Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Vật lý trị liệu thần kinh cột sống cơ khớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.21 KB, 26 trang )

BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:

VẬT LÝ TRỊ LIỆU THẦN KINH

CỘT SỐNG & CƠ - KHỚP

1


MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ:
Sau khi học xong chuyên đề “Vật lý trị liệu thần kinh cột sống &
cơ - khớp”, người học nắm được những kiến thức có liên quan đến việc
điều trị này như: Khái niệm trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp; Cơ
sở lý luận của trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp; Cơ sở đại cương
của thăm khám và chẩn đoán; Cơ chế tác dụng; Phương thức điều trị;
Chỉ định và chống chỉ định; An toàn và hiệu quả điều trị; Mục tiêu điều
trị; Tâm lý của người bệnh và thầy thuốc trong trị liệu; Đau cấp và mạn
tính liên quan tới cột sống và thần kinh - cơ - khớp; Chăm sóc và luyện
tập sau điều trị; Thiết bị hỗ trợ điều trị.

2


NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU CHUNG
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp là phương pháp an toàn nhất
trong điều trị triệu chứng và nguyên nhân gây đau liên quan tới cột sống và
thần kinh - cơ - khớp mà không phải uống thuốc. Phương pháp này giúp điều
trị nhiều chứng bệnh khác nhau liên quan ảnh hưởng chức năng thần kinh từ
cột sống, đặc biệt hiệu quả với các bệnh lý mạn tính có thương tổn từ cột
sống, nguyên nhân gây đau khu trú thường trực tại điểm cột sống bị thương


tổn, và cả những điểm thương tổn lan truyền theo đường đi của các rễ thần
kinh.
Cột sống chứa ống tuỷ là nơi xuất phát của các rễ thần kinh vận động,
cảm xúc và sinh dưỡng, dẫn truyền thông tin giữa não bộ và các bộ phận chức
năng trong cơ thể. Các rễ thần kinh này chi phối và liên quan đến một bộ
phận, một vùng da mà chúng tiếp nhận kích thích chức năng. Nếu có hiện
tượng di lệch vị trí một hoặc nhiều đốt sống (sai khớp) hoặc một tổn thương
liên quan tới cột sống thì có thể sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp ức chế hoạt động
của rễ thần kinh liên quan, do vậy ảnh hưởng tới hoạt động chức năng nó chi
phối, hoặc là nguyên nhân kích thích phát sinh bệnh lý.
Bác sỹ, kỹ thuật viên trị liệu cột sống thực hiện đồng bộ thăm khám,
chẩn đoán và điều trị các bệnh lý đau liên quan tới cột sống và thần kinh - cơ
- khớp theo các phương pháp trị liệu từ ngoài da và các tác động cơ học,
thường không phải uống thuốc. Trên cơ sở nghiên cứu và tìm hiểu thực tế một
số phương pháp điều trị của các nước trên thế giới, chúng tôi tổng hợp một số
nội dung phục vụ hoạt động hợp tác với mong muốn ứng dụng nhiều hơn các
kỹ thuật điều trị trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.

3


II. TRỊ LIỆU THẦN KINH CỘT SỐNG & CƠ - KHỚP LÀ GÌ?
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp yêu cầu chuyên sâu điều trị các
ảnh hưởng chức năng thần kinh cột sống nên tác giả tập trung phát triển kỹ
thuật trị liệu lấy điều trị cột sống làm trọng tâm, ứng dụng, tham khảo và phát
triển các kỹ thuật tác động cột sống, nắn chỉnh cột sống của Việt Nam và một
số nước trên thế giới, làm phong phú phương pháp điều trị của tác giả.
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp là một trong những phương
pháp chăm sóc sức khoẻ rất an toàn và hiệu quả nếu thực hiện đúng kỹ thuật,
đúng đối tượng bệnh điều trị, cho những kết quả điều trị rất tích cực đối với

