng Bích Ngọc thì bản này hiện có ở Thư viện Hán Nôm, bản
khắc có kèm theo phiên âm ra chữ Quốc ngữ, gồm 39 bài. Hoàng Bích Ngọc còn cho biết ông
Hoàng Xuân Hãn cũng có bản này, nhưng số trang ít hơn, gồm 27 bài... Sau khi miêu tả tờ bìa
Bản khắc ván 1914, theo miêu tả của Hoàng Xuân Hãn, tác giả Hoàng Bích Ngọc kết luận:
“Như vậy, trang đầu của cuốn in khắc ván mà Hoàng Xuân Hãn có, giống như trang đầu của
Bản khắc ván 1914 có trong Thư viện Hán Nôm (bản chụp hình ở trên); nội dung 29 bài đầu
cũng giống hệt nhau (và giống Bản khắc ván 1909), và số lượng bài của bản khắc ván mà
Hoàng Xuân Hãn có ít hơn so với bản khắc ván trong Thư viện Hán Nôm là 10 bài (10 bài
cuối)” (Sđd, tr.249).
Đọc qua đoạn văn giới thiệu văn bản Bản khắc ván 1914 hiện đang được lưu trữ ở Thư viện
Hán Nôm, cùng với những thông tin về nội dung văn bản như: có kèm theo phiên âm ra chữ
Quốc ngữ gồm 39 bài, rồi cả bản chụp hình trang bìa,... người đọc nói chung chắc sẽ vô cùng tin
tưởng vào sự nghiêm túc của quy trình khảo sát văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Hoàng
Bích Ngọc. Tuy nhiên, với chúng tôi thì lại không khỏi có những nghi vấn cần trao đổi với tác
giả. Trước hết, nếu đã biết Bản khắc ván 1909, thì tại sao tác giả không giới thiệu bản này mà
lại giới thiệu một bản có niên đại muộn hơn - tức bản 1914. Xem bức ảnh chụp trang bìa Quốc
âm thi tuyển thì cột bên trái ghi là Phụ: Danh gia ca vịnh, trong khi tác giả lại dẫn giải là Phụ:
Danh gia thi ca (Thi ca nhà có tiếng). Như thế rõ ràng là hai bìa không khớp nhau. Đến số
lượng bài, Hoàng Bích Ngọc cho biết bản của Thư viện Hán Nôm gồm 39 bài và có liệt kê cụ
thể từ bài 1: Vịnh chơi chùa (Thực ra nguyên văn là Du cổ tự) cho đến bài 39: Người khất cái
(Thực ra nguyên văn là Vịnh khất cái). Nhưng thực tế, bản của Thư viện Hán Nôm, mang số ký
hiệu VNb 77, lại gồm 44 bài, tức là sau bài Vịnh khất cái, còn có 5 bài nữa chưa được Hoàng
Bích Ngọc để mắt tới. Khảo cứu văn bản như vậy rõ ràng là thiếu cẩn trọng, và khó tránh khỏi
người ta có thể quy kết tác giả chỉ là “ăn theo nói theo” chứ không sờ mó văn bản thực sự.
4- Di cảo A. Landes 1893 (gọi tắt Landes 1893).
Tác giả Hoàng Bích Ngọc căn cứ theo Hoàng Xuân Hãn trong phần phụ của bài viết Hồ Xuân
Hương với vịnh Hạ Long (Tập san Khoa học xã hội, Paris, số 10-11, tháng 12-1984) để giới
thiệu nội dung các bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương, mà theo Hoàng Xuân Hãn, là do Antony
Landes, một người Pháp làm giám đốc Trường thông ngôn ở Sài Gòn, thuê chép vào năm 1892.
Tác giả có dẫn lời bình giải, phân tích nội dung các bài thơ Nôm này của Hoàng Xuân Hãn, và
liệt kê danh mục các bài thơ ấy, gồm tất cả 57 bài, được ông Hoàng Xuân Hãn gọi là “Di cảo
Landes”.
Chúng tôi thì không lạ gì cái tên Antony Landes (1850-1893), bởi đây chính là người đã dịch
truyện thơ Nhị độ mai ra tiếng Pháp (Les pruniers refleuris; poème Tonkinois traduit par Antony
Landes, Saigon, 1883). A. Landes cũng là người đã sưu tầm, biên soạn bằng tiếng Pháp nhiều
truyện dân gian Việt Nam, chẳng hạn:
- Contes et légendes annamites (NXB. Thuộc địa, Saigon, 1886), trong đó có truyện Tấm Cám
sưu tầm ở Nghệ An.
