Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Xuất nhập khẩu 2002 2008 k11kt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.23 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM
KHOA KINH TẾ

TIỂU LUẬN NHÓM : MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
CHUYÊN ĐỀ :XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 - 2008
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Lớp kinh tế vĩ mô : K11KT
Danh sách sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thị Thục Trinh
2. Y Hả

...Kon.Tum..., tháng .5.. năm ..2018.


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GẠO
Ở VIỆT NAM......................................................................................4
Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu:..........................................4
Xuất khẩu:..................................................................................4
1.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu:....................................8
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu:..........14
Chương 2: THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẤU VIỆT NAM TỪ 2001 TỚI
NAY.................................................................................................17
2.1. Tình hình xuất nhập khẩu chung ở Việt Nam giai đoạn 20012008:...........................................................................................17
2.1.1 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu
của Việt Nam giai đoạn 2001-2008.........................................17
2.1.2 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 20012008.........................................................................................17
2.2 Những thành tựu đạt được:...................................................19
2.2.1 Về quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu:................19
2.2.2 Về chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu:..................20


2.2.3 Về chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu:................20
2.3. Mặt hạn chế và các giải pháp khắc phục:............................21
2.3.1 Những mặt hạn chế:.......................................................21
2.3.2. Giải pháp khắc phục:.....................................................22
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH.......................................23
XUẤT NHẬP KHẨU...........................................................................23
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌP NHÓM THẢO LUẬN..................28


LỜI MỞ ĐẦU:
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là xu thế tất yếu khách quan. Trong những năm gần đây,
xu thế toàn cầu hóa kinh tế gắn liền với sự phát triển của khoa học – kĩ thuật, sự phát triển nhảy
vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Kinh tế
thị trường là một nền kinh tế mở, do đó mỗi nước cần có những mối quan hệ với thị trường thế
giới, không một quốc gia nào tách khỏi thị trường thế giới mà có thể phát triển nền kinh tế của
mình. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập nền kinh tế thế
giới. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế là vấn đề quan trọng của công cuộc đổi mới.
Xuất nhập khẩu là một trong những hình thức chử yếu của kinh tế đối ngoại, đối với mỗi
quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển như nước ta, ngoại thương có tác dụng rất lớn, rất
quan trọng. Việc mở rộng giao lưu kinh tế thế giới sẽ mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu
của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên,
mỗi quốc gia có những đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất riêng biệt… Do đó cần
phải nhận rõ tầm quan trọng của xuất nhập khẩu, tình hình thực tế về ngoại thương của nước ta để


đề ra những giải pháp, chiến lược thích hợp để phát triển hội nhập kinh tế. Bên cạnh đó, việc trao
đổi hàng hóa giữa các quốc gia đem đến nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách.
Nhằm hiểu biết rõ hơn về vấn đề kinh tế trên, nhóm thuyết trình xin chọn đề tài “Xuất

nhập khẩu của Việt Nam từ 2001 tới nay, thực trạng và giải pháp”. Đề tài này rất rộng và mang
tính thời sự, tuy nhiên do hiểu biết của nhóm thuyết trình còn hạn chế nên chúng em chỉ xin đóng
góp một phần nhỏ hiểu biết của mình.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GẠO Ở
VIỆT NAM
Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu:
1.1.1. Khái niệm:
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia với phần còn
lại của thế giới dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ thị trường nhằm mục đích khai
thác lợi thế của quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu:
-

Đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn.

-

Phát huy được lợi thế so sánh của mình,sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên phong
phú có sẵn và nguồn lao động.

-

Tăng cường hợp tác phân công và chuyên môn hoá quốc tế, đưa nền kinh tế của
mình hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.


-


Phải có tính chủ động trong kinh doanh, liên kết tìm bạn hàng, tạo được nguồn vốn
đầu tư từ nước ngoài vào để đầu tư trang thiết bị hiện đại để xuất khẩu được hàng
hoá.
1.1.3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu:
1.1.3.1 Xuất khẩu trực tiếp:
Là một hình thức xuất khẩu mà trong đó các nhà sản xuất, công ty xí nghiệp và các

nhà xuất khẩu, trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán trao đổi hàng hoá với các đối tác nước
ngoài.
Hình thức này không qua một tổ chức trung gian nào, có thể trực tiếp gặp nhau cùng
bàn bạc thảo luận để đưa đến một hợp động hoặc không cần gặp nhau trực tiếp mà thông
qua thư chào hàng, thư điện tử , fax, điện thoại... cũng có thể tạo thành một hợp đồng mua
bán kinh doanh thương mại quốc tế được ký kết.
Ưu điểm:
-

Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu
lầm đáng tiếc.

-

Giảm được chi phí trung gian, nhiều khi chi phí này rất lớn, phải chia sẻ lợi nhuận.

-

Giao dịch trực tiếp sẽ có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của
khách hàng, khắc phục thiếu sót.

-


Chủ động trong việc chuẩn bị nguồn hàng, phương tiện vận tải để thực hiện hoạt
động xuất khẩu và kịp thời điều chỉnh thị trường tiêu thụ, nhất là trong điều kiện thị
trường nhiều biến động.

Hạn chế:
-

Đối với thị trường mới chưa từng giao dịch thường gặp nhiều bỡ ngỡ, dễ gặp sai
lầm, bị ép giá trong mua bán.

-

Đòi hỏi cán bộ công nhân viên làm công tác kinh doanh xuất khẩu phải cónăng lực
hiểu biết về nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ, văn hoá của thị trườngnước ngoài,
phải có nhiều thời gian tích luỹ.

-

Khối lượng mặt hàng giao dịch phải lớn mới có thể bù đắp được các chi phí trong
giao dịch như: giấy tờ, đi lại, nghiên cứu thị trường….
1.1.3.2. Xuất khẩu gián tiếp (uỷ thác):


Là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra
với vai trò trung gian thực hiện xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị uỷ thác . Xuất khẩu uỷ
thác gồm 3 bên, bên uỷ thác xuất khẩu, bên nhận uỷ thácxuất khẩu và bên nhập khẩu. Bên
uỷ thác không được quyền thực hiện các điềukiện về giao dịch mua bán hàng hoá, giá cả,
phương thức thanh toán.... mà phải thông qua bên thứ 3 - người nhận uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp không được phép
kinh doanh xuất khẩu trực tiếp hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp,uỷ thác cho

doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu làm đơn vị xuất khẩu hàng hoácho mình, bên nhận uỷ
thác được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Ưu điểm:
-

Giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tìm nguồn đầu ra cho sản phẩm của mình.

-

Tận dụng sự am tường hiểu biết của bên nhận uỷ thác trong nghiệp vụ kinh doanh
xuất khẩu từ khâu đóng gói, vận chuyển, thuê tàu mua bảo hiểm… sẽ giúp doanh
nghiệp tiết kiệm được tiền của, thời gian đầu tư cho việc thực hiện xuất khẩu.