một số bệnh lý liên quan cơ - xương - khớp, đây là phương pháp mang tính
điển hình trong chữa trị triệt để và phục hồi chức năng thần kinh và vận động
trong nhóm bệnh lý này, đặc biệt với các bệnh lý mạn tính. Tuy nhiên, trị liệu
thần kinh cột sống & cơ - khớp đòi hỏi được thực hiện một cách khoa học,
yêu cầu kinh nghiệm lâm sàng do có những đặc thù riêng.
Phát triển trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp trong điều trị một số
bệnh liên quan, đặc biệt các bệnh mạn tính liên quan thần kinh - cơ - khớp,
được cho là rất an toàn, có thể mang lại hiệu quả cao, tiết kiệm và dễ triển
khai thực hiện kể cả y tế cấp cơ sở. Điều quan trọng là có thể ứng dụng và
triển khai phục vụ chăm sóc sức khoẻ tại mỗi gia đình, cơ sở y tế, góp phần
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp là kỹ thuật điều trị chuyên
ngành đang được giảng dạy ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Trung Quốc
và nhiều nước Châu Âu. Việc tiến hành thăm khám, chẩn đoán và điều trị
ngoài việc phải thực hiện trên cở sở khoa học dựa trên kiến thức tổng hợp
nhiều chuyên ngành, còn cần kinh nghiệm và khả năng từng con người. Kế

4


thừa những giá trị của các phư­ơng pháp điều trị, các bác sỹ, kỹ thuật viên
điều trị ngày nay có thể tiếp cận tốt hơn trong nội dung điều trị này dựa trên
nền tảng kết hợp tổng hợp kiến thức các chuyên môn y học hiện đại. Trong
đó, cơ sinh học là mảng lý thuyết quan trọng được ứng dụng trong trị liệu
thần kinh cột sống & cơ - khớp.
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp với các phép kỹ thuật tác động
cơ học qua hệ da có thể điều chỉnh phản xạ thể dịch thần kinh (hoặc làm thay
đổi cục bộ), dẫn tới thay đổi thể dịch thần kinh ở toàn thân, giảm co thắt cục
bộ,… Ngoài ra, còn có thể thúc đẩy tuần hoàn huyết dịch, có thể thúc đẩy

huyết mạch ngoại vi, giảm lực cản huyết mạch, có lợi cho tuần hoàn huyết
dịch, có lợi khai phóng đường thông mao mạch tuần hoàn. Tuần hoàn mao
mạch là nơi trao đổi chất dinh dưỡng và đổi cũ thay mới, do đó sẽ có lợi đổi
cũ thay mới cho các tổ chức, xúc tiến phục hồi tổ chức tổn thương.
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp đã và đang góp phần làm phong
phú thêm các cơ sở lý luận điều trị chuyên khoa. Tuy nhiên, việc điều trị để
đạt được hiệu quả cao còn nhiều mặt mang tính kinh nghiệm mà tiếp tục cần
được nghiên cứu và tiếp cận với những phư­ơng pháp tích cực hơn, vì trị liệu
thần kinh cột sống & cơ - khớp được áp dụng trên đối tượng riêng, cách tiếp
cận mang tính đặc thù. Bên cạnh đó, cũng chưa giải thích được một cách biện
chứng những kết quả điều trị trong quá trình thực hiện và tiếp tục cần nghiên
cứu phát triển.
IV. TRỊ LIỆU THẦN KINH CỘT SỐNG & CƠ - KHỚP CHỮA
BỆNH GÌ ?
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp được áp dụng để điều trị tích
cực các sai lệch khớp và đốt sống, hỗ trợ giảm co thắt cơ cục bộ; từ đó mà có
tác dụng giảm đau, giúp thay đổi tuần hoàn huyết dịch mà hướng tới phục hồi