- Contes Tjames (Truyện cổ tích Chăm) in tại Saigon, 1887...
Nhưng việc Landes thuê chép thơ Nôm Hồ Xuân Hương thì chưa thấy có tài liệu nào cho biết.
Thiết nghĩ đây là việc của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (École Française d’Extrême - Orient)
đâu phải việc của A. Landes. Không rõ ông Hoàng Xuân Hãn căn cứ vào tài liệu nào mà cho
biết như vậy? Bởi giả dụ A. Landes nếu có làm việc đó thực, thì Hoàng Xuân Hãn (1908-1996)
cũng không thể được chứng kiến, vì A. Landes đã chết đuối ở sông Sài Gòn từ ngày 23/2/1893.
Vậy thông tin của ông Hoàng Xuân Hãn về cái gọi là “Di cảo Landes” thật khó tin. Mà đọc kỹ
lại ý kiến của ông về Di cảo này thì toàn là ngôn từ giả định: “Chắc là trong thời kỳ này y - tức
Landes - thuê một người Việt tên Lê Quý góp thi văn Nôm, rồi chép vào giấy lệnh...” (Sách của
Hoàng Bích Ngọc, tr.251). Hoặc “Cũng có thể, khi Landes chưa ra Bắc, y đã tổ chức sự sao
chép này rồi” (Sđd, tr.251). Rõ ràng đó chỉ là những lời phỏng đoán của Hoàng Xuân Hãn, làm
sao có đủ chứng lý để tin được cái gọi là “Di cảo Landes” như một nguồn văn bản được chép
sớm nhất về thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Ấy vậy mà tác giả Hoàng Bích Ngọc, vốn là một nhà khoa học tự nhiên, thích bàn về tính khoa
học, tính logic trong thơ Hồ Xuân Hương, lại có thể nhắm mắt tin theo không hề băn khoăn gì
về cái gọi là “Di cảo Landes”. Kể cũng lạ!
5- Giai nhân di mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, 1916.
Theo Hoàng Bích Ngọc, đây là cuốn sách Quốc ngữ ra đời sau cuốn Xuân Lan 1913. Nội dung
đã dẫn giải, tiểu thuyết hóa và tuyển chọn được 47 bài thơ Hồ Xuân Hương. Cũng theo tác giả
thì đây là cuốn sách đã chi phối rất cơ bản việc nghiên cứu, tuyển chọn thơ Hồ Xuân Hương
trong suốt thế kỷ XX.
6- Văn đàn bảo giám 1932 (in lần thứ ba) kèm theo danh mục 51 bài... Không thấy Hoàng Bích
Ngọc bình luận gì về tài liệu này.
7- Đại Nam đối thi giống bản Landes 1893 - phần C có tên đề Hồ Xuân Hương thi tập. Sau đó
là phần liệt kê tên các bài thơ, gồm tất cả 49 bài... Không thấy tác giả bình luận gì, cũng không
cho biết xuất xứ của tài liệu.
8- Nam âm thi tập giống bản Landes 1893 - phần A có tên đề là “Phụ lục tạp ký Quốc âm thi
tập”. Sau đó là phần ghi tên 16 bài thơ. Không thấy tác giả phân tích, dẫn giải gì. Cũng không
cho biết xuất xứ tài liệu.
9- Đại Nam đối liễn thi tập giống như bản Landes 1893 - phần B có tên đề Đại Nam đối liên thi
tập. Tác giả dẫn theo nhận xét của Hoàng Xuân Hãn, đánh giá đây là một tài liệu tạp nham
những chuyện văn thơ liên hệ đến các danh nhân, trong đó có một số liên hệ đến Xuân Hương.
Tiếp đó tác giả liệt kê một danh mục gồm 36 bài thơ. Không có thêm lời dẫn giải, phân tích.
Cũng không cho biết xuất xứ tài liệu.
10- Các cuốn nghiên cứu tuyển thơ Hồ Xuân Hương từ đầu thế kỷ đến năm 2000, có kê trong
phần Tài liệu tham khảo.