-

Giúp cho hàng hoá của doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập vào một thị trường mới mà

mình chưa biết, tránh được rủi ro khi mình kinh doanh trên thị trường đó.
Nhược điểm:
-

Mất mối liên hệ trực tiếp của doanh nghiệp với thị trường (khách hàng).

-

Phải chia sẻ lợi nhuận.

-

Nhiều khi đầu ra phụ thuộc vào phía uỷ thác trung gian làm ảnh hưởng đến sản xuất.

1.1.3.3. Xuất khẩu gia công uỷ thác:
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó có một đơn vị đứng ra nhập nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi sản phẩm để xuất khẩu cho
nước ngoài.
Đơn vị này được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất.
1.1.3.4. Buôn bán đối lưu (xuất khẩu hàng đổi hàng):
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Khối lượng hàng hoá được trao đổi có
giá trị tương đương. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải thu về một khoản ngoại tệ
mà nhằm thu về một khối lượng hàng hoá vớigiá trị tương đương. Tuy tiền tệ không được
thanh toán trực tiếp nhưng nó đượclàm vật ngang giá chung cho giao dịch này.Lợi ích của


buôn bán đối lưu là nhằm mục đích tránh được các rủi ro về sự biến động của tỷ giá hối
đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời có lời khi các bên không đủ ngoại tệ thanh toán
cho lô hàngnhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có
thểlàm cân bằng hạn mục thường xuyên trong cán cân thanh toán quốc tế.
1.1.3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu của nhà nướcgiao cho để
tiến hành xuất một hoặc một số mặt hàng nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở
nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ.
1.1.3.6. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức kinh doanh xuất khẩu mới đang có xu hướng phát triển và phổ biến
rộng rãi do ưu điểm của nó đem lại.
Đặc điểm của loại hàng xuất này là hàng hoá không cần phải vượt qua biên giới
quốc gia mà khách hàng vẫn có thể đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua
lại đến với nhà xuất khẩu. Mặt khác, doanh nghiệp tránh được một số thủ tục rắc rối của hải
quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hoá. Do đó, giảm được
một lượng chi phí khá lớn.
Hình thức xuất khẩu tại chỗ đang được các quốc gia, đặc biệt là các quốcgia có thế

mạnh về du lịch và có nhiều đơn vị kinh doanh, các tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia
đó khai thác tối đa và đã thu được những kết quả to lớn, không thua kém so với xuất khẩu
trực tiếp qua biên giới quốc gia, đồng thời cócơ hội thu hồi vốn nhanh và lợi nhuận cao.
1.1.3.7. Gia công quốc tế:
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên nhậpnguồn nguyên
liệu, bán thành phẩm (bên nhập gia công) của bên khác (bên đặt gia công) để chế biến thành
phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thuđược phí gia công.
Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang được phát triển mạnh mẽ và được nhiều
quốc gia trong đó đặc biệt là quốc gia có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú áp
dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia công, ngoài việctạo việc làm và thu nhập cho
người lao động, họ còn có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc kỹ thuật công nghệ mới
nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Đối với bên đặt gia công, họ được lợi nhuận từ chỗ lợi
dụng được giá nhân công vànguyên phụ liệu tương đối rẻ của nước nhận gia công.Hình thức


xuất khẩu này chủ yếu được áp dụng trong các ngành sản xuất sửdụng nhiều lao động và
nguyên vật liệu như dệt may, giầy da…
1.1.3.8. Tái xuất khẩu:
Tái xuất là sự tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài những mặt hàng trước đây đã nhập
khẩu với điều kiện hàng hoá phải nguyên dạng như lúc đầu nhập khẩu.
Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp không sản xuất đượchay sản xuất
được nhưng với khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu nên phải nhập vào để sau đó tái xuất.
Hoạt động giao dịch tái xuất bao gồm hai hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu với
mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn lúc ban đầu bỏ ra.
Các bên tham gia gồm có: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập
khẩu.Tạm nhập tái xuất có thể thực hiện theo hai hình thức sau:
1.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu:
1.2.1. Nghiên cứu thị trường, sản phẩm xuất khẩu:
1.2.1.1. Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ một công ty

nào khi tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường tạo khả năng cho các nhà
kinh doanh thấy được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến
đổi nhu
cầu, nguồn vốn cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường giúp họ giải quyết được vấn
đề của thực tiễn kinh doanh .
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường,so sánh,
phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vậnđộng của thị trường.
Những kết luận này giúp cho nhà quản lý đưa ra đượcnhững nhận định đúng đắn để lập kế
hoạch kinh doanh, kế hoạch marketing. Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem
xét thị trường và khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường.
Các bước của nghiên cứu thị trường:
-

Nghiên cứu khái quát : Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp nhữngthông tin về
quy mô cơ cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường như
môi trường kinh doanh, môi trường chính trị- luật pháp…


-

Nghiên cứu chi tiết: Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thôngtin về tập
quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của
người tiêu dùng.

Các phương pháp nghiên cứu thị trường:
-

Nghiên cứu tại địa bàn: là nghiên cứu bằng cách thu thập thông tin và cácnguồn tài
liêụ công khai và xử lý các thông tin đó.


-

Nghiên cứu tại hiện trường: là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc
trực tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông tin thu thập được.

Nội dung của nghiên cứu thị trường:
-

Phân tích cung: đầu tiên cần nắm được tình hình cung, là toàn bộ khối lượng hàng
hoá đã, đang và có khả năng bán ra trên thị trường. Cần xem xét giá cả trung bình,
sự phân bố hàng hoá và tình hình sản phẩm của công ty đang ở giai đoạn nào.

-

Phân tích cầu: Từ thông tin về hàng hoá đang bán trên thị trường mà cần xác định
xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được.

-

Đối tượng tiêu dùng: giới tính, nghề nghịêp, giai cấp…

-

Lý do mua hàng.

-

Nhịp điệu mua hàng.

-


Khách hàng tương lai…
1.2.1.2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu:
Đây là một trong những nội dung cơ bản nhưng rất quan trọng và cần thiết để có thể

tiến hành được hoạt động xuất khẩu. Khi doanh nghiệp có ý định tham gia vào hoạt động
xuất khẩu thì doanh nghiệp cần phải xác định các mặt hàng mà mình khẳng định kinh
doanh.Để lựa chọn được đúng các mặt hàng mà thị trường cần đòi hỏi doanh nghiệp phải có
một quá trình nghiên cứu tỉ mỉ, phân tích một cách có hệ thống về nhu cầu thị trường cũng
như khả năng doanh nghiệp.
Qua hoạt động nàydoanh nghiệp cần phải xác định, dự đoán được xu hướng biến
động của thịtrường cũng như khả năng doanh nghiệp. Qua hoạt động này doanh nghiệp cần
phải xác định, dự đoán được xu hướng biến động của thị trường cũng như các cơ hội và
thách thức doanh nghiệp gặp phải trên thị trường thế giới. Hoạt động này không những đòi
hỏi một thời gian dài mà còn phải tốn nhiều chi phí, song bù lại doanh nghiệp có thể xâm
nhập vào thị trường tiềm tàng có khả năng tăng doanh số lợi nhuận kinh doanh.


