Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CÁI TÔI TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.23 KB, 19 trang )

1

MỞ ĐẦU
“Thơ bắt đầu từ cái ngày con người cảm thấy cần sự bộc lộ mình”.
Đấy là quan niệm của Hêghen khi nói về nguồn gốc nảy nở và lịch sử phát
triển thơ ca. Câu nói cho thấy một nhu cầu thật sự của tác giả trong sáng tác
văn học: Nhu cầu thể hiện “cái tôi” . Tuy nhiên, sự thể hiện "cái tôi" trong thơ
ca thật sự chịu tác động của môi trường văn hoá xã hội. Ngày nay, ta quen
thuộc với thơ ca hiện đại :
“Ta là Một , là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta” (Xuân Diệu)
“Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé ...
Tôi sẽ trách cố nhân nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi em hãy gắn quay về.
Tình chỉ đẹp khi tình dang dở ,
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi bến đỗ”
(Hồ Dzếch)
Nhưng ở thời Trung Đại, những câu thơ có sự xuất hiện ‘cái tôi’ trực
tiếp trên câu chữ là một điểm nhấn, báo hiệu biểu hiện “Phản thi pháp văn học
trung đại” đã đến lúc rõ nét:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
(Hồ Xuân Hương)

Trang 1


2

Vì sao sự thể hiện cái tôi trong hai thời kỳ văn học- văn học trung đại


và hiện đại lại có sự khác nhau như vậy? Rõ ràng bối cảnh văn hoá xã hội của
hai thời kỳ văn học này rất khác nhau đã dẫn đến phương thức và mức độ biểu
hiện ‘cái tôi’ trong thơ cũng khác nhau. Văn học thời kỳ trung đại “cái tôi”
trong thơ chịu sự quy định bởi văn hoá tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo ... văn
hoá trung đại đã khiến các nhà thơ- Nho sĩ đã đề cao cái tôi tự nhiệm– con
người tự nguyện lĩnh một sứ mệnh đặc biệt trong xã hội (theo Trần Nho Thìn,
văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, nxb giáo dục,2007)
Xuất hiện trên văn đàn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, tác gia
Nguyễn Khuyến đối diện với “Những biến động của thực tại xã hội, ông đã bỏ
tư thế nhà Nho để sống với tư thế một người bình thường và do đó phản ánh
được cái thường ngày của đời sống trong thơ, đầu này đã báo hiệu bước
chuyển quan trọng của văn chương nhà Nho cuối thế kỷ XIX hướng về phản
ánh thực tại khách quan” (Trần Nho Thìn – sách đã dẫn). Như vậy cũng trong
sự tác động của văn hoá trung đại và sự chuyển đổi, biến động của hoàn cảnh
lịch sử xã hội, “cái tôi” tác giả Nguyễn Khuyến một mặt mang dấu ấn của cái
tôi trong văn học Trung đại, vừa có những nét độc đáo trong cách thể hiện
"cái tôi" của nhà thơ. Tìm hiểu đề tài Sự thể hiện “cái tôi” trong sáng tác
thơ trung đại (trường hợp tác gia Nguyễn Khuyến),người làm bài muốn
tiếp cận và khám phá bối cảnh xuất hiện và tư thế của “cái tôi” trong thơ trung
đại, từ đó đi vào trường hợp tác gia Nguyễn Khuyến. Thiết nghĩ, kiến thức ‘sự
thể hiện “cái tôi” trong thơ Nguyễn Khuyến’ sẽ là hành trang có ý nghĩa cho
việc giảng dạy ngữ văn ở nhà trường phổ thông.

Trang 2


3

PHẦN NỘI DUNG
Chương I : “cái tôi” trong sáng tác thơ ca và sự thể hiện “cái tôi”

trong thơ ca trung đại:
I. “Cái tôi” trong sáng tác thơ ca:
Người ta thương nói “cái tôi đáng ghét”. Ấy là cái tôi trong cuộc sống
thường ngày, trong cuộc sống xã hội .’Cái tôi ở đây có đủ dạng, có mặt ưu
điểm cũng có khi rơi vào cực nhược điểm. Có “cái tôi”, con người dễ tự tin,
tự trọng, dám sống với cá tính của mình. Nhưng cũng có cái tôi bị người đời
ghét bỏ vì sự kiêu ngạo, coi thường người khác. Tuy nhiên trong sáng tác văn
học thì không thể thiếu “cái tôi”. Một mặt đó là nhu cầu tất yếu của nhà văn,
sáng tác nhằm giải bày tư tưởng, tình cảm. Mặt khác cái tôi còn là đối tượng
suy ngẫm, phản ánh của bản thân tác giả. “Cái tôi” làm cho những câu thơ có
hồn, sinh động, tâm trạng được bộc lộ trong những hoàn cảnh cụ thể nào đó,
toát lên được nhân cách chủ thể trữ tình, tạo ấn tượng sâu đậm. Tác giả Mãn
Châu từng bình luận: “cái tôi” không phải cái “chúng ta”, hoán đổi nó thơ
thành ly rượu bay hết mùi vị không sống được với thời gian...
Vậy thực chất “cái tôi” trong thơ là gì ? Nhà nghiên cứu khoa học văn
học Trần Nho Thìn đã minh giải như sau : “cái tôi” là hình tượng tác giả trong
tác phẩm, là sự diễn tả, giãi bày thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư thầm kín
của tác giả . Nhìn từ góc độ phản ánh luận thì “cái tôi” là đối tượng phản ánh,
suy ngẫm của bản thân nhà thơ, là kết quả của sự tự ý thức, tự đánh giá, tự
miêu tả (có nhà nghiên cứu gọi là "tự hoạ" của nhà thơ). Tác giả của công
trình “văn học trung đại Việt Nam – dưới góc nhìn văn hoá” đã làm nổi bật
khái niệm “cái tôi” khi đối sánh với cái chủ quan trong văn chương. Theo tác
giả Trần Nho Thìn, cái chủ quan bộc lộ mọi nơi, mọi lúc trong tác phẩm, trên