Như vậy, trong 10 nguồn tài liệu mà tác giả Hoàng Bích Ngọc dùng làm cơ sở cho việc tuyển
chọn thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, thì có 4 tài liệu là chữ Quốc ngữ, một tài liệu
không rõ lai lịch, diện mạo được gọi là bản Landes, còn 5 tài liệu mặc dầu có tên gọi Hán Nôm,
song đều chưa đạt yêu cầu về văn bản học như chúng tôi đã nêu nhận xét cụ thể. Với các tài liệu
số 7, số 8, số 9, Hoàng Bích Ngọc đều nói giống bản Landes, nhưng giống như thế nào thì
không thấy nêu cụ thể. Hơn nữa, với tài liệu số 9, tác giả lại dẫn lời của Hoàng Xuân Hãn đánh
giá đây là “một tài liệu tạp nham”. Như vậy giống bản Landes cũng có nghĩa là giống một loại
tài liệu tạp nham. Một nguồn tài liệu tạp nham như thế sao còn dùng để làm cơ sở tuyển chọn
thơ Nôm Hồ Xuân Hương? Nhân đây chúng tôi cũng xin nói thêm về cái gọi là bản Landes.
Hoàng Bích Ngọc dẫn lời Hoàng Xuân Hãn cho biết, bản Landes cũng có ở Thư viện Viện Viễn
Đông bác cổ Pháp. Vậy tại sao Maurice Durand, một học giả Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông
bác cổ Pháp (1947-57), mà trong công trình L’œuvre de la poétesse Vietnamienne Hồ Xuân
Hương (Paris, 1968) - Tác phẩm của nữ thi sĩ Việt Nam Hồ Xuân Hương, lại không hề biết gì
đến “Di cảo Landes”. M. Durand đọc chữ Nôm khá tốt (cũng có những chữ đọc chưa chuẩn),
ông đã dịch thơ Nôm Hồ Xuân Hương ra tiếng Pháp, có khảo dị, chú thích nghiêm túc, nhưng
chỉ lấy bản Lĩnh Nam quần hiền văn thi diễn âm tập (AB.398) làm bản nền (texte de base), và
tham chiếu thêm các dị bản (variantes) của các bản Quốc văn tùng ký (AB.383), Liệt truyện thi
ngâm (AB.147)... theo đúng phương pháp biên khảo văn bản học. Qua đây, chúng tôi càng thấy
cái gọi là “Di cảo Landes” chỉ là sự phỏng đoán thiếu chứng tích lịch sử, và do đó không đáng
tin cậy. Chúng tôi cũng đã thấy tài liệu Nam âm thi tập (trong đó chép thơ Nôm Hồ Xuân
Hương), trang bìa có ghi “Lê Quý phụng tả” (Lê Quý vâng mệnh chép), nhưng không ghi rõ là
vâng mệnh ai, và cũng không ghi năm tháng sao chép. Đây là tài liệu do GS. Nhan Bảo sao chụp
từ Thư viện Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Paris (Sđd). Và cái tên Lê Quý cũng chính là tên
người Việt được ông Hoàng Xuân Hãn đoán là người đã chép thuê tài liệu cho A. Landes. Chỉ
đáng tiếc là ông Hoàng Xuân Hãn khi nói về chuyện sao chép này lại không sao chụp văn bản
Nôm kèm theo, nên rốt cuộc cái gọi là “Di cảo Landes” do ông đặt ra vẫn hoàn toàn mơ hồ,
không có cơ sở gì để chứng tỏ đó là tài liệu chép thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã có từ năm 1892.
Tóm lại, cách tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Hoàng Bích Ngọc là cách làm nửa vời.
Thực tế, không khác gì cách làm của những tác giả đi trước, nghĩa là vẫn lấy những văn bản chữ
Quốc ngữ để tuyển chọn thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Có lẽ sức hấp dẫn của Bà Chúa thơ Nôm đã
làm lu mờ cái tư duy lý tính của nhiều người, nên họ đã quên mất một điều sơ đẳng nhất, đó là
Hồ Xuân Hương làm thơ bằng chữ Nôm được ghi lại bằng văn bản Nôm chứ không phải làm
thơ bằng chữ Quốc ngữ. Và như thế, người thưởng thức, người nghiên cứu văn học có thể đọc
qua bản “chuyển ngữ”, bản “phiên âm”; nhưng người tuyển chọn văn bản thì nhất thiết phải biết
chữ Nôm và phải khảo sát, tìm tòi từ nguyên bản chữ Nôm.
