Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Thử tìm chân diện mục của cái đẹp qua một số bài thơ thời đại lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.69 KB, 9 trang )

Thử tìm chân diện mục của cái đẹp qua một số bài thơ thời
đại Lý - Trần
Nguyễn Công Danh

Tăng chi bộ kinh, phẩm Bốn pháp có chép: “Có bốn phạm trù không thể tư duy: Phật giới,
thế giới Tâm, thiền định của người tu thiền và quả dị thục của nghiệp.”
Trong bài tựa mở đầu Trích diễm thi tập, tiến sĩ Hoàng Đức Lương niên hiệu Hồng Đức
cũng nói: “Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không
thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ có thi nhân là có thể xem
mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được vị ngon ấy mà thôi. Đấy là lí do thứ nhất làm cho thi văn
không còn lại hết ở đời”.
Thơ ca là tiếng nói thăng hoa tuyệt đích của tâm hồn, người xưa kí thác vào đó bao tâm tư
suy nghĩ. Tri cảm tâm hồn con người đã khó huống chi là bản thể chân như và cái đẹp trong thơ
thiền.
Thiền học và thơ thiền xưa nay không thiếu những lời tán dương của những bậc trí giả.
Nhưng đứng dưới góc độ là bạn đọc, có thể nắm bắt được tinh thần chung quả thực đó thật
không phải là việc dễ dàng. Phải chăng ngoài vốn hiểu biết, những sản phẩm văn hóa liên quan
đến Thiền còn đòi hỏi cái duyên? Thật chẳng ngẫu nhiên chút nào khi Trần Đình Sử phát biểu
trong cuốn Thi pháp văn học trung đại: “Thơ thiền là thơ của tầng lớp tăng lữ cấp cao, tri thức
đặc biệt, không giống với tình cảm Phật giáo dân gian.”
Những kẻ hậu học như chúng tôi có thâm nhập vào Phật giáo chưa được bao lâu, có một
người bạn vì lí do học tập, nghiên cứu hỏi về thơ thiền. Chúng tôi giới thiệu cho bạn ấy ý kiến
của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử. Thỏa đáng thì thỏa đáng rồi, nhưng riêng tôi thì thấy chưa
thỏa mãn. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi chúng tôi thường dành thời gian để đọc, sau đó lại bàn luận
với nhau thấy nhiều chỗ cần bàn cho thêm rõ. Chúng tôi cũng không dám khẳng định sẽ đưa ra
một điều gì mới trong lĩnh vực Thiền học “dĩ vô sở đắc”. Trên sự kế thừa và học hỏi những nhà


nghiên cứu, những bậc trí giả đi trước, chúng tôi muốn đưa ra những cảm nhận mang tính sơ
kiến tự đúc rút được về mỹ quan thơ thiền, về chân diện mục của cái đẹp qua việc phân tích vài
bài thơ thời đại Lý – Trần.