Trang 3


4

mọi cấp độ của quá trình sáng tác như sự lựa chọn đề tài, chủ đề, kết cấu tác

phẩm, các thư pháp nghệ thuật ... Nghĩa là, mọi phương diện xử lý tác phẩm
đều phụ thuộc vào cái chủ quan, năng lực tưởng tượng, hư cấu ... của nhà
văn. PGS.TS Trần Nho Thìn khẳng định : cái tôi tác giả hoàn toàn khác với
cái chủ quan. Nếu cách chủ quan là đặc trưng của hành động sáng tác văn
chương thì “cái tôi” nhà thơ – cái tôi tác giả lại thường đối tượng phản ánh
của hành động sáng tác đó ...
Trong văn chương Trung Đại , “cái tôi ” không phải là đặc điểm thi
pháp như trong văn học hiện đại. Bởi vậy , nếu có thể kể hàng loạt “cái tôi”
trong thơ mới như sáng tác của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan
Viên, Nguyễn Bính, Tản Đà ... thì sự xuất hiện “cái tôi” trong văn học phong
kiến chưa nhiều, và đặc điểm cũng khác. Những hiện tượng biểu hiện “cái
tôi” trong sáng tác như : Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến , Tế Xương ... đã ngân lên một “nốt nhạc lạ tai” trong thơ ca
Trung đại vốn có tính phi ngã. Xã hội phong kiến về phương diện kinh tế, văn
hoá không có điều kiện cho sự phát triển của ý thức cá nhân. Con người ứng
xử , thể hiện tâm tư không theo sở thích cá nhân của riêng mình. Họ phải sắm
các vai trò mà xã hội giao cho họ với những nghi thức áp đặt từ bên ngoài. Do
vậy các trường hợp “cái tôi” nổi lên trong văn thơ trung đại được xem như là
biểu hiện “phản thư pháp văn học trung đại”.
Như vậy, thời phong kiến là thời của tình và nghĩa theo trật tự trung,
hiếu, tiết, nghĩa ... mà Nho giáo đã quy định. Tình cảm của con người không
mang màu sắc cá nhân. Mọi yêu, buồn, hờn, giận... giống nhau giữa các thành
viên trong cộng đồng.
Do đó, sự xuất hiện “cái tôi” trong văn học trung đại là hiện tượng độc
đáo của văn học. Trong sự chi phối của văn hoá trung đại, “cái tôi” trong thơ

Trang 4


5


ít nhiều vẫn có nét phong cách riêng của mỗi nhà thơ và trường hợp tác giả
Nguyễn Khuyến với sự biến động của lịch sử, tiếng nói cá nhân của Tam
Nguyên Yên Đổ sẽ hiện ra trong sáng tác ...
II. Sự thể hiện “cái tôi” trong thơ ca trung đại:
Khác với thơ Thiền, trong thơ trung đại có sự bộc lộ “cái tôi” tác giả,
tuy “cái tôi” của tác giả trung đại chỉ hiện ra trong khuôn khổ, giới hạn văn
hoá trung đại . Chưa có được ý thức về sự tồn tại của mình như một cá thể
độc lập, con người trong văn học trung đại ẩn mình, hoà vào trong quan hệ
cộng đồng, quan hệ với “nước”, “làng”, “tộc”, “nhà”. Và cũng khác với “cái
tôi” như trong thơ mới diễn ra trong văn minh đô thị hoá, con người trong
văn minh nông nghiệp, trồng lúa nước luôn cảm thấy có mối quan hệ mật
thiết, gắn bó giữa họ với thiên nhiên. Họ nhận thức rằng thiên nhiên có một
sức mạnh khôn cùng , chế tiết vạn vật. Thậm chí con người là bộ phận trong
chỉnh thể mà được vận hành bởi “khí” trong vũ trụ, khí tồn tại trong vạn vật,
trong con người con người phải ứng xử, hành động thưo cái “khí”, cái “đạo”
chung đó. Đó là cơ sở triết học, để cho thấy “cái tôi” trong thơ của nhà nho là
“cái tôi tự nhiệm” (tự mình lãnh nhiệm trách nhiệm thiên sứ). Họ xem mình là
con người nhận được nhân cách từ vũ trụ, nên mang sứ mạng thiên sứ cao cả
đối với xã hội.
Xuất phát từ cơ sở văn hoá có chiều sâu từ tư tưởng triết học - tôn giáo
như vậy , đặc biệt là tư tưởng coi thiên nhiên là trung tâm, con người trong
thơ trung đại luôn tìm mọi cơ hội để tan biến vào thiên nhiên. Do đó, bối
cảnh xuất hiện của “cái tôi” trong thơ ca trung đại là bối cảnh thiên nhiên,
các thi nhân trung đại không hề có ý thức mình là thi nhân. Họ luôn đóng vai
nho sĩ và đặt “cái tôi” của mình vào bối cảnh thiên nhiên “Dường như chỉ có
thiên nhiên mới cảm thông và thấu hiểu được nỗi niềm tác giả : dường như

