Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Một vài biểu hiện về sự sáng tạo ngôn từ nghệ thuật trong thơ văn tú xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.9 KB, 4 trang )

Một vài biểu hiện về sự sáng tạo ngôn từ nghệ thuật trong
thơ văn Tú Xương
Thứ ba, 03 Tháng 1 2012 14:30 Quản trị viên
ThS. Nguyễn Thị Mai
1. Sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật là một vấn đề mang tính tất yếu của văn học, bởi vì vốn từ vựng của một ngôn ngữ
dù có phong phú đến mấy vẫn là có hạn, cấu trúc ngữ pháp của một ngôn ngữ dù có đa dạng đến đâu cũng không thể
thoả mãn nhu cầu giao tiếp mà nhà văn hướng tới. Hiện thực thì vô cùng mà ngôn ngữ thì có hạn. Người viết, khi
đứng trước một sự kiện, một trạng thái, một nét tâm hồn… nào đó chưa có cách biểu hiện trong ngôn ngữ, hoặc đã
có nhưng không thoả mãn được yêu cầu biểu đạt, họ phải tìm tòi cách diễn đạt mới. Sự tìm tòi ấy chính là quá trình
sáng tạo ngôn từ nghệ thuật, một biểu hiện của sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật.

Sáng tạo ngôn từ nghệ thuật là quyền và cũng là yêu cầu ít nhiều mang tính bắt buộc đối với mỗi nhà văn. Đồng
thời, chính sự sáng tạo này là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú, độc đáo, hấp dẫn,
mới mẻ của mỗi tác giả, tác phẩm văn học.
Tuy nhiên, vấn đề sáng tạo ngôn ngữ nói chung, sáng tạo ngôn từ nghệ thuật nói riêng không phải là một việc làm
tuỳ tiện mà nó phải được dựa trên cơ sở ngôn ngữ dân tộc và phù hợp với cảm thức ngôn ngữ của dân tộc. Có như
vậy, sự sáng tạo ấy mới thực sự có giá trị và được cộng đồng chấp nhận.
Vấn đề sáng tạo ngôn từ nghệ thuật có liên quan đến nhiều yếu tố như khả năng cảm thụ văn học, vốn sống, sự hiểu
biết và tài năng nghệ thuật của tác giả. Ngoài ra, những yếu tố như hoàn cảnh sống, điều kiện lịch sử xã hội, thời đại,
môi trường văn hoá tư tưởng… cũng có ảnh hưởng ít nhiều tới vấn đề sáng tạo văn chương nói chung, sáng tạo ngôn
từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học của mỗi nhà văn, nhà thơ nói riêng.
2. Tú Xương là một nhà thơ trào phúng lớn của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX nói riêng, của văn học
Việt Nam nói chung. Một trong những yếu tố làm nên giá trị của những sáng tác thơ văn Tú Xương chính là yếu tố
ngôn từ nghệ thuật. Nguyễn Công Hoan đã từng suy tôn Tú Xương là bậc “thần thơ thánh chữ” [1;83]. Giáo sư
Nguyễn Đình Chú cho rằng “Tú Xương là bậc thầy về ngôn ngữ trong làng thơ” [7;172], ông là nhà thơ “đã cắm
thêm một cái mốc trên bước đường phát triển nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca tiếng Việt” và “là một vị tư lệnh có tài lớn
trong việc điều khiển đội quân ngôn từ. Ngôn từ thơ Tú Xương có khả năng biểu hiện sự sâu sắc cực độ của thế giới
trữ tình, sự phong phú, đa dạng và huyền diệu của thế giới cười. Thơ phú Tú Xương hầu như bài nào, câu nào, chữ
nào cũng hay, cũng chỉnh, khó ai thay đổi được…” [4; 219-220].
Đi vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ văn Tú Xương, chúng ta thấy rằng những nhận xét trên đây của các nhà
nghiên cứu là hoàn toàn có lý. Sự sáng tạo ngôn từ nghệ thuật trong thơ văn Tú Xương là vô cùng phong phú, đa


dạng mà trong phạm vi của một bài viết nhỏ không thể trình bày một cách thật đầy đủ, thấu đáo. Chúng tôi chỉ xin
nêu một số biểu hiện nổi bật, dễ thấy nhất như sau:
2.1. Gần gũi với ngôn ngữ của đời sống là một biểu hiện nổi bật về sự sáng tạo ngôn từ nghệ thuật trong thơ văn Tú
Xương.
Nói điều này là bởi vì một trong những đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ văn học trung đại là tính chất cách điệu,
tượng trưng cao độ. Thơ văn Tú Xương tuy vẫn là những sáng tác thuộc phạm trù văn học trung đại nhưng ít có
những điển tích, điển cố, những từ ngữ Hán Việt kiểu cách cầu kỳ. Tú Xương đưa rất nhiều ngôn từ, cách nói khẩu
ngữ với những hư từ, những từ ngữ nôm na, những từ cảm thán hoặc những từ ngữ thường dùng để hỏi, để mỉa,
thậm chí là cả những tiếng chửi vào thơ văn. Ví dụ như:
- Ới khỉ ơi là khỉ !
(Than sự thi)
- Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
(Thương vợ)
- Thằng tiểu Phù Long, bá ngọ mày.
(Chửi cậu Ấm)
- Tìm hươu chẳng thấy, cha thằng hoáng,
Xấu hổ khôn che mẹ cái lầm.
(Mẹ cái lầm)