Sau đây, chúng tôi xin dẫn chứng ngay một số thí dụ trong công trình của Hoàng Bích Ngọc, để
thấy rằng tuyển chọn văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương mà không biết Hán-Nôm hoặc biết đại
khái, sẽ dẫn đến những sự hiểu lầm rất tai hại cho việc cảm thụ văn học.
Về bài Tức cảnh vũ hậu (Tức cảnh sau mưa). Bài thơ được ghi trong cuốn Họ Hồ trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam của Hồ Sĩ Giàng, với lời dẫn kể chuyện Hồ Xuân Hương thời trẻ về quê,
có hôm ra giếng gánh nước bị trượt ngã, vỡ cả đôi nồi đình gánh nước, nước đổ tung tóe; đám
trai làng cười giễu, Hồ Xuân Hương ứng khẩu bài Tức cảnh vũ hậu như sau:
Vén bức màn mây thấy mặt trời
Xanh xanh từng đám trắng từng nơi
Núi non cũng muốn nhô đầu dậy
Cây cỏ trăm hoa mỉm miệng cười
Hoàng Bích Ngọc đã bình giảng cả hai trang sách (tr.258-259), cho rằng nhà thơ có tấm lòng
hiền hậu độ lượng, rằng Hồ Xuân Hương là một tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp tự nhiên khuê
các... Hai câu mở đầu được giảng là: “Hiện lên hình ảnh một thiếu nữ bị ngã đến tối sầm mặt
mũi lại, rồi nàng vén được mảng tóc mây lên và thấy trời sáng lại - bầu trời xanh cao nắng đẹp”
(tr.258). Rồi cuối cùng, tác giả tỏ ý trách mọi người: “Thế nhưng, bài thơ này đã không được
các cuốn tuyển chọn thơ Hồ Xuân Hương đưa vào, bởi nó có phong cách khác với dòng thơ
Nôm truyền tụng quen biết mà người ta đã gán cho Hồ Xuân Hương” (tr.259).
Đúng là trong các sách tuyển thơ Nôm Hồ Xuân Hương xưa nay chưa ai tuyển bài này, bởi có ai
bỏ công sức tìm tòi trong kho sách Hán Nôm đâu mà biết có bài này. Tuy nhiên, ông Trần
Thanh Mại và người viết bài này thì có biết. Vào đầu năm 1962, bấy giờ ông Trần Thanh Mại là
Tổ trưởng Tổ văn học Việt Nam cổ- cận đại, còn tôi là tổ viên phụ trách tư liệu dịch Hán Nôm
của tổ, đồng thời cũng thường giúp Tổ trưởng tìm tư liệu Hán Nôm khi cần thiết; nhân dịp ông
Trần Thanh Mại chuẩn bị chuyên đề về Hồ Xuân Hương để báo cáo trước Viện Văn học, chính
tôi đã cung cấp cho ông bài thơ Nôm này. Nguyên trong sách Đăng khoa lục sưu giảng của
Trần Tiến (ký hiệu A.224), chép lại vào niên hiệu Tự Đức 14, Tân Dậu (1861), ở phần Phụ lục
có ghi bài thơ Nôm cùng lời dẫn chữ Hán như sau: “Hà Nội tỉnh, nữ tử Xuân Hương hành lộ
thất túc, thường lộ, tự vịnh” (Cô Xuân Hương ở tỉnh Hà Nội, đi đường sẩy chân ngã tốc váy, tự
vịnh thơ).
Vén đám mây lên tỏ mặt trời
Lác coi từng đám rõ từng nơi
Giang sơn đâu đó nhô đầu dậy
Hoa cỏ quen hơi mỉm miệng cười
Ông Trần Thanh Mại rất thích thú bài này và nhận xét: “Bài thơ sinh động thật, ma quái thật, Hồ
Xuân Hương thật!” (Trần Thanh Mại: Tình hình nghiên cứu Hồ Xuân Hương và vài ý kiến về
việc đánh giá những thơ lâu nay được coi là của Bà - Báo cáo chuyên đề trình bày tháng 9 năm
1961, tài liệu in ronéo của Viện Văn học). Tuy cùng là thơ chữa thẹn khi bị ngã, nhưng bài Tức
cảnh vũ hậu chỉ là cái bóng méo mó của bài chép trong Đăng khoa lục sưu giảng. Một bài sang
trọng và một bài quê mùa khác nhau hẳn. Có lẽ chúng tôi khỏi phải bình luận gì thêm. Vả lại
khuôn khổ bài viết cũng không cho phép nói dài dòng.