Trang 5



6

chỉ có thiên nhiên mới xứng đáng là bạn để nhà thơ phô bày tâm sự của
mình” (theo Trần Nho Thìn , “sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện “cái tôi”
tác giả”).
Vậy xuất hiện trong bối cảnh thiên nhiên, “cái tôi” trong thơ trung đại
có những biểu hiện nào ? Tiếp cận với thơ ca Nguyễn Trãi, Bỉnh khiêm .. ta
thấy một “cái tôi” nhà nho ẩn dật. Khi chốn quan trường lấm bụi trần với sự
ganh đua danh lợi, họ thường trở về với thiên nhiên, hoà vào môi trường thiên
nhiên thuần khiết. Ở chốn thanh tịnh, không có một dấu vết nào của cuộc
sống xã hội, “cái tôi” nho sĩ thật sự gắn bó, thân thiết, một mối quan hệ đặc
biệt với thiên nhiên. Bài thơ “Bến đò xuân đầu trại ” (trại đầu xuân mộ)của
Nguyễn Trãi, ta thấy con người không lộ diện mà ẩn hiện trong cảnh, có sự
hài hoà giữa cảnh và người. Giữa sắc xuân, sức xuân, tại sao con đò – vật
động – lại nằm gối đầu trên bãi cát nằm yên ? Đó hẳn là nổi cô đơn, tiếng thở
dài của một danh nho bị phụ bạc, phải dời kinh đô về Côn Sơn ẩn dật. Sau đây
thử đọc lại bản kịch thơ :
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”
(Khương Hữu Dụng dịch)
ChươngII:"Sự thể hiện “cái tôi” trong thơ Nguyễn Khuyến
I. Sơ lược về cuộc đời – con người Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn
hóa xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) được nhân dân tôn trọng bằng cách
xưng danh ông là Tam Nguyên Yên Đổ hoặc Hàng Và, do ghép học vị Tam
Nguyên – Hoàng Giáp, với tên làng xã quê hương ông, làng Và, xã Yên Đổ,


Trang 6


7

huyện Bình Lục. Thực ra quê gốc bên nội của ông là huyện Can Lộc, Hà
Tĩnh. Nhà thơ xuất thân từ một gia đình nhà Nho, gia đình giàu truyền thống
khoa bảng, ít nhất là năm đời khoa bảng. Giáo sư Trần Quốc Vượng nhấn
mạnh thêm điểm dưới đây về nhà Nho Nguyễn Khuyến: “Nhìn chung, cả hai
bên nội ngoại là nhà nho nghèo. Đó là cội rễ. Nguyễn Khuyến: Uy thế tinh
thần ở trên dân (nông dân) vì là sĩ, tầng lớp sĩ phu – nhưng mà sống không xa.
Dân mà gần dân, thân dân, nước cống như dân cày nghèo nhưng lối sống (thi
tửu) thì là của nhà Nho”. Đây là chi tiết cho thấy tính chất gần gũi với dân,
tính chất dân gian trong thơ Nguyễn Khuyến (bên cạnh chất bác học). Và cái
lối sống giản dị, thanh bạch, trọng đạo lý đã in dấu trong thơ văn cụ Yên Đổ.
Một đại Nho mà sống gần dân, gắn bó và thấu hiểu dân, chắc chắn dấu ấn của
“con người của dân” không cố tình cũng ẩn hiện ra trong thơ…
Một nhà Nho, đại Nho sinh ra dưới thời Nho giáo dù sắp đến hồi cáo
chung, một thời quân chủ độc chuyên, ông cũng đã sống lối sống ngàn xưa
của người Việt: “Sống ở làng, sang ở nước”. Nguyễn Khuyến đã đổ ông
Nghè, được vua Tự Đức ban cờ biển “Tam Nguyên”, về làng được “vinh
quy”. Ông Nghè Yên Đổ ở làng thuộc hạng “mát mặt”. Thế nhưng, cáo quan
về quê, ông không sử dụng uy quyền cụ Nghè. Nhiều khi cụ Tam Nguyên
đóng vai trò “phỗng đá”, “giả điếc”, “mẹ Mốc”, “rằng quan nhà Nguyễn cáo
về đã lâu”…
Khi Nguyễn Khuyến ở cái tuổi đi thi, “lều chõng” thì thực dân Pháp đã
ngấp nghé ở bến cảng Đà Nẵng, khi ông đã đỗ đầu ba kì thi quân Pháp đã
chuẩn bị đánh ra Hà Nội. Nguyễn Khuyến ra làm quan thì giặc Pháp đã từng
bước đặt ách đô hộ lên đất Việt. Làm quen không lâu ông cáo quan về vườn
Bùi, từ đó bước ngoặt cuộc đời, đặc biệt là thơ ca của cụ Tam Nguyên thay