- Xuống chân, lên mặt ta đây nhỉ,
Chẳng biết rằng dơ dáng dại hình.
(Gái buôn)
- Cha thằng nào có tiếc không cho.
(Thề với người ăn xin)
- Chẳng hay gian dối vì đâu vậy ?
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì !
(Chế ông huyện)…
Việc xuất hiện rất nhiều cách nói khẩu ngữ trong các sáng tác thơ văn Tú Xương không chỉ đánh dấu sự thoát ly với
phong cách ngôn ngữ văn học trung đại mà còn góp phần quan trọng để tạo nên sự độc đáo, riêng biệt của tiếng cười

trào phúng Tú Xương so với tiếng cười trong thơ văn trào phúng của các tác giả trước và cùng thời với ông.
Sự gần gũi với ngôn ngữ đời sống của thơ văn Tú Xương còn được thể hiện qua việc vận dụng một cách linh hoạt,
khéo léo các thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân gian vào trong các sáng tác. Nhiều lời thơ, câu văn của Tú Xương có
dấu vết ảnh hưởng rất rõ ngôn ngữ, cách nói của văn học dân gian. Ví dụ thành ngữ “Tứ đốm tam khoanh” đã được
nhà thơ sử dụng sáng tạo trong bài Tự cười mình: “Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ / Rượu chè trai gái đủ tam khoanh”.
Những câu văn trong bài Văn tế sống vợ: “ Con gái nhà dòng / Lấy chồng kẻ chợ / Tiếng có miếng không / Gặp
chăng hay chớ” lại là sự sáng tạo của Tú Xương từ câu thành ngữ dân gian quen thuộc “Có tiếng không có miếng”.
Ở bài Không vay mà phải trả, Tú Xương còn vận dụng thành công một lúc ba câu thành ngữ là “Người ăn ốc, mình
đổ vỏ”, “phù thuỷ đền gà” và “đồng tiền nối liền khúc ruột”:
Nợ mướn van thay cũng chẳng xong,
Không vay mà trả một trăm đồng.
Kìa người ăn ốc đà khôn chửa,
Để tớ đền gà có hại không ?
Nào có bao nhiêu liền khúc ruột,
Thôi đừng đeo đuổi phất chân lông …
Còn có thể kể ra vô số các câu thơ, câu văn đã được Tú Xương sử dụng sáng tạo cách nói từ văn học dân gian như:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”, “Một duyên hai nợ âu đành phận” (Thương vợ) ; “Chim khôn sao khéo đỗ nhà
quan” (Mừng ông Cử lấy vợ kế) ; “Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm” (Bợm già) ; “Thả quít nhiều anh mong mắm
ngấu / Lên rừng mà hỏi chú đười ươi” (Gái buôn) ; “Cắm sào sâu quá nên thêm khổ” (Mẹ vợ với chàng rể) “Ở bể
ngậm ngùi cơn tới lạch / Được voi tấp tểnh lại đòi tiên” (Thói đời) ; “Ông bám ông ăn đứa trọc đầu / Đầu không có
tóc bám vào đâu” (Vay sư không được) ; “Nhà lính tính quan, ăn rặt những thịt quay, lạp xường, mặc rặt những quần
vân, áo xuyến / Đất lề quê thói, chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành” (Thầy đồ dạy
học-I)…
Việc sử dụng sáng tạo những thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân gian vào thơ văn như vậy đã làm cho ngôn ngữ thơ văn
Tú Xương trở nên gần gũi, bình dị với lối nói dân gian, đồng thời làm cho câu văn, câu thơ giàu hình ảnh, góp phần
thể hiện hiệu quả các sắc thái tình cảm và nội dung cần biểu đạt.
2.2. Sự sáng tạo ngôn từ trong thơ văn Tú Xương còn được thể hiện ở chỗ nhà thơ có một vốn từ vựng vô cùng
phong phú.
Ở thơ văn Tú Xương có nhiều sự vật, hiện tượng, hình ảnh, con người được xuất hiện trở đi trở lại, nhưng mỗi lần
nó lại được gọi bằng những cái tên khác nhau. Ví như trong số hơn một trăm bài thơ, Tú Xương đã 57 lần sử dụng

đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, với 13 từ được dùng khác nhau: ta (15 lần), tôi (9 lần), tớ (9 lần), anh (4 lần), ông (5
lần), mình (5 lần), min (1 lần), thầy (4 lần), bố (1 lần), con (1 lần), bác này (1 lần), ai (1 lần), em (1 lần).
Để chỉ bà Tú, vợ mình, nhà thơ cũng sử dụng 9 từ khác nhau trong 15 lần xuất hiện: vợ (4 lần), bu nó (2 lần), con
mụ (1 lần), mình (1 lần), mẹ mày (2 lần), cô (2 lần), mẹ đĩ (1 lần), mụ (1 lần), cô lái (1 lần)…
Vài ví dụ như trên cũng đã đủ cho thấy sự phong phú về vốn từ vựng của ông Tú đất Vị Xuyên. Tuy nhiên, nếu đi
sâu phân tích cách sử dụng mỗi từ ngữ trong từng trường hợp cụ thể khác nhau, chúng ta sẽ thấy việc sáng tạo, linh
hoạt trong nghệ thuật dùng từ của Tú Xương không phải chỉ là vấn đề hình thức đơn thuần mà nó thực sự có ý nghĩa
rất lớn trong việc biểu đạt nội dung ở mỗi tác phẩm thơ văn của nhà thơ.
2.3. Nói đến sự sáng tạo ngôn từ nghệ thuật trong thơ văn Tú Xương không thể không nói đến hiện tượng có một số
từ mới được nhà thơ sáng tạo ra trên cơ sở của những từ đã có sẵn. Chúng tôi đã thống kê ở Thơ văn Trần Tế Xương
[1] rồi tra cứu trong Từ điển Tiếng Việt [7] và thấy rằng, có những từ được Tú Xương sử dụng không có trong từ
điển mà chỉ có những từ gần âm, gần nghĩa với chúng mà thôi. Chẳng hạn một số từ sau:
- Ỳ èo (Rác tai đà lắm sự ỳ èo – Không chiều đãi)
- Lóng đóng (Chỉ vì quen lối thị thành, nên một tuổi một già hoá ra lóng đóng – Hỏng khoa Canh Tí)
- Ngập ngọng (Ngẫm đến câu “quyển thổ trùng lai”, nói ra ngập ngọng – Hỏng khoa Canh Tí)
- Nhạt nhèo (Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông – Đêm hè)
- Ỳ ào (Ỳ ào tiếng học nghe không rõ – Mưa tháng bảy)
- Bớp bơ (Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm – Bợm già)
- Nhề nhàng (Ăn nói nhề nhàng khác giọng Ngô – Giễu ông đồ Bốn ở phố Hàng Sắt)


- Nhẻ (Biết nhau cho lắm thêm buồn nhẻ - Cái nợ)…
Kiểu sáng tạo này, theo ông Bùi Đức Tịnh [6] thì đó là kiểu sáng tạo từ bằng cách nói trại.
Cùng một kiểu sáng tạo này, trong thơ văn Tú Xương còn có sự xuất hiện những từ ngữ phiên âm âm đọc của một số
tiếng ta, tiếng Tàu, tiếng Pháp kiểu như: “Ă, â, u, ơ ngọn bút chì” (Đi thi), “Hẩu lố khách đà ba bảy chú / Mét xì Tây
cũng bốn năm ông” (Phòng không), “Cống hỉ, Mét xì thông mọi tiếng” (Mai mà tớ hỏng), “Thôi thôi lạy mợ xanh
căng lạy” (Không học vần Tây), “Rứt cái mề đay quẳng xuống sông / Thôi thôi tôi cũng mét xì ông” (Cô Tây đi tu)

Việc tạo ra và đưa vào sử dụng một số từ ngữ mới như đã nêu trên trong thơ văn Tú Xương rõ ràng là một dụng ý
nghệ thuật của tác giả: góp phần làm rõ tính chất lố lăng, dở Tây, dở ta của xã hội nước ta trong buổi giao thời lúc