Chân như
Hệ thống kinh điển, phương pháp hành trì của Thiền tông chỉ hướng tới một đích duy nhất:
Chân như (sunyata) còn gọi là như thị (tathasa) hay trí tuệ siêu việt (prajna). Chân như gồm hai
mặt: Tục đế và Chân đế.
- Tục đế (Samvritisatya): Bao gồm chân lí tương đối của các hiện tượng, các qui luật thông
thường, đa tính, là trí tuệ của khoa học và triết học.
- Chân đế (Paramathasatya): Là chân lí tuyệt đối, cái chân thực, là trí tuệ giác ngộ, nhất
tính mang triết lí chân thiền.
Tăng chi bộ kinh nói rằng “thiền định của người tu thiền” là “không thể tư duy”, mà chỉ
có thể đạt đến bằng con đường thiền định, quán chiếu. Chỉ khi nào dập tắt được phiền não, tức
đạt được trạng thái Niết bàn (Nivarda) thì con người ta mới phát sinh ra trí tuệ Chân đế. Tư duy
thông thường của con người chỉ là một phần của Chân như, nhưng đó chưa phải là trí tuệ thật sự
mà đơn thuần là những tri kiến hướng ra bên ngoài, ở bề mặt. Đó vẫn còn là Vô minh. Tác giả
Thích Chơn Thiện trong Phật học khái luận đã phác họa con đường từ vô minh đến khổ não như
sau:
“Do vô minh có hành sinh, do hành có thức sinh, do thức có danh sắc sinh, do danh sắc có
lục nhập sinh, do lục nhập có xúc sinh, do xúc có thọ sinh, do thọ có ái sinh, do ái có thủ sinh,
do thủ có hữu sinh, do hữu có sinh, lão, tử, sầu, bi, khổ, não hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Đây là
duyên khởi.”
Do vậy, dập tắt được Vô minh là dập tắt được căn gốc của phiền não, từ đó trí tuệ sinh
nhận thức lúc đó mới đúng là nhận thức chân như. Nhiều người đã biết, đức Phật nhìn nhận thế
giới vật chất là thế giới của Duyên khởi (Paticcasamuppàda), sự gắn kết vô hình giữa các thành
tố tạo nên các pháp. Chính cái tâm vô minh đó mới tạo ra toàn bộ thế giới huyễn ảo đầy vọng
động vô thường. Một số nhà triết học Tây phương vin vào quan niệm về tâm mà cho rằng: Phật
giáo là một học thuyết duy tâm chủ quan. Số khác thì dựa vào thế giới quan Duyên khởi lại cho
rằng: nó gần với duy vật siêu hình. Điều này hoàn toàn khiên cưỡng, bởi con đường Thiền là
con đường Trung đạo, không hề “duy” một khía cạnh nào, kể cả duy vật, duy tâm, duy thức,…
Bản thân chữ “duy” đã có sắc thái câu chấp, nắm giữ và trói buộc.
Tư tưởng phương Tây giống như lời nói của Acsimet: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ
nâng quả đất này lên”. Họ không thể chiếm lĩnh một điều gì nếu không có một điểm tựa, họ tự

trói buộc mình trong luận điểm nhị nguyên đầy quyền uy của Kant: tách biệt khách thể và chủ
thể. Tri thức kiểu này không thể hiểu được bản chất tinh nguyên của khách thể. Bằng sự chiêm
nghiệm thông thường nhất, ta cũng đủ thấy rằng: giữa vật và tâm, tâm và vật, thật sự không có gì
là khác so với lời Bát nhã tâm kinh (Maha Prajna paramita Hridaya Sutra): “Sắc bất dị không


không bất dị sắc,..”.Vì vậy “người tu thiền không phấn đấu tránh ảo, cũng không mưu cầu chân
giác, người ấy biết rằng: ảo - thực, có - không đều là chân giác” (Chứng đạo ca, Huyền Giác)
Như vậy, nhận thức về huyễn ảo và chân như ở đây là một lối nhận thức siêu việt, vượt qua
thế giới của tâm và vật. Trong thi ca, nó vượt qua cả thế giới của ý niệm, từ chương, ngôn chí,
hình tượng, cảm xúc,… hướng đến một trực quan chí chân, chí mĩ. Một chân diện mục của cái
đẹp tinh nguyên.
Con đường của Thiền học Việt Nam và thơ Thiền thời đại Lý - Trần
Thế giới quan Thiền học từ lâu đã trở thành ngọn nguồn cho nhiều nền văn hóa Đông Á.
Tại Việt Nam, một đất nước có lịch sử truyền thống Phật giáo lâu dài, văn hóa Thiền phát Triển
nở rộ đặc biệt là vào thời đại Lý – Trần như nhiều người đã biết.
Theo Nguyễn Lang, tác giả cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận, thì đạo Phật đến Giao Châu
vào khoảng từ nửa cuối thế kỉ thứ I đến đầu thế kỉ thứ II. Truyền thuyết Tiên Dung – Chử Đồng
Tử có ghi lại cuộc tiếp xúc này và dấu vết về việc truyền đạo của một nhà sư Tây vực là Khâu
Đà La (Sudra). Vị tổ đầu tiên theo sách vở xưa (cụ thể là Thiền uyển tập anh) ) là Tỳ Ni Đa Lưu
Chi, vị này đến Luy Lâu vào năm 580, thuyết pháp tại chùa Dâu (Bắc Ninh) và truyền thừa được
19 đời. Kế đó là các thiền phái: Vô Ngôn Thông (Kiến Sơ, Phù Đổng, Gia Lâm), Thảo Đường
(chùa Khai Quốc), Trúc Lâm – Yên Tử (Uông Bí, Quảng Ninh).
Năm 938, Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán. Nước ta mở ra một thời kì độc lập tự chủ.
Trước yêu cầu chuẩn bị về mặt lí luận tư tưởng cho dân tộc vào thời đại mới, trong điều kiện
Nho giáo vẫn chưa bắt rễ được vào ý thức người Việt. Những vua chúa của các triều đại Ngô,
Đinh, Tiền Lê. Lý, Trần đã tiếp thu Phật giáo như một hệ tư tưởng chính thống. Cũng chính thời
kì này, giới tri thức tăng lữ có tiếng nói lớn trên vũ đài chính trị. Chủ trương đề cao trí tuệ, nhân
quả từ bi rất phù hợp với tính chất văn hóa bản địa của người Việt, cho dù được tiếp thu bằng tư
duy bác học, hay bằng những tín ngưỡng dân gian. Phật giáo trong quá trình dung hợp với Nho