đổi hẳn. Có người cho rằng có hai giai đoạn trong đời thơ Nguyễn Khuyến:
Giai đoạn trước khi về vườn Bùi và giai đoạn sau khi về vườn Bùi (Nguyễn

Trang 7


8

Huệ Chi). Một sự thay đổi của môi trường “trà dư tửu hậu”, trở về với “hương
đồng gió nội”, phạm trù cái cao cả trong thơ cũ ở nhà Nho hành đạo đã
chuyển sang nhường chỗ cho yếu tố đời thường. Chính ở môi trường hiện
thực: buồn vui sướng khổ của nhân dân, trước cảnh bọn thực dân nã chết bao
nhiêu người yêu nước, có người “ngậm bồ hòn làm ngọt” làm quan cho Tây,
ông đã cảm nhận sự bất lực và bế tắc của nhà Nho đương thời “quan chèo vai
nhọ", và lòng thi nhân cảm thấy tha thiết, gần gũi với nhân dân biết bao. Ông
“tắm trong dân”, trở thành nhà thơ Nôm kiệt xuất, nhà thơ của làng cảnh quê
hương Việt Nam.
Sống trong một thời đại biến cố: giặc Pháp xâm lược, một thời đại có
sự lựa chọn giữa công cuộc chinh phục-chống chinh phục thực dân, thời đại bi
đát của cả làng cả nước, cụ Tam Nguyễn đã chọn giải pháp, một thái độ: Từ
quan về quê. Nhưng làm sao có thể không “bỏ lòng” không day dứt nội tâm.
Mặc cảm được giải toả trong thơ, thành thơ, do vậy hiện ra trong thơ Nguyễn
Khuyến, có một “cái tôi” tự họa. Một cái tôi nhận thấy sự xuống dốc của Nho
giáo, sự “bật gốc của giáo dục – văn hóa cổ truyền” (Theo ý của GS. Trần
Quốc Vượng).
Đọc thơ cụ Nguyễn ở giai đoạn "lên lão", cái thời giao thoa văn hóa
Đông – Tây tự nguyện hoặc cưỡng bức, dấu ấn “cái tôi” buồn bã, khóc cùng
“ông phỗng đá” khá rõ. Thậm chí giữa ông và các nhân vật trữ tình là một:
“Biết đâu lão đấy ta đây một người”. Tìm đến với “cái tôi” trong thơ
Nguyễn Khuyến, người đọc ngày nay nhận ra nỗi cô đơn và niềm uất hận

trong lòng thi nhân:
Nghĩ đến bút nghiên giàn nước mắt
Chạnh nhìn sông núi xiết buồn đau
Như vậy, tìm hiểu con người cuộc đời Nguyễn Khuyến trong bối cảnh
văn hóa xã hội cuối thế kỷ XIX giúp người nghiên cứu phần nào nhận chân,

Trang 8


9

“đọc” ra “cái tôi” nhà thơ trong sáng tác của ông và thấy được một nhà Nho
nặng lòng với dân tộc.
II. Biểu hiện của “cái tôi” trong thơ Nguyễn Khuyến
II.1. Tư thế một nhà Nho tự thẹn, tự nhận thức, tự trào
Chín lần lều chõng đi thi và đỗ đạt (Tam Nguyên), Nguyễn Khuyến là
nhà Nho đích thực, một danh Nho. Vậy điều gì làm cho nhà Nho Yên Đổ băn
khoăn, tự thẹn, trăn trở day dứt ? Tư cách một nhà Nho, các nho sĩ trước
Nguyễn Khuyến có lo nghĩ day dứt không ? Điều này không khó trả lời,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… các tác giả văn học nổi tiếng này đã
không ít đau buồn và cô độc khi lui về ở ẩn. Vì sao vậy ? PGS.TS. Trần Nho
Thìn cắt nghĩa khá rõ: “Sự kiên trì lý tưởng đạo đức, quyết tâm giữ vững nhân
cách nhà Nho. Chủ trương một lối sống lánh đời tất mang sắc thái lội ngược
dòng lánh đục về trong và tất có nét cô độc”. Nguyễn Khuyến khi từ chối
chức Tổng đốc Sơn Tây tức là từ chối danh lợi như không ít các nhà Nho
trước đó. Có điều, đối với các nhà Nho trước, có hai con đường: xuất và xử.
Khi con đường làm quan hanh thông thì tiếp tục làm quan, khi không thuận
lợi thì cáo quan về ở ẩn hoặc dạy học. Có trường hợp từ quan vì vua không
“minh quân”, quan lại ganh ghét đố kị. Như trường hợp của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm… Con đường từ chối chức Tổng đốc Sơn Tây không vì

lẽ đó khi giặc Pháp thực sự đặt ách thống trị lên đất nước (1881), nhiều nho
sĩ, trí thức Việt Nam đã đi theo ngọn cờ Cần Vương. Nguyễn Khuyến đã băn
khoăn trước ngã ba đường, cuối cùng, ông quyết không hợp tác với giặc,
nhưng cũng không đủ trí dũng để chiến đấu. Giải pháp của nhà nho này là từ
quan về với vườn Bùi, quê hương của ông. Như đã nói, về quê là một bước
ngoặt trong đời thơ Nguyễn Khuyến. Ở đây cần nhấn mạnh một vấn đề khác:
tư cách nhà Nho Nguyễn Khuyến. Là một nho sĩ từng bước qua cửa khổng