bấy giờ. Sáng tạo này của Tú Xương thực sự là một đóng góp mới mẻ vào sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân
tộc.
2.4. Một biểu hiện khác của sự sáng tạo ngôn từ nghệ thuật trong thơ văn Tú Xương là nhà thơ đã có nhiều kiểu láy
từ, lặp từ, kết hợp từ rất đa dạng, linh hoạt như: “chí cha chí chát”, “đen thủi đen thui” (Xuân) ; “thầy đồ thầy đạc”,
“dạy học dạy hành” (Thầy đồ dạy học) ; “khăn khăn áo áo”, “bút bút nghiên nghiên” (Đêm hè) ; “đi đẩu đi đâu”,
“ngày tết ngày tung”, “buồn rĩ buồn rầu” (Câu đối làm hộ cháu gái khóc ông) ; “đâu đâu đâu”, “thế thế thế” (Câu đối
Tết) ; “tẻo tèo teo” (Khen người Hàng Sắt) ; “cái thủ khoa”, “phường hay chữ” (Khoa Canh Tí) ; “ngoi đít vịt”,
“ngỏng đầu rồng” (Giễu người thi đỗ) ; “tình dơi chuột” (Thú cô đầu) ; “cái miếng phong tình” (Già chơi trống bỏi) ;
“mắc giọng tình” (Gái buôn) ; “đi hót của trời” (Hót của trời) ; “ăn đứa trọc đầu” (Vay sư không được)…
Có khi Tú Xương còn có những kiểu dùng từ ngữ rất ấn tượng. Ví như một số từ ngữ trong các câu thơ, câu văn sau:
- Ý hẳn thịt xôi lèn chặt dạ,
Cho nên con tự mới thòi ra.
(Ngày xuân của làng thơ)
- Ông trông lên bảng thấy tên ông,
Ông tớp rượu vào ông nói ngông. (Đi thi nói ngông)
- Tế đổi làm Cao mà chó thế
(Hỏng thi)
- Chép miệng bà nuôi to cái dại,
Phờ râu ông rể ẵm con so.
(Mẹ vợ với chàng rể)…
Những tìm tòi, sáng tạo trong sử dụng từ ngữ kiểu như thế không chỉ có ý nghĩa làm tăng thêm sắc thái và mức độ
trào phúng của thơ văn Tú Xương, khiến cho thơ văn ông có được dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc mà còn góp
phần làm phong phú thêm vốn ngôn ngữ văn học của dân tộc.
2.5. Ngoài những biểu hiện trên đây, vấn đề sáng tạo ngôn từ nghệ thuật của Tú Xương còn được thể hiện ở việc nhà
thơ đã sử dụng thủ pháp nói lái, chơi chữ trong một số bài như Đề ảnh, Không chiều đãi, Bỡn ông ấm Điềm, Thành
Pháo, Đùa ông Hàn…. Những cách nói lái, chơi chữ này vừa là sự kế thừa từ Hồ Xuân Hương, vừa là những sáng
tạo độc đáo của Tú Xương, làm cho người đọc có những liên tưởng hết sức thú vị, bất ngờ và làm tăng ý nghĩa mỉa
mai, giễu cợt trong những bài thơ trào phúng của Tú Xương.
3. Nói đến văn chương là nói đến vấn đề sáng tạo. Một trong những biểu hiện của sáng tạo văn chương là sự sáng
tạo về ngôn từ nghệ thuật.

Trong sáng tạo văn chương nói chung, trong lịch sử văn học Việt Nam nói riêng, vấn đề sáng tạo ngôn từ nghệ thuật
ở mỗi tác giả, tác phẩm là vô cùng đa dạng, phong phú, muôn hình nghìn vẻ, tạo nên nhiều phong cách nghệ thuật
độc đáo, riêng biệt.
Kế thừa và phát huy những thành tựu về sáng tạo ngôn từ nghệ thuật ở những tác giả đi trước, Tú Xương đã có
những đóng góp to lớn vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca tiếng Việt, góp phần quan trọng vào quá trình chuẩn bị
chuyển đổi phạm trù văn học ở văn học Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Sự sáng tạo ngôn từ nghệ thuật trong thơ văn Tú Xương được thể hiện dưới nhiều góc độ hết sức tinh tế, với nhiều
biểu hiện vô cùng sinh động. Bài viết này mới chỉ là những phác thảo có tính khái quát nhất về những biểu hiện ấy.
Hy vọng ở một dịp khác chúng tôi sẽ có những phân tích đầy đủ, cụ thể và thoả đáng hơn.

THƯ MỤC THAM KHẢO
1.Nguyễn Đình Chú-Lê Mai (1984): Thơ văn Trần Tế Xương, Nxb Giáo dục, Hà
2. Nguyễn Thiện Giáp (Chủ biên, 1995): Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà
3. Nguyễn Lai (1998): Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
4. Ngô Văn Phú (Biên soạn, 1998): Tú Xương con người và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà
5. Trần Đình Sử (1997): Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.
Nội.
Nội.
Nội.
Nội.


6. Bùi Đức Tịnh (1999): Ngôn ngữ học và văn học, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Lê Trí Viễn (Chủ biên, 1978): Lịch sử văn học Việt Nam, tập IVA, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Như Ý (Chủ biên, 1996): Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Như Ý (Chủ biên, 1998): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

Lần cập nhật cuối ( Thứ ba, 03 Tháng 1 2012 14:34 )




×