1.2.2. Lựa chọn đối tác giao dịch:
Sau khi lựa chọn được mặt hàng và thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp muốn xâm
nhập vào từng giai đoạn thị trường đó thì doanh nghiệp phải lựa chọn được đối tác đang
hoạt động trên thị trường có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh cho mình. Việc lựa
chọn đúng đối tác để giao dịch tránh cho doanh nghiệp những phiền toái, những mất mát rủi
ro gặp phải trong quá trình kinhdoanh trên thị trường quốc tế, đồng thời có điều kiện để
thực hiện thành công các kế hoạch kinh doanh của mình. Cách tốt nhất để lựa chọn đúng đối
tác là lựa chọn đối tác có đặc điểm sau:
-

Là người xuất khẩu trực tiếp. Vì với mặt hàng kinh doanh đó, doanh nghiệp không
phải chia sẻ lợi nhuận kinh doanh, do đó thu được lơị nhuận lớn nhất. Tuy nhiên,

trong trương hợp sản phẩm và thị trường hoàn toàn mới thì lại rất cần thông qua các
đại lý hoặc các công ty uỷ thác xuất khẩu để giảm chi phí chi việc thâm nhập thị
trường nước ngoài.

-

Quen biết, có uy tín kinh doanh .

-

Có thực lực tài chính .

-

Có thiện trí trong quan hệ làm ăn với doanh nghiệp không có biểu hiện hành vi lừa
đảo.
Trong quá trình lựa chọn đối tác giao dịch, công ty có thể thông qua các bạn hàng đã

có quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp trước đó, thông qua các tin tức thu nhập và điều
tra được, các phòng thương mại và công nghiệp, các ngân hàng, các tổ chức tài chính để họ
giúp đỡ.
1.2.3. Lập phương án kinh doanh xuất khẩu:
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, các đơn
vị xuất khẩu phải lập phương án kinh doanh cho mình bao gồm:
-

Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt
động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.

-


Lựa chọn mặt hàng thời cơ điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này
phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.

-

Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán lẻ bao nhiêu, thâm
nhập vào thị trường nào.

-

Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu.


-

Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu cơ
bản:
Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ .
Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu .
Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn cho xuất khẩu
. Điểm hoà vốn trong xuất khẩu hàng hoá .
1.2.4. Lựa chọn phương thức giao dịch:
Phương thức giao dịch là các doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế

hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Những phương thức này quy định
những thủ tục cần tiến hành, các điều kiện giao dịch, các thao tác và chứng từ cần thiết
trong quan hệ kinh doanh. Có rất nhiều phương thứcgiao dịch khác nhau như giao dịch
thông thường, giao dịch qua khâu trung gian, giao dịch tại hội trợ, triển lãm, giao dịch hàng
hoá, gia công quốc tế. Tuy nhiên, phổ biến và được sử dụng nhiều nhất là giao dịch thông

thường.
-

Giao dịch thông thường: Đây là sự giao dịch mà người mua và người bán thảo luận
trực tiếp vớinhau thông qua thư từ, điện tín… để bàn về các điều khoản sẽ ghi trong
hợpđồng. Các bước tiến hành giao dịch thông thường bao gồm: Hỏi giá - báo giáchào hàng- chấp nhận, xác nhận.

-

Giao dịch qua trung gian: Là việc người mua và người bán quy định những điều kiện
trong giao dịch mua bán hàng hoá nhờ tới sự giúp đỡ của người thứ 3 để đàm phán
và đi đến ký kết hợp đồng.

-

Buôn bán đối lưu: Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với
nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị
tương đương.

-

Đấu giá quốc tế: Đây là phường thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở
một nơinhất định, tại đó sau khi xem xét hết hàng hoá, những người mua hàng để
người bán đưa ra giá mình muốn bán.

- Ngoài ra, còn một số loại giao dịc khác như
Giao dịch ở sở giao dịch hàng hoá.
Giao dịch tại triễn lãm, gia
công
Đấu thầu quốc tế



Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn từng phương thức giao
dịch mua bán thích hợp. Nói chung, với các loại hàng hoá khác nhau thì phụ thuộc
vào đặc điểm của thị trường và khả nằng của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể
lựa chọn các phương thức giao dịch khác nhau. Chẳng hạn khách hàng mua hàng
với số lượng lớn, mua thường xuyên thì phương thức giao dịch thông thường được
áp dụng. Với những hàng hoá có tính chất chuyên ngành thì tham gia hội trợ và
triển lãm lại có tác dụng tích cực .
1.2.5. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu:
Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng trong
hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, điều kiện thực hiệnnhững công đoạn mà
doanh nghiệp thực hiện trước đó. Đồng thời nó quyết định đến tính khả thi hay không khả
thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghịêp.
Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu trên thị trường vào đối thủ cạnh tranh, khả
năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như môí quan hệ của doanh nghiệp và
đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp, thì kết quả của nó là hợp đồng được ký kết. Một cam
kết
hợp đồng sẽ là những pháp lý quan trọng, vữngchắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện lời
cam kết của mình. Đàm phán cóthể thực hiện thông qua thư từ, điện tín và đàm phán trực
tiếp. Tiếp sau công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
Hợp đồng mua bán hàng hoá là một văn bản có tính chất pháp lý được hình thành
trên cơ sở thảo luận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể nhằm xác lập thực hiện
và chấm dứt các mối quan hệ trao đổi hàng hoá .
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán đặc biệt trongđó quy định
người bán có nghĩa vụ chuyển quyền (cho người) sở hữu hàng hoá cho người mua, còn
người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán theo giá thoảthuận bằng phương thức quốc tế.
Khác với hợp đồng mua bán nội địa, hợp đồng xuất khẩu thông thường hình thành giữa các
doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, hàng hoá thường được dịch
chuyển qua biên giới quốc gia và đồng tiền thanh toán là một ngoại tệ đối với một trong hai

quốc gia hoặc cả hai.
1.2.6. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng, doanh nghiệp cần
xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm.Thông thường trình tự
thực hiện hợp đồng gồm các bước:
-

Kiểm tra thư tín dụng


-

Xin giấy phép xuất khẩu

-

Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu

-

Kiểm tra hàng hoá

-

Thuê phương tiện vận chuyển

-

Mua bảo hiểm hàng hoá


-

Làm thủ tục hải quan

-

Giao hàng lên tàu

-

Thanh toán

-

Giải quyết khiếu nại (nếu có)

-

Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu


1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
xuất khẩu:
1.3.1. Các nhân tố quốc tế:
Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi điều khiển của quốc gia, có ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
-

Môi trường kinh tế:
Tình hình phát triển kinh tế của thị trưòng xuất khẩu có ảnh hưởng tới nhu

cầu và khả năng thanh toán của khách hàng, do đó có ảnh hưởng đến hoạt
đông xuất khẩu của doanh nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu là
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thu nhập của dân cư,tình hình lạm phát , tình
hình lãi suất.

