Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

THƠ nôm của lê THÁNH TÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.8 KB, 11 trang )

THƠ NÔM CỦA LÊ THÁNH TÔNG
VÀ HỘI TAO ĐÀN
__________________________________________
Kiều Văn
Chắc chắn thơ ca bằng tiếng Việt (bất thành văn) đã xuất hiện trên đất nước ta từ rất sớm, có
thể trước thời đại Hùng Vương cả một vài nghìn năm. Kết quả khảo cổ cho biết chữ Việt
cổ (có hình tựa như con nòng nọc) ghi cách đọc tiếng Việt đã xuất hiện từ trước thời Bắc thuộc
rồi sau đó bị chữ Hán lấn át và tiêu diệt. Người Việt chỉ còn một cách duy nhất là dùng hình thức
truyền miệng để lưu giữ nền thơ ca dân tộc (ca dao, tục ngữ, dân ca…) cũng như các tri thức
khác.
Sau khi thoát khỏi ách Bắc thuộc (từ năm 938), do yêu cầu bức xúc của lịch sử dân tộc thời đại
tự chủ, trong khoảng một vài trăm năm, bên cạnh việc tiếp tục sử dụng chữ Hán, các trí thức An
Nam đã cố công tìm cách sáng chế ra chữ Nôm (dựa vào chữ Hán và cải biến thêm để đọc âm
Việt). Tương truyền Hàn Thuyên (thế kỉ XIII, đời Trần) là người đầu tiên chế định luật thơ nôm,
đồng thời làm bài Văn tế cá sấu bằng chữ nôm. Tiếp sau đó, những người khác như Nguyễn Sĩ
Cố, Chu Văn An, Trần Quí Khoáng, Nguyễn Biểu … đều có những sáng tác thơ nôm. Sự xuất
hiện chữ nôm và thơ nôm là một hiện tượng mang tính cách mạng của nền văn hoá dân tộc.
Đến thế kỉ XV, chữ nôm đã tương đối hoàn thiện và thơ nôm đạt tới đỉnh cao mới với sự xuất
hiện của thiên tài thơ nôm Nguyễn Trãi. Sự kì diệu của thơ nôm đã gây hứng thú lớn lao cho tất
cả các thi nhân sau Nguyễn Trãi. Ở nửa sau thế kỉ XV, trong bối cảnh cực kì thuận lợi của một
thời kì thực sự thái bình thịnh trị, thơ nôm được cả triều đình nhà Hậu Lê, đứng đầu là vị minh
quân Lê Thánh Tông, đặc biệt chú trọng. Thơ nôm lần đầu tiên được nâng lên tầm vóc, địa vị
quốc thi. Năm 1495 Hội Tao Đàn ra đời do đích thân Lê Thánh Tông làm nguyên súy, gồm 28
“ngôi sao thơ” (nhị thập bát tú) như: Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Ngô Luân, Ngô Hoán,
Nguyễn Xung Xác…
Tác phẩm trứ danh của Hội Tao Đàn là tuyển tập thơ khá qui mô và đồ sộ Hồng Đức quốc âm thi
tập.
Lê Thánh Tông là mẫu ông vua hoàn thiện nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông và triều đại của
ông đã thoả mãn được điều mà Nguyễn Trãi khao khát một đời nhưng không có diễm phúc được
chứng kiến: “Ước một tôi hiền, chúa thánh minh”. Ông là linh hồn của triều đại phong kiến Việt
Nam cực thịnh. Triều đại Lê Thánh Tông gợi lại thời Nghiêu – Thuấn của Trung Hoa thời cổ,


từng được giới nho sĩ thời phong kiến coi là điển phạm của tất cả các thời đại.
Là vị vua sáng và vô cùng hiển hách, Lê Thánh Tông đồng thời là nhà thơ nhà văn Hán
– Nôm đích thực. Thơ nôm của ông cho thấy hình ảnh của một ông vua hiền minh hoà quyện
tuyệt diệu với hình ảnh một nhà thơ. Xưa nay rất hiếm có ông vua nào viết được những câu thơ
đằm thắm lạ thường như thế này:
Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương,


Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường.
Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt,
Gót vàng dận dạn máy âm dương.
(Dệt cửi)
Thơ Lê Thánh Tông là thơ “tái đạo” (chở đạo). Đạo là quy luật tự nhiên của càn khôn và xã hội.
Ở loài người, đạo hàm nghĩa đạo đức mà gốc của đức là chữ nhân. Thơ ông tràn ngập nhân đức
và do đó tràn ngập vẻ đẹp. Chính lòng nhân đức đã cho ông con mắt nhìn thế gian khác nhiều so
với những nhà thơ khác trong Hội Tao Đàn. Vận dụng triết lí vạn vật nhất thể và nghệ thuật khẩu
khí, ông cố tình xóa nhoà ranh giới giữa cao và thấp, giữa sang và hèn nhằm mục đích nâng đỡ,
an ủi, khích lệ, làm nở nụ cười trên môi những người mang số phận hẩm hiu:
Góp giang sơn xách một quai,
Lượng bằng sông bể chẳng từ ai!
Vườn đào ngõ mận từng len lỏi,
Gác tía lầu son mặc nghỉ ngơi…
(vịnh người ăn mày)
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Chép miệng nuốt ba con kiến gió,
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.
(Vịnh con cóc)
Những bài thơ viết về những số phận đáng thương trong đời đủ cho thấy ông là một nhà
thơ nhân đạo chủ nghĩa đích thực không khác gì Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du sau này:

Thờ chúa thờ chồng hết tấc thương,
Một mình lọn đạo việc cương thuờng.
Non thiêng dễ hoá hồn Tinh Vệ,
Nước biếc khôn nhìn mặt Phạm vương.


(Vịnh Mị Ê)
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương?
Bóng đèn dầu nhẫn, đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy tới nàng?…
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng!
(Miếu bà Trương)
Ở Lê Thánh Tông, chữ nhân gắn liền với chữ trí. Là vị vua sáng, ông hiểu hơn ai hết cái nguyên
lí đã được xướng ra ở triều đại nhà Lê: Hiền tài – quốc gia chi nguyên khí (bậc hiền tài là tố chất
căn bản của quốc gia). Chính vì thế, ít có ông vua nào sánh nổi với ông về tinh thần chiêu hiền
đãi sĩ. Sự trọng thị, yêu quí của ông với những hiền tài quốc gia được thể hiện sâu nặng trong
những bài thơ khóc điếu các đại thần khi họ qua đời:
Dẹp yên bốn cõi mới buông tay,
Lồ lộ Thai tinh (sao lớn) một đoá mây.
… Thương ít tiếc nhiều khôn xiết chế,
Miếu đường hầu lấy cột nào thay?
(Điếu Lê Khôi)
Khí thiêng đã lại thu sơn nhạc (cõi trời),
Danh lạ còn truyền để quốc gia.
Khoát ngón tay than tài cái thế,
Lấy ai làm trạng nước Nam ta?
(Điếu trạng nguyên Lương Thế vinh)
Với khối óc vô cùng mẫn tuệ (tương truyền ông là một vị tiên đồng giáng xuống làm vua nước

Nam), Lê Thánh Tông đã nhận định, bình phẩm một cách xác đáng theo quan điểm độc lập của
ông về các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa như Hán Cao Tổ, Hạng Vũ, Trương


Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín, Tô Vũ… Ví dụ ông thừa biết Hán Cao Tổ chỉ là một kẻ vô học, cho
nên với hành động qua nước Lỗ viếng Khổng Tử của ông ta, Lê Thánh Tông đã hạ một câu:
Qua Lỗ vì chưng chút đãi buôi!
Cũng nhờ khối óc sáng suốt phi thường mà Lê Thánh Tông đã nhận ra tất cả những sai quấy, vô
lí, bất cập của các triều vua Lê trước ông. Một hành động nổi bật là ông đã xuống chiếu minh
oan cho bậc vĩ nhân Nguyễn Trãi vào năm 1464, ra lệnh và cắt cử người sưu tầm di cảo của
Nguyễn Trãi để làm quốc bảo. Nhờ thế mà di sản văn hoá vĩ đại của Nguyễn Trãi mới còn đến
ngày nay.
Trong thời đại phong kiến, không một triều đại nào phát triển rực rỡ như triều đại Lê Thánh
Tông. Tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, luật pháp, văn hoá, xã hội… đều trở nên
hoàn thiện chưa từng thấy. Điều đặc sắc nhất là triều đình đồng thời là một “hội văn chương”, để
lại cho đời những tác phẩm lớn như Quỳnh uyển cửu ca (bằng chữ Hán) và Hồng Đức quốc âm
thi tập (thơ nôm).
Lê Thánh Tông có ý thức sâu sắc xây dựng một nền văn hoá độc lập của dân tộc. Kế thừa di sản
thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, ông đặc biệt chú trọng xây dựng nền thơ nôm để một mặt thoát
khỏi sự phụ thuộc vào ngôn ngữ của Trung Hoa, mặt khác mang ý đồ đối thoại, sánh vai với nền
văn chương Bắc quốc! Đó chính là tư tưởng có tầm chiến lược của một bậc minh quân vĩ đại
trong thế kỉ XV. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó khi đi sâu nghiên cứu thơ nôm thời Hồng Đức.
Trong thơ cũng như trong đời, Lê Thánh Tông tuy cao đạo mà chân thành, tuy kì vĩ mà bình dân.
Ông luôn gần gũi mọi người và tỏ ra là một con người vô cùng hữu tình, tế nhị, dễ mến:
Vạc thẩn thơ tìm nội quạnh,
Trời lác đác vẻ sao thưa.
Một bầu thế giới hây hây lạ,
Mấy kẻ chung tình đã thức chưa?
(Vịnh canh bốn)
GIÁ TRỊ CỦA TẬP THƠ HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP

Mặc dù thời Hồng Đức (1470 – 1497, triều Lê Thánh Tông) không sản sinh ra một thiên tài
thơ nôm tầm cỡ Nguyễn Trãi, nhưng thơ nôm thời kì này lại nở rộ trên diện rộng hơn, số người
tham gia sáng tác thơ nôm cũng đông đảo hơn. Mặt khác, chất lượng thơ cũng có những ưu điểm
lớn: nội dung và đề tài phong phú hơn, nhiều bài thơ rõ ràng đã tiếp thụ được tinh hoa nghệ thuật
trác tuyệt của thơ Nguyễn Trãi. Và một điều hết sức đặc sắc mà thơ nôm Nguyễn Trãi không có,
đó là sự hiện diện của loại thơ nôm tiếu lâm, phản ánh bản tính thích cười của người Việt.


Toàn bộ nội dung thơ nôm thời Hồng Đức toát lên tinh thần độc lập và tự cường dân tộc, đặc biệt
chú trọng biểu dương, ca ngợi đất nước An Nam vừa oai hùng hiển hách vừa vô cùng tươi đẹp
như một xứ sở kì diệu bậc nhất trên thế gian.
Sau đây là những những nội dung cụ thể:
* Phản ánh khí phách hào hùng của dân tộc thông qua những trang sử oanh liệt và các nhân vật
anh hùng hiển hách như Thánh Gióng, Trưng Vương, Triệu Ẩu, chiến thắng Bạch Đằng Giang …
Trợ dân dẹp loạn trả thù mình,
Chị nhủ cùng em cất nghĩa binh.
Tô Định bay hồn vang một trận,
Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành…
Còn nước còn non còn miếu mạo,
Nữ trung đệ nhất đấng tài danh.
(Trưng Vương)
Leo lẻo doành xanh nước tựa dầu,
Trăm ngòi ngàn lạch chảy về chầu.
Rửa không thay thảy thằng Ngô dại,
Gịa (giũ) mọi lâng lâng khách việt hầu.
(Bạch Đằng Giang)
* Ca ngợi đất nước An Nam gấm vóc, hoàn toàn không thua kém gì những danh thắng như Tiêu
Tương bát cảnh của Trung Hoa: núi Thần Phù, động Bạch Nha, chùa Phật Tích, chùa Non Nước,
chùa Trấn Võ…
Muối pha bãi bạc sông sâu hoáy,

Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù.
Khói quán mây ngàn tuôn ngùn ngụt,
Chợ quê sóng bể dức (réo) ù ù…
(Núi Thần Phù)


Hòn đá ai đem đặt giữa đồng,
Mĩ miều thiếu nữ lựa (khiến) người trông.
Da dồi phấn tuyết nhuần nhan sắc,
Đầu gội mưa xuân sạch bụi hồng...
Tới nay tuổi đã bao nhiêu tá?
Chành chạnh (khư khư) bền gan chửa lấy chồng?
(Núi goá)
Những vẻ tuyệt mĩ của thiên nhiên như trăng, hoa, thảo mộc, thời tiết bốn mùa, cảnh đẹp năm
canh, lễ hội… đều được miêu tả một cách tỉ mỉ và đầy chất thơ:
Nước cạn đồng hồ canh chuyển hai,
Đêm dài đằng đẵng tựa năm dài.
Vang ngõ nọ chày cao thấp,
Nhộn đầu kia địch (sáo) bẻ bai.
Trăng sáng ba ngàn thế giới,
Gió đưa mấy xóm lâu đài…
(Canh hai)
Mai gầy liễu guộc cỏ le te,
Biết chạy làm sao khỏi nắng hè?
Đậu lá, võ vàng con bươm bướm,
Ấp cây, gầy guộc cái ve ve…
(Vịnh nắng hè)
* Phản ánh bản sắc tâm hồn giàu tình cảm và chất thơ của người Việt qua những bài thơ trữ tình
như: Miếu bà Trương, Vịnh Mị Ê, chùm thơ Lưu Nguyễn nhập đào nguyên, Ngưu Lang – Chức
Nữ, Vương Tường…

Đây là lời một người vợ trẻ nói với người chồng phụ bạc:


Chàng hỡi hai ta nghĩa đã cân,
Thốt thề chẳng hổ với linh thần?
… Mây nước dạ chàng dầu bạc nghĩa,
Cỏ hoa lòng thiếp hãy còn xuân…
Cách đây nửa thiên niên kỉ mà thi nhân thuở ấy đã phát hiện và miêu tả những cảm xúc tinh tế
như vậy nơi tâm hồn một người đàn bà trẻ, điều ấy không đủ khiến chúng ta ngạc nhiên và khâm
phục hay sao?
* Thơ nôm thời Hồng Đức dành một mảng đáng kể chuyên miêu tả sinh hoạt dân dã với những
vật hết sức thông thường, nhỏ mọn nhưng rất đỗi thân thương, gắn bó mật thiết với người Việt
như hình với bóng: khoai lang, quả dưa, cây chuối, cây cau, cái nón, cái đó, cái quạt, ông đầu
rau, cối xay, thằng bù nhìn, nhà dột, con chó đá, con gà, con muỗi, con cóc, trứng vịt…
Ngọt bằng mít, mát bằng dừa,
Trợ khát nào qua một quả dưa?
Mùi mẽ ngon, người dễ trọng,
Tinh thần lạ thế (đời) đều ưa.
(Qủa dưa)
Muỗi hỡi, mi sinh giáp tí (ngày tháng) nào,
Đêm đêm lẻn đến cửa buồng tao…
Canh khuya lẩn quất làm cho nhọc,
Châm đốt ngoài da có xuể nào?
(Con muỗi)
Những đề tài, đối tượng “rất tầm thường” mà văn chương chữ Hán thường coi khinh và chối bỏ
thì thơ nôm Hồng Đức lại tiếp nhận và miêu tả một cách say sưa khác thường! Rõ ràng người
Việt thế kỉ XV có khát vọng làm một cuốn từ điển bách khoa bằng thơ về cuộc sống hiện thực vô
cùng sinh động, đáng yêu đáng quý của dân tộc mình! Họ đã phát hiện được một chân lí tuyệt
vời: chính từ đất mẹ thân yêu đã sản sinh ra vô vàn cái đẹp cho đời, không cần phải cầu cạnh,
vay mượn ở đâu khác!