Trang 9


10

sân trình, cũng như bao Nho sĩ khác, ông mong muốn và tin tưởng “vào sứ
mệnh cao cả và thiêng liêng cao cả mà một nhân cách đứng giữa trời đất như
mình được, tin tưởng vào tính hữu ích của cái học vấn mà mình có được nhờ
học tập sách thánh hiền” (Trần Nho Thìn). Nhưng giờ đây “áo xiêm nghĩ lại
thẹn thân già” nhà Nho Nguyễn Khuyến luôn day dứt, mặc cảm về sự bất lực
của bản thân trong tư cách một nhà Nho. “Có thể nói, qua thơ Nguyễn
Khuyến, lần đầu tiên trong lịch sử, nhà Nho tự thú về sự vô dụng của mẫu
người mà mình đại diện. Nhà thơ tự trách vấn, tự xỉ vả, thậm chí tự mạt sát”.
Tư cách một nhà văn hóa, một người tự ý thức rất rõ về sự bất lực của loại
hình nhân cách như mình, sự vô dụng của một trí thức trước cảnh nước mất,
nhà tan:
“Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”
(Ngày xuân dặn các con)
Cũng ở bi kịch của một nhà Nho trước thời cuộc, “cái tôi” Nguyễn
Khuyến hiện ra ở biểu hiện “tự trào”:
“Mở miệng nói ra gàn bát sách

Mềm môi chén mãi tít cung thang
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”
(Tự trào)
Như vậy, bối cảnh lịch sử xã hội lúc bấy giờ - sự đô hộ của giặc Pháp –
là một sự kiện tác động lớn đến ý thức của nhà Nho Việt Nam, khiến con
người văn hóa Nguyễn Khuyến không khỏi nhận thức lại vị trí của giai cấp
mình.
Cũng với tư cách nhà Nho trước thời cuộc, ông đã nhìn về kẻ thù với
cái nhìn nhà Nho.

Trang 10


11

Bởi theo Nguyễn Khuyến, một trong hai tội ác của giặc là việc làm
đương khai mỏ có hại cho vận mệnh dân tộc giống như việc làm tổn thương
long mạch theo quan điểm phong thương. Cách nghĩ cách nhìn này rõ ràng
đứng ở tư cách một nhà nho:
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả
Phá tung phênh dậu hạ di rồi
Trước thời cuộc nhiễu nhương mà mình - một trí thức, một nhà nho bất
lực, Nguyễn Khuyến tự thẹn, tự trào với chính mình. Nhiều bài thơ của thi
nhân đã hiện ra “cái tôi” như thế:
Cánh vô thực học tì suy thế
Thặng hữu hư danh quán đại đình
(Cận thuật)
(Dịch nghĩa: Đã không có cái học để giúp đời đang suy lại còn mang
cái hư danh đỗ đầu thi đình.)

Chân thành tự thẹn với chính mình, đó là một nhân cách đáng trọng. Tuy
nhiên, Nguyễn Khuyến không nghĩ thế. Càng tự ý thức về bản thân, thi nhân
Nguyễn Khuyến càng cảm thấy cái sự học của nhà Nho thật vô nghĩa, thấy
bản thân mình thật đáng bị phủ định. Ông phủ định chính mình bằng hình
thức “tự trào” thật chua chát:
Năm nào năm nảo hãy còn ngây
Sầm sập già đây hãy đến ngay
Mái tóc phần sâu phần lốm đốm
Hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay
Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tơ
Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say
Còn một nỗi này thêm chán ngán
Đi đâu lủng củng cối cùng chày

Trang 11


12

Thông thường, tư cách nhà nho khiến cho các nho sĩ trước đó diễn tả
trong thơ tư thế thiên sứ của mình: thực thi cái đạo (nguyên lý trị nước,
nguyên lý tổ chức xã hội, nguyên lý sống và các nguyên lý khác của vũ trụ).
Nhà nho truyền thống quan niệm: trời sinh đức ở ta tự thấy mình có nhân cách
và hướng quan sát xã hội từ bên ngoài, bên trên. Họ tỏ rõ sự nghiêm túc, khi
ngợi ca hay phê phán. Do vậy, đến Nguyễn Khuyến mới có hiện tượng một
danh Nho “tự trào”, thậm chí lấy cái xấu, cái tệ của mình ra mà cười cợt.
Mạch “tự trào” trong việc thể hiện “cái tội” của Nguyễn Khuyến biểu lộ ở khá
nhiều tác phẩm như bài “tự trào”, “tự thuật”. Dưới đây là các bài “tự thuật”
viết bằng ngôn ngữ khác nhau:
Bài “tự thuật” viết bằng chữ Nôm:

Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay
Ông ngẫm mình ông nghĩ cũng hay
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ
Răng long ngày trước hãy còn đây
Câu thơ được chửa, thưa rằng được
Chén rượu say rồi nói chửa say
Kẻ ở trên đời lo lắng cả
Nghĩ ra ông sợ cái ông này
Bài “tự thuật” viết bằng chữ Hán:
Tự thuật (II):
Dịch thơ:
Đã bốn năm năm trở lại nhà
Làm gì được nữa, tóc phơ phơ
Cảnh nghèo mặt võ thân thêm võ
Người bệnh hình trơ bóng cũng trơ
Và cạn hoa vàng như muốn giễu

Trang 12


13

Thư không âu trắng hẳn sinh ngờ
Kiếp sau ai sẽ là ta nhỉ
Ai sẽ phong lưu sánh kịp ta
Xét hai bài “tự thuật” trên, thì bài nguyên viết bằng chữ Nôm có cái
chua chát của ông nhà Nho thất thế, mất thời. Còn bài “tự thuật” (II) viết bằng
chữ Hán kết thúc bằng hai câu hỏi, hỏi như đang tự vấn, cười cợt với sự
“phong lưu” vô nghĩa của mình. Cần nói thêm rằng, nếu như trước ông việc
ẩn dật là một cách bảo vệ lí tưởng, cách hành đạo thì với vị quan họ Nguyễn

này, lần đầu tiên trong lịch sử nho giáo Việt Nam, về ở ẩn có nghĩa là từ bỏ tư
thế nhà Nho để làm người dân thường:
“Kẻ thù còn đó đọc gì Xuân Thu
Lòng đã dứt mọi mối lo
Âu là chống gậy ngao du cho rồi”
(Cảm nghĩ đầu xuân)
Như vậy, với tư cách một nhà Nho, biểu hiện của “cái tôi” Nguyễn
Khuyến trong thơ là một cái tôi suy tư. Vậy bối cảnh nào làm nền cho sự xuất
hiện của cái tôi ấy ? Như đã diễn ra ở phần “cái tôi” trong văn học trung đại,
theo ý của PGS.TS. Trần Nho Thìn (sách đã dẫn): “Song điều đáng phải nói
rõ là trong khi gạt bỏ cuộc sống xã hội, họ lại cứ nhất thiết đặt “cái tôi” của
mình vào bối cảnh thiên nhiên nào đó”. Khảo sát lại những bài thơ “tự trào”
của thi sĩ Nguyễn Khuyến đã trích dẫn, cho thấy một điểm khác biệt của riêng
ông khi thể hiện “cái tôi” nhà Nho, nhà thơ không tạo bối cảnh thiên nhiên –
không gian cho cái tôi tự thẹn, tự trào xuất hiện mà chủ yếu vẽ ra bối cảnh xã
hội, bối cảnh cá nhân đời thường của ông để tự đó gởi gắm một cái tôi tự
thẹn, tự xấu hổ hay cười cợt về sự vô dụng với tư cách một nhà nho. Và thêm
nữa, cái tôi ấy không phải xuất hiện trong tư thế người chứng kiến từ bên
trên, bên ngoài như các Nho sĩ thường thể hiện mà bằng chính hình ảnh của

Trang 13


14

người trong cuộc . “Ông ngẫm mình ông nghĩ cũng hay”, người trong cuộc tự
thấy mình là “con người thừa”. "Tự trào" chính chân dung của mình là điểm
riêng của Nguyễn Khuyến so với những nhà thơ trước đó.Phải chăng,đó là
dấu hiệu sự cáo chung của văn học nhà Nho?Ý kiến dưới đây của nhà nghiên
cứu Trần Nho Thìn có ý nghĩa khái quát hơn khi nói về vấn đề này."Không

phải tất cả các nhà thơ ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều tự trào,nhưng
cũng phải thấy tự trào là một hiện tượng đặc biệt,một dấu hiệu không thể
thiếu của giai đoạn văn học chuyển từ truyền thống,trung đại sang hiện đại."
Trong loạt bài thơ về “ông phỗng đá”, Nguyễn Khuyến đã lên án loại
người “ngây ngây dại dại” vô cảm trước nỗi đau của nhân dân, nhưng cuối
cùng ông kết luận, ông phỗng đá đáng cười ấy hóa ra lại là chính nhà thơ:
“Cõi hoá cùng đi lại
Không chừng bác cũng ta”
Chính bởi xuất phát từ người trong cuộc, nên các bài tự trào mang máu
thịt, bóng hình cụ Yên Đổ. Đó là điểm khác với tự trào của Tú Xương: tự trào
để chửi đời hơn là bộc bạch tâm sự mình.
Có một “cái tôi” trong thơ Nguyễn Khuyến qua mảng thơ tự trào đã bôi
đen mình. Hình ảnh Nguyễn Khuyến yếu đuối, nhếch nhác, cam chịu, bế tắc
hiện ra dưới nhiều gốc độ khác nhau: “Ông say”, “ông lòa”, “anh giả điếc”,
“lão đá”, “đồ chơi”, “mẹ Mốc”. Ông muốn phủ nhận con người bất lực của
chính mình qua những hình ảnh ấy. Như vậy, “cái tôi” của Nguyễn Khuyến
trong thơ không thường xuất hiện ở bình diện con người thứ nhất, kiểu như
“Này của Xuân Hương”… mà hiện diện ở tư cách con người thứ hai…
II.2. Tư thế nhà Nho tự tin, tự hào vào bản thân
Cũng ở mảng thơ “tự trào”, nhà Nho Yên Đổ lại cho thấy một cái tôi
không phải “tự thẹn” mà ngược lại, đó là một cái tôi tự tin. Số lượng bài thơ
tự trào dạng này không phải là ít. Nhà nghiên cứu khoa học Vũ Thạch – khi