và Đạo đã tạo nên một thượng tầng văn hóa rực rỡ trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là lĩnh vực văn
chương.
Đi tìm chân diện mục cái đẹp
Ta cùng đọc qua bài kệ sau đây của thiền sư Từ Đạo Hạnh:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
Bản chất sắc không của các pháp được biểu đạt bằng những hình ảnh lung linh đầy sức
biểu đạt (có không như trăng nước, chớ bám vào cái có mà cho không là không). Tinh thần của


Bát nhã ba la mật: “Xá lị tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị
sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị…”. “Tinh túy của trí tuệ tối thượng” được thể
hiện bằng thế giới hình tượng ẩn dụ, tính đơn nhất của sắc và không thật không thể dùng lí luận
để chỉ ra theo kiểu “Nó là…”, mà chỉ có thể dùng ẩn dụ. Từ chương học gọi đó là cảm thức đi từ
vật đến tâm. Chỉ có điều, cái được biểu đạt không phải là tình cảm, ngôn chí, hay tư tưởng mà là
trực quan về hiện tại chân như. Thi ca Thiền tông đời Lý tập trung hầu hết ở thể loại kệ (gàthà)
của các Thiền sư, mục đích tóm tắt tư tưởng để dạy đệ tử (nói theo Từ điển thuật ngữ văn học).
Đây là một phương pháp phổ biến trong kinh tạng Phật giáo.
Trong sách Tam tổ thực lục có ghi một cuộc đối đáp cuả một vị tăng với Điều Ngự:
“Một vị tăng khác hỏi:
- Đàm huyền, thuyết diệu, bàn cổ, luận kim, đều là lời nói suông, thế thì một câu nói
không mắc kẹt vào ngôn ngữ làm sao nói được?

- Gió xuân thoang thoảng nghìn hoa nở,
Lách cách xe đưa tiếng rộn ràng.
Vị tăng toan mở miệng, Điều Ngự lại tiếp:
- Chim hót máu rơi vô dụng cả
Non chiều mây phủ vẫn như xưa. »