Nhiều bài thơ khác chuyên miêu tả những người bình dân như: người hái củi, người cày ruộng,
người kiếm cá, trẻ chăn trâu, thằng mõ, người ăn mày… Mặc dù các thi nhân còn chịu ảnh


hưởng loại thơ vịnh tứ thú (ngư tiều canh mục) của văn học Trung Hoa nhưng về thực chất, họ
muốn nhấn mạnh ý tưởng thâm thúy quốc dĩ dân vi bản, muốn miêu tả con người, cư dân trên
giang sơn gấm vóc của xứ sở An Nam:
Năm canh bố cốc (tu hú) tiếng kêu om,
Leo lẻo canh phu (thợ cày) sớm đã nom.
Gió ngàn xanh xoay nón lệch,
Mưa núi lục cúi lưng khom…
Tấc đất tấc vàng yêu bấy tá,
Mồ hôi dồn dọi thuở đầu mom.
(Vịnh người đi cày)
Mõ này cả tiếng lại dài hơi,
Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi…
Trẻ già chốn chốn đều nghe hiệu,
Làng nước ai ai cũng cứ lời…
Thứ bậc dưới trên quyền cắt đặt,
Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi.
(Vịnh thằng mõ)
* Như chúng tôi đã nói trên đây, triều đại Lê Thánh Tông trị vì là thời kì cực thịnh của chế độ
phong kiến Việt Nam. Trong triều ngoài nội đều vang lên những khúc “âu ca thái bình”. Là ông
vua hiền minh và nhân đức, Lê thánh Tông cư xử với các bề tôi của mình như tình huynh đệ.
Bản tính ông rất hồn nhiên, vui tính, thích đùa, chứng tỏ ông mang cái gen trào lộng, khôi hài
độc đáo của người Việt. Chắc chắn chính ông đã “bật đèn xanh” cho chủng loại thơ nôm tiếu lâm
đặc thù của dân tộc ta được nghiễm nhiên lọt vào Hồng Đức quốc âm thi tập – một tuyển tập thơ
“chính quy”của triều đình. Đó là thứ thơ mang biểu tượng hai mặt: một mặt miêu tả phong cảnh
hay một sự vật nào đó, còn mặt kia cố ý miêu tả những động tác phối ngẫu âm dương của nam và
nữ. Trong thế giới tinh thần hết sức lành mạnh, gần gũi thiên nhiên của người Việt cổ (cũng như

nhiều dân tộc khác trên thế giới), hiện tượng phối ngẫu âm dương đó là hoàn toàn tốt đẹp, đáng
ngợi ca, là một niềm say sưa, hứng thú thực sự, và hoàn toàn có thể là một đề tài đặc sắc của văn
chương. (Chỉ có một vài tôn giáo như Phật Giáo, Nho Giáo… kì thị với hiện tượng tự nhiên đó).
Trong văn học dân gian, nhất là trong truyện tiếu lâm, môtíp “phối ngẫu âm dương” này thường
xuyên xuất hiện và có sức hấp dẫn đặc biệt làm cho người Việt bật lên tiếng cười vô cùng thích