Trang 14


15

thống kê số lượng tác phẩm “tự tráo”, đã đếm được 24 bài thơ thể hiện niềm
lạc quan, tự tin vào bản thân của thi sĩ họ Nguyễn này (Thống kê văn bản

trong Nguyễn Khuyến – tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền, NXB Khoa học xã
hội, H, 1984). Đó không phải là con số ít ỏi. Qua đó cho thấy thái độ lạc quan,
vươn lên vượt khó của anh khóa Thắng (tên trước khi thi đỗ của Nguyễn
Khuyến):
“Quyết chí phen này trang trải sạch
Cho đời rõ mặt cái thằng tao”
(Than nợ)
Tuy nợ “lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi” (Than nợ) và nghèo đến độ “Danh
giá nhường này không nhẽ bán” (Than nghèo), chàng sĩ tử quyết tâm vượt
khó, quyết tâm mang bảng vàng về sau khi “lều chõng”. Tuổi trẻ không nản
chí, lý tưởng, mơ mộng mở ra niềm hy vọng tươi sáng cho người con Yên Đổ:
Gặp hội rồng mây cao chót vót
Đã lên, lên bổng tít bao chừng
(Cá chép vượt đăng)
Một cái tôi tự tin, trong sáng ấy, dù trải qua năm tháng, thời cuộc, đến
tuổi già, trong thơ ông vẫn còn cái dáng dấp tự tin ấy:
“Một năm, một tuổi, trời cho tớ
Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng…”
(Khai bút)
Đọc các câu thơ dưới đây trong bài “lên lão”, ta bắt gặp niềm vui của
ông già Yên Đổ:
“Ông chẳng hay ông tuổi đã già
Năm lăm ông cũng lão đây mà
Anh em làng xóm xin mời cả
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là”

Trang 15


16


Như vậy, xuyên suốt hành trình cuộc đời mình, từ đi thi đến thi hỏng,
nợ nần nghèo đói, tuổi già, muốn vượt lên trên hoàn cảnh, Nguyễn Khuyến
nhiều lần động viên mình. Dẫu nghèo khó, tư thế một nhà quan, một nhà nho,
ông đã có lúc đầy khí thế:
Vốn lăm chí xông pha trời thẳm
Đâu phải là điều én, sẻ hay
(Vân ngoại bằng đoàn)
Ở bài “Hý thủy thanh danh” viết bằng chữ Hán, ta thấy ở ông một cái
tôi “rạo rực những ước mơ”.Dưới đây là hai câu thơ dịch:
Những ước được thời, cơn gió cả
Chút vui thôi cũng vượt muôn trùng
Rõ ràng,ngay ở thơ "tự trào" của Nguyễn Khuyến,người đọc tinh ý nhận ra
một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình.Nhà
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói :"ta dại ta tim nơi vắng vẻ " thì có ai nghĩ về tác
giả đúng nguyên như lời nói.Cũng vậy,trong lời nói có tính phủ định của
Nguyễn Khuyến,có một tiếng nói khác,một tiếng nói phản tỉnh,một tiếng nói
khẳng định,để đằng sau đó ẩn chứa sự tự tin và tự hào của tác giả.
Nói chung,tự tin và tự hào có ý nhĩa tích cực đối vói Nguyễn Khuyến, có ý
nghĩa động viên rất lớn với một danh nhân giàu lòng tự trọng,tự ý thức về giá
trị chân chính của bản thân dù bị lý thuyết nhà Nho phần nào làm hạn chế.
II.3 Tư thế “cái tôi” bình dân , phi Nho
Như đã giới thuyết ở chương I, mục : sự thể hiện “cái tôi” trong thơ ca
trung đại, “cái tôi” nhà Nho chủ yếu xuất hiện ở tư cách nhà nho. Họ xem
mình là một bộ phận trong chỉnh thể Thiên – địa – nhân và có một thiên sứ
đặc biệt mà vũ trụ giao phó. Đến Nguyễn Khuyến , đã xuất hiện “cái tôi”
bình dân. Đây là lần đầu tiên có một cái tôi đời thường, gắn bó và hoà đồng
với con người, cảnh vật ở làng quê. “Cái tôi” của một nhân cách văn hoá thực