-

Môi trường luật pháp: Tình hình chính trị hợp tác quốc tế được biểu hiện ở xu thế
hợp tác giữa các quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến sự hình thành các khối kinh tế, chính
trị củamột nhóm các quốc gia do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường xuất khẩu
của doanh nghiệp.

-

Môi trường văn hoá - xã hội:Đặc điểm và sự thay đổi của văn hoá - xã hội của thị
trường xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng
đến các quyếtđịnh mua hàng của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
của doanh nghệp.

-

Môi trường cạnh tranh: Mức độ cạnh tranh quốc tế biểu hiện ở sức ép từ phía các
doanh nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp, khi cùng tham gia vào một
thị trường xuất khẩu nhất định. Sức ép ngày càng lớn thì ngày càng khó khăn cho
doanhnghiệp muốn thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình.
1.3.2. Các nhân tố quốc gia:
Đây là các nhân tố ảnh hưởng bên trong đất nước nhưng ngoài sự kiểm soát của

doanh nghiệp. Các nhân tố đó bao gồm:

-

Nguồn lực trong nước: Một nước có nguồn lực dồi dào là điều kện thuận lợi để
doanh nghiệptrong nước có điều kiện phát triển xúc tiến các mặt hàng có sử dụng
sức laođộng. Về mặt ngắn hạn, nguồn lực đuợc xem là không biến đổi vì vậy chúng
íttác
động đến sự biến động của xuất khẩu. Nước ta nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công


rẻ là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều laođộng
như hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc giầy dép...
-

Nhân tố công nghệ: Ngày nay khoa học công nghệ tác động đến tất cả các
lĩnh vực kinh tế xã hội, và mang lại nhiều lợi ích , trong xuất khẩu cũng mang
lại nhiều kết quả cao. Nhờ sự phát triển của bưu chính viễn thông, các doanh
nghiệp ngoại thương có thể đàm phán với các bạn hàng qua điện thoại , fax..
nhằm giảm bớt chi phí, rút ngắn thời gian, giúp các nhà kinh doanh nắm bắt
các thông tin chính xác, kịp thời.Yếu tố công nghệ cũng tác động đến quá
trình sản xuất, gia công chế biến hànghoá xuất khẩu. Khoa học công nghệ
còn tác động tới lĩnh vực vận tải hàng hoá xuất khẩu, kỹ thuật nghiệp vụ
trong ngân hàng...

-

Cơ sở hạ tầng: Đây là yếu tố không thể thiếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu. Cơ
sở hạ tầng gồm : đường xá, bến bãi hệ thống vận tải , hệ thống thông tin,hệ
thống ngân hàng... có ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu nó thúc đẩy
hoặc kìm hãm hoạt động xuất khẩu.


-

Hệ thống chính trị pháp luật của nhà nước: Nhân tố này không chỉ tác động
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ở hiện tại mà còn ảnh hưởng trong
tương lai. Vì vậy doanh nghiệp phải tuân theo và hưởng ứng nó ở hiện tại,
mặt khác doanh nghệp phải có kế hoạchtrong tương lai cho phù hợp.Các
doanh ngiệp ngoại thương khi tham gia hoạt động xuất khẩu cần nhận biết và
tuân theo các quy định của pháp luật về hoạt động xuất khẩu nói riêng vàhoạt
động kinh doanh nói chung. Do vậy doanh nghiệp cần lợi dụng các chính
sách của nhà nước về hoạt động xuất khẩu cũng như không tham gia vào
cáchoạt động xuất khẩu mà nhà nước không cho phép.

-

Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa giá đồng nội tệ và
đồng ngoại tệ.Tỷ gía hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan
trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu trong hoạt động
xuất khẩu. Do vậy doanh nghiệp cần quan tâm đến yếu tố tỷ giá vì nó liên
quan đến việc thu đổingoại tệ sang nội tệ, từ đó ảnh hướng đến hiệu quả xuất
của doanh nghiệp. Để biết được tỷ giá hối đoái, doanh nghiệp phải hiểu được
cơ chế điều hành tỷ giá hiện hành của nhà nước , theo dõi biến động của nó


từng ngày. Doanh nghiệp phải lưu ý tỷ giá hối đoái được điều chỉnh là tỷ giá
tỷ giá chính thức được điều chỉnh theo quá trình lạm phát.

-

Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Cạnh tranh

một mặt có tác động thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp. Mặt khác,
nó cũng dìm chết các doanh nghiệp yếu kém. Mức độ cạnh tranh ở đây biểu
hiện ở số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hoặc các
mặt hàng khác có thể thay thế được. Hiện nay, nhà nước Việt Nam có chủ
trương khuyến khích mọi doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu đã dẫn đến
sự bùng nổ số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu do đó đôi khi có
sự cạnh tranh không lành mạnh.
1.3.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp:
Là các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể

tácđộng làm thay đổi nó để phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của mình. Bao gồm
các nhân tố sau:
-

Bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính của doanh nghiệp: Là sự tác đông
trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống các cán bộ, công nhânviên đến hoạt
động tổ chức sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức
của bộ máy điều hành cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là
nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Một doanh nghiệp có cơ
cấu tổ chức hợp lý cách điều hành hoạt động kinh doanh sẽ quyếtđịnh tới
hiệu quả kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.

-

Yếu tố lao động: Con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt
động. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con
người bởi vì nó là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động.
Trình độ và năng lực trong hoạt động xuất khẩu của các bên kinh doanh sẽ
quyết định tới tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.