thú và sảng khoái. Hồng Đức quốc âm thi tập có ít nhất ba bài thơ thuộc môtíp ấy: Kênh Trầm,
Vụng Bàn Than, Cây đánh đu.
Đồn rằng huyện Ngọc có kênh Trầm,
Tuy hẹp le (nhưng) vui hết mấy rằm (tháng).
Gò nổi xương trâu rêu lún phún,
Bãi lè lưỡi bạng (trai) bọt lăm tăm.
Chan chan thuyền khách sào chưa nhổ,
Sịch sịch chài ai cọc hãy cằm (cắm).
Có kẻ kéo khan năm bảy lúc,
Chờ cho thấy nước bõ đêm nằm.
(Kênh Trầm)
Một vụng Bàn Than vành vạnh tròn,
Tư mùa nước chảy chẳng hay mòn.
Lòng bòng vó cất bên kia bãi,
Đủng đỉnh chày đâm mái nọ non.
Cắm nhổ đầu ghềnh sào mấy cỗi,
Nhấp nhô mặt nước đá hai hòn.
Ngư ông đưa đẩy khoan thì nhặt,
Nhân nhẩn (nhởn nhơ) triều lên nước dẫy (đầy) con.
(Vụng Bàn Than)
Bốn cột lang nha cắm để trồng,
Ả thì đánh cái, ả còn ngong.
Tế hậu thổ khom khom cật,

Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng.


Tám bức quần hồng bay phới phới,
Hai hàng chân ngọc đứng song song.
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
Nhổ cột đem về để lỗ không.
(Cây đánh đu)
Không nghi ngờ gì nữa, chủng loại thơ nôm tiếu lâm này là tiền thân của thơ nôm Hồ Xuân
Hương sẽ nở rộ và đạt tới đỉnh cao vào 300 năm sau. Chúng tôi tin chắc rằng sau thời Hồng Đức,
chủng loại thơ này vẫn luôn được tiếp tục trong nền thơ dân tộc nhưng vì lí do nào đó đã bị thất
truyền. Thơ nôm Hồ Xuân Hương ở thế kỉ XVIII –XIX cũng chỉ là một sự kế tục và là trường
hợp nổi bật.
*
*

*

Tóm lại, thơ nôm của Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn trong nửa cuối thế kỉ XV là một thành tựu
lớn đóng góp vào nền văn hiến Đại Việt, thực sự làm khởi sắc nền văn học dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của một ông vua – hiền triết có tư tuởng và hoài bão chấn hưng đất nước, tất
cả các thi nhân đương thời đều thấm nhuần tinh thần tự cường tự tôn dân tộc, ra sức biểu dương
sự vinh quang, cái đẹp và sức mạnh của tổ quốc, của truyền thống văn hoá ưu tú xứ sở mình. Vua
tôi triều Hồng Đức muốn tuyên bố trước thế giới rằng: trên đất nước Đại Việt ngàn năm này đã
và sẽ tồn tại vĩnh viễn một cuộc sống đích thực, diễn ra thiên hình vạn trạng và bất tuyệt, gắn
chặt với thiên nhiên tuyệt diệu phương Nam, với truyền thống lịch sử oai hùng và những phong
tục cổ truyền tốt đẹp. Đất nước ấy tuyệt nhiên không hề kém cạnh gì so với “Bắc quốc” mà sách
vở và thi ca Trung Hoa đã mô tả, ngợi ca suốt bao nhiêu thời đại!
Lần đầu tiên ở nước ta, thơ nôm được nâng lên địa vị thơ cung đình, mang tầm vóc quốc gia,
sánh ngang với thơ chữ Hán. Thơ nôm ấy không còn bị coi là “nôm na”, vì chúng được sáng tác

bởi những thi nhân kiệt xuất của thời đại: nhị thập bát tú (28 ngôi sao thơ) trong Hội Tao Đàn do
đích thân nhà vua sáng lập và đứng làm chủ súy!
Thơ nôm thời Hồng Đức là biểu trưng rực rỡ của một thời đại tự chủ huy hoàng, kế tục thời đại
oanh liệt do Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn tạo dựng nên và Nguyễn Trãi là người cầm ngọn cờ
văn hoá.
Dòng thơ nôm ấy sẽ được thừa kế và phát triển liên tục trong những thời đại sau ở các
thế kỉ XVI, XVII, XVIII, XIX, XX… đưa nền thi ca Việt Nam – sau khi đã thoát khỏi tình trạng
phải đi mượn một thứ tiếng nước ngoài là tiếng Hán – vươn lên tầm vóc chung của nền thơ nhân
loại.


KIỀU
[ nguồn ; newvietart.org]

VĂN



×