5


các tổn thương đang tồn tại, phục hồi kiểm soát cơ thể của hệ thần kinh và
vận động, đưa sức khoẻ thể chất và tinh thần con người về trạng thái cân bằng
nhất. Phương pháp trị liệu này tập trung trên cơ sở lý luận biện chứng, mục
đích là hướng tới sự vận hành tốt của hệ thần kinh, đảm bảo cân bằng cho hệ
vận động. Các đối tượng cần kiểm soát là hệ thần kinh với hơn 30 bộ thần
kinh từ não bộ chạy khắp cơ thể, chi phối, kiểm soát từng bộ phận chức năng
khác nhau, cũng như các tổ chức cơ - xương - khớp. Kỹ thuật chuyên khoa về
trị liệu cũng đưa ra cơ chế dùng tác động cơ học để giải toả các tổn th­ương
tồn tại mạn tính, đây được xem là những điểm mấu chốt trong thực hiện các

phép kỹ thuật điều trị.
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp là nhằm phục hồi chức năng cho
gân cốt, các khớp xương. Với lý luận rằng tổn thương tại những tổ chức mềm
như điểm bám của cơ thịt, dây chằng, màng gân, túi hoạt dịch,… nếu không
kịp thời xử lý hoặc không điều trị triệt để, tổ chức thương tổn sẽ bị dính kết ở
mức độ khác nhau, hoặc phát triển thành mạn tính. Nếu được tác động sẽ giải
trừ các cơn co thắt hoặc co rút cơ bắp, ngăn chặn nguyên nhân gây bệnh mạn
tính.
Cơ lý của phương pháp trị liệu này là: gia tăng cục bộ tuần hoàn huyết
dịch, làm cho vùng đó được gia nhiệt. Được kích thích vừa đủ sẽ co hẹp cơn
đau cục bộ. Kéo dãn đầy đủ cho cơ bắp đang bị kéo căng, hoặc co rút từ đấy
mà giải toả căn thẳng, co rút để giảm đau. Nắn chỉnh xương khớp, tác động
thụ động và chủ động để điều chỉnh đối tượng theo chủ định tránh các tác
động không tích cực lên hệ thần kinh.
Kết quả đạt được sau điều trị là có thể chữa trị tận gốc các tổn thư­ơng
tại các tổ chức cơ - xương - khớp, do vậy có thể loại bỏ được nguyên nhân

6


gây ra các tổn thương mạn tính tại các tổ chức cơ - xương - khớp, tránh được
các tác động ảnh hưởng tới hệ thần kinh và phát sinh bệnh lý liên quan.
Những nguyên nhân gây tổn thương tổ chức cơ - xương - khớp gồm có
chủ quan và khách quan, nguyên nhân chủ quan thường sinh ra do các vận
động của con người, nguyên nhân khách quan thường là nguyên nhân bệnh lý.
Một tổn thương có thể là tác động đến hệ thần kinh, sẽ là nguyên nhân trực
tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng chức năng chi phối, kiểm soát của luồng thần
kinh chi phối bộ phận tương ứng. Từ đó có thể là nguyên nhân phát sinh các
bệnh lý khác nhau tại các tổ chức đó mà điển hình là các chèn ép, các ảnh
hưởng bệnh lý, các tổn thương mang tính bệnh lý,... Như vậy, nếu áp dụng

điều trị kịp thời có thể ngăn chặn và chữa nhiều bệnh liên quan đến các bộ
phận của con người với nguyên nhân trên đây.
Như vậy, thực hiện tốt nội dung điều trị này có thể chữa bệnh tận gốc,
ngăn chặn nguyên nhân gây bệnh và giúp phục hồi sức khoẻ. Theo sơ đồ bệnh
lý ảnh hưởng liên quan cột sống và thần kinh - cơ - khớp thì có thể dùng
phương pháp này để chữa trị và ngăn chặn phát sinh hàng trăm bệnh lý liên
quan tới thần kinh, tim mạch,… với kết quả tốt trong điều trị và điều trị dự
phòng các bệnh lý liên quan thần kinh và thần kinh - cơ - khớp.
Các bệnh lý được điều trị hiệu quả bằng ph­ương pháp trị liệu thần kinh
cột sống & cơ - khớp cho thấy mọi lứa tuổi đều có thể là đối tượng cần được
quan tâm chăm sóc sức khoẻ. Ví dụ như đối với thai nhi, một tổn thương liên
quan cột sống trước và sau sinh có thể cần được điều trị để dự phòng các bệnh
lý liên quan hô hấp và tiêu hoá, về lĩnh vực này, chúng tôi sẽ dành một thời
lượng khá lớn để đánh giá sâu hiệu quả trong điều trị đối với từng bệnh lý với
kinh nghiệm điều trị của BS/ KTV. Với nhóm người có độ tuổi lao động thì