Qua đoạn đối đáp trên, ta thấy một ý nghĩa ẩn dụ: bản thể Chân như không hề liên quan
đến lời nói, ngôn từ của con người. « Gió xuân thoảng thoảng » chẳng qua là dấu hiệu của thời
khắc mà thôi, chứ hoa có nở hay không thì nguyên nhân không phải ở gió. Khi vị tăng ấy chưa
hiểu, Điều Ngự lại tiếp tục đưa ra thêm một ẩn dụ : « chim hót » là dấu hiệu của một ngày mới,
một ngày đã qua thì dù chim có hót đến « máu rơi » cũng chẳng ích gì. Mối quan hệ giữa bản thể
và lời nói đại để như vậy. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện, không phải là chân lí.
Con đường truyền thừa của Thiền là một con đường đặc biệt : truyền thừa tâm ấn (tâm –
tâm), đức Thích Ca ở núi Linh Thướu (Radjgir) cầm đóa hoa mỉm cười mà Đại Ca Diếp
(Mahakasyapa) bừng ngộ. Còn kệ chính là cái chân như được hình tượng hóa trên bề mặt ngôn
ngữ (tâm – tượng – tâm). Do vậy lĩnh ngộ được một bài kệ không thể lấy logic ngôn ngữ hay
hình ảnh để soi xét. Người nghe, người đọc phải qua một quá trình tham thiền để cảm nhận bằng
trực cảm tâm linh, hoặc ít nhất cũng phải biết qua đôi chỗ về Thiền học, dù chỉ là về mặt lí
thuyết.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô


Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thị đệ tử - Vạn Hạnh)
Người đọc tiếp cận bài kệ ấy như một tác phẩm thuần túy, người đọc đó sẽ thấy gì ? Qui
luật của vũ trụ thịnh – suy, không – có, sinh - tử. Với đất trời xuân qua rồi thu lại, với con người
sinh ra rồi mất đi. Vạn vật vi tế thường trụ chốc lát trong vài sát na như giọt sương sớm. Đệ tử
nhà Phật thấy gì ? Là vô thường, là Duyên sinh, là Tứ đại hợp tan.
Một người có hiểu biết nếu giảng giải bài thơ ấy ra thì sẽ có ngay một bài thuyết pháp. Đó
là một kiểu tượng trưng, là loại thứ nhất mà Trần Đình Sử nhắc đến. Chân như vẫn là chân như
nhưng nó được chuyển tải bằng phương tiện suy lí qua một trường liên tưởng. Hình tượng ngôn
ngữ chính là ngón tay đưa người ta hướng tới mặt trăng. Nhưng cũng có lúc chân diện mục là
chân như của tình cảm, cảm xúc, chứ không đơn thuần chỉ có triết lí Thiền :

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Cáo tật thị chúng - Mãn Giác)
Xét kĩ hơn, Cáo tật thị chúng mang chất thơ rõ rệt còn Thị đệ tử là kệ, được biểu đạt bằng
nhiều hình ảnh. Bài thơ của Mãn Giác có bút pháp tinh thuần hơn. Chiều không gian trong thơ là
chiều không gian chiêm nghiệm, nhìn đời với sự phân tích và lí giải sắc sảo. Nghiền ngẫm sự
việc đã qua, cảm nhận tuổi tác đang đến gần là đặc điểm dễ hiểu của con người ở tuổi già.
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Đó là sự suy niệm chưa có vẻ gì là uyên bác Thiền học. Mà trước hết là cảm xúc của con
người nhân văn thâm trầm và từng trải. Giữa hai chiều khứ - đáo của mùa xuân, con người ấy
nhìn theo thời gian qua trước mắt.


Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Có phải sự vô thường đó chăng? Trong cái vô thường vẫn có cái thường hằng, trong sự
biến đổi luôn luôn vẫn có những điều bất di bất dịch. Nhiều người cho rằng: nhành mai mới
chớm trước sân là tượng trưng cho chân không hư tịch tại Thiền tâm, sẽ không bị mai một bởi
thế giới sinh diệt. Nhưng chúng tôi vẫn muốn được trông thấy một nhành mai thực hơn, nhành
mai có sinh khí không mang nghĩa tượng trưng, một bằng chứng của lẽ sống đang vươn lên đẹp
đẽ thanh tao mà nhà thơ - thiền giả của chúng ta đã dành ưu ái.
Điểm nhìn trong thơ Thiền trở thành điểm nhìn nhân văn. Con người Thiền giả cũng là con
người với đầy đủ cảm thức nhân văn. Một chân diện mục rất… nhân văn!
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly

Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Xuân nhật tức sự - Huyền Quang)
Quả là một trường hợp hiếm thấy trong thi ca Phật giáo đương thời! Con mắt mỹ cảm của
nhà thơ tinh tế hơn bao giờ hết. Cái đẹp mùa xuân thường được nhắc đến với bao suy tư, xoay
vần của đất trời, vũ trụ, lòng người. Nay lại được kết tinh dưới đôi tay và dáng vẻ tài hoa của
người con gái đôi tám. Mỹ quan thiền học hướng đến vẻ đẹp của con người. Một cái đẹp vô
ngôn, an nhiên lặng lẽ: “Tận tại đình châm bất ngữ thì”.
Tinh thần nhân văn ấy đã được phát dương cao độ, hun đúc kết tinh ở vị Phật hoàng Trần
Nhân Tông, danh nhân văn hóa lịch sử, tổ sư thiền phái Trúc Lâm với tinh thần cư trần lạc đạo,
phảng phất dáng dấp hiện sinh tiến bộ, giản dị mà thâm sâu:
Tùy phọc cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
(Sơn phòng mạn hứng)
Hay:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.


Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
(Cư trần lạc đạo phú)
Tĩnh tại hư không cũng là thiền, tìm vui với sách vở cũng là thiền, cưỡi ngựa đánh giặc
cũng là thiền, từ miếng ăn, giấc ngủ đều là thiền vậy. Riêng về thi ca, chúng ta thấy ở bút pháp
của vị Phật hoàng một tâm hồn đĩnh đạc và nhạy bén.
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ qui.
Nhất song bạch hồ điệp
Sấn sấn phách hoa phi.
(Xuân hiểu)

Thâu nhận hết sự chuyển mình của đất trời chỉ trong hai mươi chữ, thật không phải là điều
giản đơn. Ở đây con người ẩn dụ thiền học hoàn toàn vắng bóng, ta chỉ thấy một con người thi
nhân, con người ấy hoàn toàn “bất tri” với mọi thanh sắc vần xoay, không để mắt đến thời gian
và không gian. Vừa xong giấc ngủ, mở mắt ra thì chân như của sự vật đã có trong tâm tưởng
mình (lơ thơ đôi bướm trắng, phấp phới cánh hoa bay) đó chính là chân diện mục của một mùa
xuân thường tại vậy.
Tư thế của con người thi nhân ấy ta cũng có thể bắt gặp trong bài thơ sau:
Bán song đăng ảnh mãn sàn thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
(Nguyệt)
Cũng là một bức tranh sau khi “thụy khởi”. Dường như những nhà thơ - thiền học có vẻ
chuộng “hạ bút” sau giấc ngủ « Ngư ông thụy trước vô nhân hoán/ Quá ngọ tinh lai tuyết mãn
thuyền » (Ngư nhàn – Không Lộ ?). Bởi sau khi mở mắt, không gian xung quanh vẫn là không
gian cũ nhưng có lẽ nó đã mang một sắc thái khác, một cảnh giới khác. Từ thế giới huyễn ảo của
sắc tướng đến khi bừng ngộ chân tâm cũng tương tự như thế chăng? Dù so sánh ấy có vẻ khập
khiễng, nhưng cả hai cũng là một quá trình tự nhiên, không có gì khiên cưỡng. Âm thanh của
tiếng chày đã vắng bặt, cho ta cảm thức về khoảng thời gian đã trôi qua. Bao lâu? Không biết!


Chỉ thấy rằng vầng trăng mới lên, soi tỏ vành vạnh trên nhành hoa, ánh sáng chảy khắp khoác
cho không gian một màu áo lung linh, ảo diệu. Thời gian và không gian nghệ thuật trong bài thơ
thống nhất với nhau hay nói theo Trần Đình Sử là “vô thời gian” trong thơ thiền. Thời gian đó
có thể là vài khắc, vài giây, vài sát na hay thậm chí là cả mấy a tăng tỳ kiếp.
Nhân nhắc tới trăng, chúng tôi lại nhớ đến câu chuyện của một thiền sư Nhật Bản có pháp
danh Ryokan sống trong túp lều rơm:
Một đêm trăng sáng, ăn trộm lẻn vào lều, hắn nhìn thấy không có gì để lấy, vì Ryokan
chẳng có gì ngoài cái mền để đắp khi ngủ. Tên ăn trộm cuỗm mất cái mền rồi thoát thân. Một lát
sau ông bị lạnh thức giấc hắt hơi mới biết bị trộm. Ngay lúc đó, ông nhìn qua cửa sổ thấy trăng