-

Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Một trong những yếu tố quan trọng tác
động tới hoạt động xuất của doanhnghiệp là vốn. Bên cạnh yếu tố về con
người, tổ chức quản lý thì doanh nghiệp phải có vốn để thực hiên các mục
tiêu về xuất khẩu mà doanh nghiệp đã đề ra. Năng lực tài chính có thể làm
hạn chế hoặc mở rộng các khả năng của doanhnghiệp vì vốn là tiền đề cho
mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, có rất nhiều nhân tố


ảnh hưởng đến xuất khẩu theo chiều hướng khác nhau, tốc độ và thời gian
khác nhau...tạo nên một môi trường xuất khẩu phức tạp đối với doanh
nghiệp, các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm bắt, những thay đổi này để
có những phản ứng kịp thời, tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra khi tiến hành hoạt
động xuất khẩu
Chương 2: THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẤU VIỆT NAM TỪ 2001
TỚI NAY
2.1. Tình hình xuất nhập khẩu chung ở
Việt Nam giai đoạn 2001-2008:
2.1.1 Những nhân tố ảnh hưởng đến
hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai
đoạn 2001-2008
a. Nhân tố khách quan:
Những biến động kinh tế, chính trị trên thế giới, Trung Quốc gia nhập WTO
b. Nhân tố chủ quan:
Việt Nam gia nhập WTO, các Hiệp định Thương mại, kết quả hoạt động xuất nhập
khẩu giai đoạn 1986-2000, định hướng chiến lược phát triển Ngoại thương Việt Nam, mục
tiêu chung của xuất khẩu Việt Nam thời kì 2006-2010.

2.1.2 Tình hình xuất nhập khẩu của

Việt Nam giai đoạn 2001-2008
a. Giá trị và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu
Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu không ổn định. Năm 2001,
tăng trưởng xuất nhập khẩu chỉ đạt 3,7% do tình hình kinh tế - chính trị thế giới biến động.
Chỉ số này đã được cải thiện vào năm 2002, và bứt phá trong hai năm 2004-2005. Sau khi
suy giảm nhẹ vào năm 2005, tốc độ tăng trưởng tiếp tục ở mức cao, đặc biệt năm 2007 là
28,9% cao nhất trong 7 năm của giai đoạn 2001-2007. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng
năm là 20,5%.
Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 109,217 tỷ USD, gấp 3,5 lần so với 31,247
tỷ USD của năm 2001.
Năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 113 tỷ USD gấp 3,62 lần so với năm 2001.
TỔNG
KIM
TỈ LỆ
XUẤT
NHẬP
TỈ LỆ
NĂM
NGẠCH
KNXNK
KHẨU
KHẨU
XK / NK
XUẤT
(%)
KHẨU
2001
31.24
1
15.02

16.21
92.7
2002
36.45
1.17
16.70
19.74
84.6
2003
45.40
1.45
20.14
29.25
79.8


2004
2005
2006
2007
2008

58.45
69.14
84.00
109.21
113.00

1.87
2.2

2.69
3.49
3.62

26.50
32.23
39.65
48.38
48.60

31.95
36.88
44.43
60.83
64.40

82.9
87.4
89.2
79.5
75.5

Đơn vị tính: Tỷ USD ($)
b. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu

Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu:
Hàng dầu thô và than đá đã chiếm 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước.
Khối lượng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong những năm đầu của giai đoạn 2001-2007
rồi giảm dần. Sở dĩ có sự sụt giảm này là do các mỏ dầu cũ dần cạn kiệt trong khi công tác
thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các nước khác không đạt nhiều tiến triển.


Nhóm hàng nông lâm thủy sản
Trong vòng 7 năm 2001-2007 giá trị xuất khẩu các mặt hàng này đã tăng lên gần
gấp 3 lần. Đây là những mặt hàng chịu nền tác động của thị trường thế giới.
Việc gia nhập WTO đã đặt ngành xuất khẩu nông, lâm, thỷ sản trước những thời cơ
và thách thức mới.

Nhóm hàng chế biến
Đây là nhóm hàng gồm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực: dệt may, giày dép, sản
phẩm cơ khí, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, điện tử, thủ công mỹ nghệ… Có thể phân chia
các mặt hàng này thành hai nhóm:
 Hàng chế biến chính: thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép, thực phẩm chế
biến, hóa phẩm tiêu dùng, sản phẩm cơ khí – điện, vật liệu xây dựng, sản phẩm gỗ.
 Hàng chế biến cao: điện tử và linh kiện máy tính, phần mềm.
Tóm lại, vấn đề nan giải đối với các sản phẩm chế biến dệt may, da giày, sản phẩm
gỗ, sản phẩm nhựa… là nguồn nguyên, phụ liệu phần lớn phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Do vậy, giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu chưa cao, các doanh nghiệp chưa thực sự
chủ động trong việc kí kết các hợp đồng. Nhiều sản phẩm chế biến còn mang tính chất gia
công.
c. Các thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu

Các thị trường xuất khẩu chủ yếu:
Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam theo tứ tự là: Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản,
Trung Quốc, Australia. Trong giai đoạn 2001-2007, kim ngạch xuất khẩu vào tất cả các thị
trường trọng điểm đều tăng trưởng ấn tượng: xuất khẩu vào EU tăng 2.8 lần , vào Nhật là
2.3 lần và ASEAN là 2.8 lần. Đáng chú ý nhất là việc gia tăng xuất khẩu vào thị trường
Mỹ.
Định hướng xuất khẩu Việt Nam là đa dạng hóa thị trường, gia tăng xuất khẩu sang
các nước Châu Âu, Châu Mỹ và giảm xuất khẩu sang các nước Châu Á.


Các thị trường nhập khẩu chủ yếu:
Các đối tác Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất đều thuộc khu vực Đông Á: Trung
Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản , Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Hồng Kông. Trong


chính sách về thị trường nhập khẩu, định hướng đưa ra là giảm thị trường nhập khẩu từ các
nước Châu Á xuống còn 55% vào năm 2010.
Các đối tác xuất khẩu chủ yếu là các thị trường có công nghệ nguồn, trong khi các
đối tác nhập khẩu chủ yếu là các thị trường không có công nghệ nguồn.
d. Xuất khẩu theo khu vực kinh tế và theo nhóm hàng

Khu vực kinh tế:
Năm 2007 khu vực kinh tế trong nước đã nhập siêu gần 19 tỷ USD và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu hơn 6 tỷ USD

Theo nhóm hàng:
(1) Xuất khẩu
Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp gia tăng nhanh về giá trị và
chiếm vai trò càng quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu quốc gia. Vai trò của nhóm hàng
nông lâm thủy sản giảm đáng kể.
(2) Nhập khẩu
Sau 5 năm từ 2001-2006 cơ cấu nhập khẩu đã có thay đổi theo hướng tăng dần tỉ
trọng nhóm hàng nguyên, nhiên liệu, giảm tỉ trọng 2 nhóm hàng máy móc, thiết bị và hàng
tiêu dùng.
e. Tình trạng nhập siêu
Nhập siêu liên tục xảy ra trong cả 2 giai đoạn 2001-2008. Ngoại trừ từ năm
2005 có giá trị nhập siêu giảm nhẹ các năm còn lại giá trị nhập siêu tăng liên tục, đặc biệt
năm 2007 vừa qua tăng gần 2.5 lần. Đây là mức tăng kỉ lục trong thời gian qua. Tỷ lệ nhập
siêu trên tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 cũng cao kỉ lục: 25.8%, cao nhất trong vòng
10 năm trở lại đây. Tình hình 9 tháng đầu năm 2008 đã cho thấy nhập siêu đến gần 15.8 tỷ