Trang 16



17

sự sống trọn vẹn trong đời sống văn hoá thường ấy đã nghe được “Những
vang vọng của đời”:
Lưng trời gió vút diều ngân vắng
Khắp chốn cành cao chim rúc ran
Ấm xóm, gái già văng cãi tục,
Rộn ràng, trai khoá ngủ không an.
Ở đây với tư thế bình dân, “cái tôi” nhà nho không còn đứng bên ngoài
, đứng cao hơn xã hội để quan sát nữa. Có một “cái tôi” thật gần gũi, gắn bó
với đời thường, những niềm vui bình dị của đời sống:
Cháu trai đứng sán lấy ông
Xóm giềng thấy khách cửa thông sang chào.
Đọc lại thơ cụ Tam Nguyên Yên Đỗ , ta thấy rõ một “cái tôi” dân quê
đích thực. “Cái tôi” ấy lo lắng trước nạn thiên tai như bao người dân.
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lỡ rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi”.
Đọc bài thơ “Ngày xuân dạy các con” (thơ dịch – Vũ Mộng Hùng dịch)
, ta thấy một “cái tôi” quan tâm đến cả chuyện “mắm múi dưa cà” thường
ngày . Hai câu kết như sau :
“Các con nối chí cha nên biết
Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà”
Lâu nay sách vở ngợi ca nhiều về không khí làng quê, tính chất hiện
thực xuất hiện nhiều và sinh động trong thơ Nguyễn Khuyến. Dù chưa phải đã
là chủ nghĩa hiên thực , “nhưng cũng phải thừa nhận rằng việc miêu tả cuộc
sống hằng ngày là một dấu hiệu đánh dấu sự chuyển mình trong nguyên tắc

Trang 17



18

nhìn nhận và phản ánh thực tại của văn chương nhà nho!”. (theo nhà nghiên
cứu Trần Nho Thìn, ‘từ những biến động trong nguyên tắc phản ánh thực tại
của văn chương nhà nho đến bức tranh sinh hoạt nông thông trong thơ
Nguyễn Khuyến’).Việc từ bỏ tư thế nhà nho, trở về với con người bình
thường để vui buồn cùng gia đình, cùng người nông dân là một điểm son mới
của nhà thơ Nguyễn Khuyến, đã báo hiệu bước chuyển biến quan trọng của
văn chương nhà Nho cuối thế kỷ XIX hướng về phía phản ánh thực tại khách
quan.
KẾT LUẬN
Xuất hiện trên văn đàn Việt Nam cuối thế kỷ XIX, sáng tác của
thi nhân Nguyễn Khuyến cũng nằm trong phạm trù văn hoá văn học Trung
đại. Nhà Nho cuối mùa này một mặt vẫn thể hiện ‘cái tôi’ nhà Nho theo
nguyên lý triết học – Nho giáo thời phong kiến. Với quan niệm nhân cách
của mình được vũ trụ ban cho, nhà nho tự nhiệm về vai trò của mình đối với
xã hội, đối với cuộc đời. Tuy nhiên dù đứng ở vị trí nào, “cái tôi” xuất hiện
trong bối cảnh thiên nhiên đều lấy thiên nhiên làm chuẩn, thiên nhiên có một
ý nghĩa đặc biệt đối với nhà Nho trong việc thể hiện tư tưởng, tình cảm và
khẳng định nhân cách của họ. Bởi vậy, nếu xuất hiện trong bối cảnh xã hội
“cái tôi” nhà Nho chỉ đứng ở tư thế bên ngoài, bên trên để nhìn nhận bày tỏ
lập trường. Dù không bàng quan với cuộc sống dân tình, “cái tôi” ấy vẫn đặt
mình ở vị thế “Cao hơn xã hội, cao hơn nhân dân” (theo PGS.TS.Trần Nho
Thìn).
Có một “cái tôi” khác của nhà Nho văn học trung đại chưa được nhắc
đến trong bài viết này , đó là “cái tôi” đơn nhất –theo cách gọi của Trần Nho
Thìn :“chỉ loại “cái tôi” không xuất hiện trong mối liên hệ cụ thể,trực tiếp với
hoàn cảnh sống hay môi trường hoạt động”.

Nói chung, “cái tôi”của văn học Hán Nôm khác với “cái tôi”trong văn
học hiện đại.Không có “cái tôi” hiện diện ở ngôi thứ nhất với khát vọng sống

Trang 18


19

mãnh liệt như trong thơ Mới, thơ văn trung đại hiện ra một “cái tôi” tan biến
vào thiên nhiên, làm thiên sứ của thiên nhiên, mờ nhòa cá tính cá nhân.
Ra đời trong bối cảnh văn hóa trung đại, lịch sử xã hội biến động,cái tôi
nhà Nho Nguyễn Khuyến một mặt mang những đăc điểm của “cái tôi” trung
đại, mặt khác vừa có biểu hiện của sự cựa quậy của con người cá nhân ở thời
điểm giao thời.Bên cạnh “cái tôi” nhà Nhà Nho đầy ý thức trách nhiệm, thơ
của cụ Tam Nguyên còn xuất hiện “cái tôi”bình dân,thật sự hòa đồng với nhân
dân. Đây là một điểm mới mẻ, tạo một bước đệm cho sự xuất hiện của “cái
tôi” ý thức sâu sắc nhân cách độc lập, không chịu lệ thuộc của họ.

- HẾT-

Trang 19



×