sáng vằng vặc. Lòng cảm khái, ông thốt lên:
“Ô! Trăng đẹp quá
… Kẻ trộm đã quên mày!”
Thế mới hay: chân như, trí tuệ, giải thoát không có giá trị nếu con người ta như gỗ mục
chẳng biết đến cái đẹp. Con người đến được Chân như trước tiên phải thấy được niềm an lạc ở
cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Chính vì thế, Thiền luôn là nguồn cảm hứng cho nhiều loại hình văn hóa ở các nước Đông
Á. Khác với tư tưởng Thiền của Trung Hoa, Nhật Bản, Thiền tông và Phật giáo ở Việt Nam
thường có chiều hướng hòa hợp, thực dụng nhiều hơn. Người Nhật thích đặt chữ “đạo” trước
những sản phẩm văn hóa liên quan đến Thiền: kiếm đạo, nhu đạo, cung đạo, trà đạo, hương
đạo… Người Trung Hoa thì chuộng chữ “pháp”: kiếm pháp, thư pháp, họa pháp, thi pháp,… có
lẽ từ lâu những dân tộc ấy đã có thói quen và môi trường lí luận, đưa nghệ thuật lến trình độ
chuyên biệt sâu sắc, còn người Việt ta thì không giỏi việc ấy cho lắm.
Trong nghiên cứu, lí luận phê bình và cả sáng tác nữa, không cần nói thì cũng hiểu: tư duy
lí luận của Tây phương chiếm thượng phong. Điều này thường dẫn đến sự khiên cưỡng khi tiếp
cận những loại hình văn hóa phương Đông với những tính chất đặc thù cố hữu. Thường ngày lên
lớp, chúng tôi nghe các thầy trăn trở rất nhiều.
Trong tác phẩm “Sự cám dỗ của Phương Tây”, nhà văn Pháp André Malraux có viết: “Tư
duy phương Tây rất hoạt bát và sinh động, nhưng quá thiên về vật chất và khoa học. Đến nay,
chính người phương Tây lại quay ra khỏi nền văn minh đó và xa dần chủ nghĩa cá nhân”.
Liệu có thể hay chăng việc xây dựng một hệ thống lí luận mỹ học mang tính đặc thù theo
thế giới quan Thiền học, một kiểu tư tưởng vốn từ lâu đã vượt xa ý nghĩa tôn giáo?

N.C.D.


Danh mục tham khảo:
1. Chân Thiền (Taisen Deshimaru, Ngô Thành Trân và Trần Đình Cáo dịch, Nxb
Văn Nghệ TP.HCM, 1992)
2. Phật học khái luận ( Thích Chơn Thiện, NXB TP HCM.)

3. Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (Trần Đình Sử, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội).
4. Từ điển thuật ngữ Văn học (Lê Bá Hán, Trần ĐÌnh Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng
chủ biên, Nxb Giáo dục, 2006)
5. Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam (Nguyễn Vũ Tiềm tuyển chọn Văn học Việt
Nam thế kỉ X – XIX , Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Giáo Dục, 2008)
6. Việt Điện u linh tập (Lý Tế Xuyên)
7. Thiền Uyển tập anh (Lê Mạnh Thát giới thiệu)
8. Đại Việt sử kí toàn thư (Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy
Anh hiệu đính, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006 )
9. Thơ văn Lý – Trần (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1986)
10. Tham đồ hiển quyết và các Thi tụng thiền sư đời Lý giảng giải (Thích Thanh
Từ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997)
11. Tam tổ thực lục (Thích Phước Sơn dịch và chú, Viện nghiên cứu Phật học Việt
Nam, 1995)
12. Khóa hư lục (Đào Duy Anh giới thiệu, phiên dịch và chú giải, Nxb Khoa học xã
hội, 1974)



×