USD bằng 32,51% kim ngạch xuất khẩu
 Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2008 dù gặp
không ít khó khăn nhưng vẫn đạt được những thành tựu to lớn nhiều mặt. Ngay cả những
nhà hoạch định chính sách khi công bố “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu 2001-2010”
có lẽ cũng không thể ngờ được nhiều mục tiêu họ đề ra cho năm 2010 đã được hoàn thành,
thậm chí còn vượt xa năm 2007. Bên cạnh thành công, hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn
một số hạn chế, thậm chí rất gay gắt và cần được khắc phục kịp thời. Những hạn chế như:
thị trường xuất khẩu chưa đa dạng, cơ cấu xuất nhập khẩu chậm biến đổi, khu vực kinh tế
trong nước hoạt động chưa hiệu quả như kì vọng, hiện tượng nhập siêu là những thách thức
to lớn đối với ngành ngoại thương Việt Nam.
2.2 Những thành tựu đạt được:
2.2.1 Về quy mô và tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu:
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng khá nhanh và vững chắc trong thời
gian 2001 - 2008. Trong thời gian 2001 - 2007, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng với
tốc độ trung bình hằng năm là 18,89%, cao hơn so với tốc độ kế hoạch đề ra cho giai đoạn
2001 - 2005 là 16% (theo mục tiêu chiến lược xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2010) và
cao hơn mức tăng trưởng 18% theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra của xuất khẩu năm 2006 và
2007.


Do tốc độ xuất khẩu hàng hóa tăng cao đã đưa quy mô xuất khẩu hàng hóa tăng gấp
3,35 lần trong khoảng thời gian 7 năm qua. Đây là một trong những mức tăng xuất khẩu
nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người cũng tăng nhanh. Nếu năm 2000,
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người mới chỉ là 186 USD thì đến năm 2007 đã
tăng lên mức 569 USD, tức là tăng gấp 3,05 lần.
2.2.2

Về chuyển dịch cơ cấu hàng

hóa xuất khẩu:
Trong thời gian qua, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có nhiều chuyển biến tích cực. Sản
phẩm xuất khẩu đa dạng, phong phú hơn. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã chuyển dịch theo
hướng tăng dần các sản phẩm chế biến, giảm dần sản phẩm thô, nguyên liệu. Đặc biệt, xu
hướng tăng tỷ trọng của nhóm hàng chế biến, chế tạo từ 33,9% năm 2001 lên 39% năm
2006 được coi là sự thay đổi tích cực nhất.
2.2.3
Về chuyển dịch cơ cấu thị
trường xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu liên tục được mở rộng và đa dạng hóa, nhất là đã đột phá xuất
khẩu thành công vào thị trường Mỹ và duy trì được thị phần trên thị trường lớn nhất thế
giới này.
Ngoài ra, chúng ta đã giảm dần được thị phần ở thị trường châu Á, củng cố thị
trường EU, khôi phục thị trường Nga và Đông Âu, mở rộng thị trường châu Đại Dương,
khai phá mạnh mẽ thị trường Trung Đông, châu Phi và Mỹ La-tinh...
Xuất khẩu hàng hóa đã huy động ngày càng đông đảo các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tham gia. Đặc biệt, các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp xuất
khẩu không thuộc khu vực kinh tế nhà nước đang trở thành động lực chính cho xuất khẩu.
Các doanh nghiệp FDI đang đóng góp quan trọng nhất cho xuất khẩu với việc khai thông
thị trường, phát triển các mặt hàng chế biến, chế tạo cho xuất khẩu (điện tử, bản mạch máy
tính ...) và chiếm tỷ trọng cao nhất trong xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thời gian qua
(45% năm 2001, 57,2% năm 2005 và 57,5% năm 2007). Khu vực doanh nghiệp hoạt động
theo luật doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng nhiều (chiếm tỷ trọng 25% tổng kim
ngạch xuất khẩu và tạo ra sự năng động lớn trong xuất khẩu hàng hóa thời gian vừa qua).
Xuất khẩu tăng trưởng khá nhanh đã góp phần quan trọng bảo đảm nhập siêu luôn
ở mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu cho tới trước năm 2007. Tổng kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa giai đoạn 2001 - 2005 ước là 130 tỉ USD, so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa bằng khoảng 118%. Thời gian 2002 - 2003, nhập khẩu tăng với tốc độ cao hơn xuất
khẩu, nhưng sang năm 2004, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đã chậm hơn tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu, tình hình này tiếp tục cho tới hết năm 2006. Điều này cho phép cải thiện lớn cán

cân thương mại, nhập siêu chỉ còn dưới 5 tỉ USD, bằng 14,4% kim ngạch xuất khẩu của
năm 2005 và 12,1% của năm 2006.
Tăng trưởng xuất khẩu thời gian qua đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế Việt Nam. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao gấp từ 2 đến 3 lần tốc
độ tăng trưởng GDP thời gian qua, xuất khẩu đã thực sự trở thành một động lực của tăng


trưởng kinh tế Việt Nam, góp phần tạo việc làm cho hàng triệu lao động và cải thiện thu
nhập cho hàng triệu nông dân và các lao động khác nhờ tham gia xuất khẩu hàng nông sản,
hàng dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ và các hàng hóa khác...
2.3. Mặt hạn chế và các giải pháp khắc phục:
2.3.1
Những mặt hạn chế:

Quy mô xuất khẩu của Việt Nam dù tăng nhanh vẫn còn khá nhỏ so với các
nước trong khu vực, xét cả về tổng kim ngạch lẫn kim ngạch tính theo đầu người.
Về tổng kim ngạch, năm 2006 xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt kim ngạch
39,8 tỉ USD, chỉ bằng khoảng 30% so với kim ngạch xuất khẩu 130,5 tỉ USD của Thái Lan,
thậm chí so với Phi-lip-pin, nước xuất khẩu 46,9 tỉ USD, xuất khẩu của Việt Nam cũng
mới chỉ bằng 84%. Xuất khẩu bình quân đầu người của Việt Nam năm 2006 đạt 473 USD,
chỉ bằng 23,6% so với mức của Thái Lan và bằng 88% mức của Phi-lip-pin...

Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị thương tổn
bởi các cú sốc từ bên ngoài.
Điển hình của sự phụ thuộc này là khi giá cả thị trường thế giới biến động tăng thì
xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng (xuất khẩu trong các năm 2004 - 2007) và khi giá cả thị
trường thế giới giảm sút thì xuất khẩu cũng trì trệ (xuất khẩu trong năm 2001 và đầu năm
2002).
Sự phụ thuộc lớn cũng được thể hiện qua sự lúng túng và bị động trong ứng phó
với các rào cản thương mại mới của nước ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm,

môi trường, dư lượng kháng sinh, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá, kết quả là đối với
những mặt hàng bị kiện chống phá giá thời gian qua chúng ta hầu như đều bị thua kiện và
xuất khẩu giảm sút mạnh (cá tra, cá basa và tôm ở thị trường Mỹ, xe đạp ở thị trường EU
và Ca-na-đa...).

Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2007 chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu còn phụ
thuộc quá lớn vào một số mặt hàng chủ lực: 5 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ đạt kim ngạch 26,2 tỉ USD, chiếm tỷ trọng
54,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2007, cộng tiếp 5 mặt
hàng trong top 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là điện tử và linh kiện vi tính,
gạo, cao su, cà phê, than đá đạt kim ngạch 33,97 tỉ USD, chiếm 70,2% tổng kim ngạch
xuất khẩu... Tóm lại, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua chủ yếu chuyển
dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế
so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các
ngành công nghiệp gắn bó, liên kết chặt chẽ với nhau hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất
khẩu lớn. Đây chính là một thách thức lớn về mặt chất lượng và hiệu quả xuất khẩu.

Khả năng đa dạng hóa thị trường, thâm nhập thị trường mới và duy trì, mở
rộng thị phần trên các thị trường hiện có còn nhiều yếu kém. Ngoài việc khai phá thành
công thị trường Mỹ thì những thị trường lớn mà ta bị giảm thị phần so với mục tiêu là châu
Âu. Trung Quốc, nước có chung đường biên giới gần 1.600 km với Việt Nam, lại đang nổi


lên là một cực kinh tế của thế giới mà chúng ta chưa khai thác được tiềm năng và cơ hội
của thị trường nước này.

Xuất khẩu thời gian qua chưa khai thác hết được tiềm năng của mọi thành
phần kinh tế và các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước năng lực vẫn còn yếu kém. Hiện
nay nước ta chưa có được các tập đoàn xuất khẩu mạnh tầm cỡ và uy tín quốc tế để làm

đầu tầu cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam...

Vấn đề đáng quan ngại nhất hiện nay là xuất khẩu tăng chậm hơn nhiều so với
nhập khẩu đã làm trầm trọng thêm tình trạng nhập siêu của Việt Nam. Từ năm 2007 đến
nay, xu hướng diễn biến của nhập siêu đã đảo chiều so với xu hướng cải thiện tốt của giai
đoạn 2004 - 2006, khi mà tốc độ tăng xuất khẩu luôn cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu. Năm
2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên của WTO, xuất khẩu hàng hóa vẫn
duy trì được tốc độ cao trên 22% nhưng nhập khẩu lại tăng tới 37%. Kết quả là nhập siêu
lên tới 12,4 tỉ USD, tương đương với 25,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Tình hình
những tháng đầu năm 2008 còn nghiêm trọng hơn với mức nhập siêu 6 tháng đầu năm đã
vượt 14,1 tỉ USD, tương đương với 46,7% kim ngạch xuất khẩu trong kỳ.
2.3.2. Giải pháp khắc phục:
Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tham gia mạnh mẽ trong phân
công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu/khu vực, nỗ lực phát triển
nguồn cung cho xuất khẩu (cả về mặt số lượng và nâng cao chất lượng) sau khi đã gia nhập
WTO nhằm tạo ra được một cấu trúc xuất khẩu mang tính cạnh tranh và đạt hiệu quả cao;
Tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện quyết liệt cải cách thể chế, cải cách hành chính,
thuận lợi hóa hoạt động xuất khẩu phù hợp với các cam kết của WTO và hội nhập kinh tế
quốc tế;
Tích cực, chủ động thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế đầy đủ và sâu rộng để tạo
điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam.
Tăng cường củng cố các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai phá mạnh
các thị trường mới ở Trung Đông, châu Phi và Mỹ La-tinh cho phát triển xuất khẩu. Mở
cửa sớm các thị trường dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tiên tiến, hiện đại cho các nhà đầu tư nước
ngoài nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu;
Nỗ lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp và
nông nghiệp tạo chuyển biến về chất trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam;
Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xuất khẩu, đồng thời khai
thác hiệu quả hệ thống hạ tầng hiện có phục vụ tốt nhất cho xuất khẩu của đất nước. Phát
triển thương mại điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong các giao dịch thương mại;

Đẩy mạnh các hoạt động thuận lợi hóa và hỗ trợ việc gia nhập thị trường của khu
vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, khai thác hiệu quả các nguồn lực của đất nước cho xuất
khẩu, khuyến khích việc liên doanh, liên kết hợp nhất, sáp hợp các doanh nghiệp xuất khẩu
để hình thành các tập đoàn xuất khẩu mạnh của Việt Nam,...;


Tiếp tục khai thác tối đa làn sóng đầu tư mới từ hiệu ứng gia nhập WTO vào các
ngành hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam, nhất là các ngành chế biến, chế tạo và các
ngành công nghiệp công nghệ cao có khả năng tăng trưởng xuất khẩu mạnh như sản phẩm
gỗ, cơ khí nhỏ, dây và cáp điện, sản phẩm nhựa, linh kiện điện tử và vi tính, phần mềm, ...;
Cải tiến việc thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, phát triển thị
trường xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xúc tiến thương mại. Tăng cường
vai trò và trách nhiệm của các cơ quan ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở
nước ngoài trong việc cung cấp thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, kênh
phân phối nước ngoài...
Không ngừng chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho xuất khẩu, chú ý đào tạo ứng
dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ
kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ luật pháp quốc tế, trình độ ngoại ngữ, ứng dụng
tin học, nâng cao tay nghề. Việc đào tạo cần theo hai hướng, trước mắt, đối với người lao
động cần thuần thục về kỹ năng và chuyên môn hóa sâu. Mặt khác phải chú trọng đặc biệt
tới đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của
nhân loại cho phát triển của Việt Nam về lâu dài.
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH
XUẤT NHẬP KHẨU
3.1

Điều chỉnh chiến lược vào cơ cấu xuất nhập khẩu:

Sau khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), uy tín trên trường quốc tế ngày một nâng cao, đầu tư FDI tăng mạnh… nhưng kinh

tế - thương mại trong nước cũng gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của toàn
xã hội, sự chỉ đạo điều hành hiệu quả của Nhà nước, kinh tế nước ta tiếp tục đạt được
những thành công trong năm 2007. Trong đó, thắng lợi trong thu hút đầu tư nước ngoài (16
tỷ USD) và sự phát triển mạnh của thương mại được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là
những nhân tố quan trọng góp phần đạt được những thành công của nền kinh tế năm .
Nhằm thực hiện thành công chiến lược xuất khẩu năm 2008 cần phải triển khai
thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ nhiều chính sách, biện pháp. Đòi hỏi sự nỗ lực từ
phía cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội
ngành hàng và các tổ chức nghề nghiệp khác trong xã hội.

Thứ nhất thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng để tăng giá trị, kim
ngạch hàng hoáng xuất khẩu.
Tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, chú trọng đổi mới công nghệ, thiết
bị, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, những mặt hàng có đóng
góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như giải quyết nhiều công ăn
việc làm, góp phần ổn định xã hội như các sản phẩm chế biến từ nông, lâm, thuỷ sản; công
nghiệp chế biến: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử, sản phẩm nhựa, dây cáp
điện…

Thứ hai, giảm chi phí giao dịch, kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt


may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa... nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên
liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn.

Thứ ba, tiến hành cải cách thủ tục hành chính nhanh, mạnh hơn nữa.
Rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu để
giảm thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam

xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện
pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa....
Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác
phối hợp giải quyết vụ việc liên quan giữa các Bộ, ngành, giữa các cơ quan quản lý với Hiệp
hội ngành hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
ngành thương mại trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, phát triển xuất khẩu.

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ
xuất khẩu.
 Thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu và Quỹ hỗ trợ đầu tư
Hình thức bảo hiểm xuất khẩu chưa được áp dụng tại Việt Nam (các nước phát triển
đang áp dụng phổ biến hình thức này như Đức, áo, Italy, Nhật Bản…). Trong khi thực tiễn
kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều rủi ro. Do vậy, áp dụng
biện pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là
cần thiết và phù hợp với các quy định của WTO.

Điều tiết tỷ giá hối đoái, lạm phát.
Điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho thu hút được vốn nước ngoài và khuyến
khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ
cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý.
Nước ta là một nước nhỏ nên hiệu ứng từ việc phá giá đến xuất khẩu là không lớn
trong khi áp lực lên lạm phát là rõ rệt hơn nên cần cân nhắc mức độ phá giá ở mức hợp lý
khi điều hành tỷ giá trong các bối cảnh cụ thể để tránh áp lực lạm phát quá lớn gây ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế nói chung.

T hứ năm, nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu.
Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm (ASEAN, Nhật Bản, Hoa
Kỳ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc) có kim ngạch nhập khẩu lớn…, các mặt hàng trọng điểm
mà khả năng sản xuất trong nước không bị hạn chế, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước
như: hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm cao su, hàng thực phẩm chế biến, hoá mỹ phẩm, sản

phẩm cơ khí, dịch vụ phần mềm… nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc
tiến thương mại đối với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim
ngạch xuất khẩu.

Thứ sáu, tập trung khai thác theo chiều sâu, chiều rộng đối với các thị trường
xuất khẩu.
Phát triển thị trường truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm đi đôi với việc
phát triển các thị trường có chung đường biên giới với Việt Nam với chủ trương đa phương
hoá, đa dạng hoá thị trường thông qua việc xem xét điều chỉnh những quy định không phù
hợp hạn chế xuất khẩu thời gian qua, có chính sách xuất khẩu cụ thể đẩy mạnh xuất khẩu
vào từng khu vực, từng thị trường.
Bộ Công Thương cần sớm triển khai ký kết các thoả thuận song phương và công


nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm tạo thuận lợi cho
các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thanh toán cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm
dịch thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thuỷ sản.

Thứ bảy, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất
hàng xuất khẩu.
Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải
quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất
hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may,
da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí… Cần xã hội hoá công tác đào tạo,
theo đó những doanh nghiệp lớn cũng được xem xét cấp kinh phí đào tạo công nhân cho
mình và cung cấp cho những doanh nghiệp khác.
Đồng thời, chú trọng khâu thiết kế, tạo dáng sản phẩm; Tổ chức nghiên cứu, đào tạo
đội ngũ nhân viên thiết kế để đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản
phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước.


Thứ tám, xây dựng đề án xuất khẩu cụ thể cho từng mặt hàng, từng địa bàn
Phát triển những mặt hàng mới, mặt hàng có điều kiện sản xuất không phụ thuộc
nhiều vào sự biến động của thị trường như sản phẩm cơ khí, dây cáp điện, sản phẩm nhựa,
sản phẩm đồ gỗ... Đồng thời xem xét lại cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất, xuất khẩu
đối với những mặt hàng truyền thống trọng điểm như hàng nông lâm thuỷ sản, hàng dệt
may, giầy dép, thủ công mỹ nghệ... để có những điều chỉnh phù hợp hỗ trợ cho sản xuất và
xuất khẩu.
3.2

Quảng bá thương hiệu tăng sức cạnh tranh:

Liệu mọi nhà sản xuất đều cần xây dựng một thương hiệu mạnh? Thương hiệu là
một tài sản của doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu chính là một loại hình đầu tư nên
trước khi quyết định xây dựng thương hiệu hay đầu tư vào các hoạt động khác thì doanh
nghiệp phải xác định được lợi ích mà nhãn hiệu mang lại có tương xứng với khoản tiều đầu
tư vào đó hay không.
Với một thương hiệu “mạnh” thì doanh nghiệp có được nhiều lợi ích. Doanh nghiệp
có thể tăng thị phần thong qua việc duy trì được khách hàng trung thành với thương hiệu
và chiếm dần một phần khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, với một thương
hiệu mạnh doanh nghiệp có thể đưa ra một chính sách giá cao hơn so với đối thủ cạnh
tranh. Ngoài ra, thương hiệu mạnh còn giúp cho doanh nghiệp giảm các chi phí khuyến thị
như quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ cộng đồng… Đối với người tiêu dùng, một thương
hiệu mạnh thường có những điểm sau:

Là một thương hiệu lớn: người tiêu dùng luôn qui đổi giữa sức mạnh và độ
lớn - một thương hiệu mạnh phải được phân phối và quảng cáo ở khắp mọi nơi.

Chất lượng cao: theo suy nghĩ của người tiêu dùng thì không có thương
hiệu mạnh nào mà chất lượng không tốt.


Tạo ra sự khác biệt: một thương hiệu mạnh phải có những đặc tính mà
người tiêu dùng cảm nhận nó khác với các thương hiệu khác.

Khả năng nhận biết bởi khách hàng: thương hiệu mạnh thì phải có khả năng
tạo ra nhiều hơn những cảm nhận của người tiêu dùng như: “đó là thương hiệu của tôi”
hoặc “đây là thương hiệu đáp ứng được nhu cầu của tôi” so với các thương hiệu yếu.


×