7


cần tham khảo thông tin lâm sàng liên quan ảnh hưởng cột sống như đã trình
bày ở trên.
V. CƠ SỞ ĐẠI CƯƠNG CỦA THĂM KHÁM, CHẨN ĐOÁN
Cơ sở quan trọng nhất của thăm khám là đánh giá tổng thể và chi tiết
một tổn thương đang tồn tại ở một tổ chức liên quan cột sống và cơ - xương khớp và những mối liên hệ giữa tổn thương này với triệu chứng trên lâm
sàng, các ảnh hưởng bệnh lý liên quan. Với đa số các bệnh lý liên quan cột
sống và thần kinh - cơ - khớp, dấu hiệu lâm sàng được quan tâm nhất là đau
và tê gây ra trên một điểm, một vùng hay vùng thay đổi. Cần phải đánh giá
được tính độc lập hay tính hệ thống của một tổn thương, của một hệ thống các
tổn thương và quan hệ giữa các tổ chức bị thương tổn qua dấu hiệu lâm sàng
được phát hiện từ chủ quan và khách quan.

Việc giải phẫu một tổ chức tổn thương để đánh giá bản chất cho chẩn
đoán và tìm phác đồ điều trị cần thực hiện kết hợp các thông số khác nhau để
có thể xác định được các tổ chức tổn thương ở những vị trí khác nhau trên cơ
thể. Nguyên tắc cơ bản khi tiến hành thăm khám người bệnh là phải biết bắt
đầu từ chỗ đau, từ những tổ chức bất thường có thể là đau tự phát hay quá tải.
Theo quy luật và kinh nghiệm thì một biểu hiện đau phải được đánh giá là
một điểm, là một vùng rộng hay là một dải căng cứng như sợi dây thừng, đau
khi bất động hay vận động. Nhiệm vụ người thăm khám là phải cùng với
người bệnh để thể hiện được dấu hiệu đau về mặt cấu trúc giải phẫu một cách
rõ rệt, và mặt khác phải phân biệt giữa tổ chức đau và phần lành xung quanh.
Tiến hành thăm khám phải đánh giá được vị trí cấu trúc đau bệnh lý
theo nguyên tắc nếu thăm khám một cơ thì phải bắt đầu từ nguyên uỷ cho tới
gân bám tận thuộc cơ đó. Việc thăm khám này giúp thầy thuốc nhận biết được
đặc điểm và tính chất của tổ chức đau, vì trong lúc thăm khám thầy thuốc

8


luôn phải tập trung ý tưởng vào một tổ chức nào đó như cơ, dây chằng hay
phần mềm xung quanh theo sơ đồ giải phẫu khu vực. Khi tiến hành thăm
khám trên cơ thể thì giải phẫu khu vực luôn thay đổi so với giải phẫu lý
thuyết. Những kinh nghiệm lâm sàng trên những bệnh nhân với rối loạn chức
năng bệnh lý của cơ quan vận động có được là nhờ tính kiên trì trong thực
hành hàng ngày.
Một cơ sở quan trọng của thăm khám được cho là phụ thuộc vào cảm
giác của cả người thăm khám và người bệnh. Cảm giác của ng­ười thăm khám
được đánh giá dựa trên kiến trúc giải phẫu thực ở người bệnh bằng việc dùng
một lực tác động và kinh nghiệm cảm nhận qua da đối với các tổ chức cần
thăm khám. Cơ sở để đánh giá một tổ chức thăm khám phải được thực hiện
qua giải phẫu trên khung xương một cách đầy đủ bằng lực ấn, nắn đủ mạnh

để có thể cảm nhận được bề mặt xương hoặc có một bất thường đang tồn tại.
Việc thăm khám không được dùng phép so sánh với bên đối diện bởi vì tính
chất của rối loạn thường biểu hiện toàn bộ hoặc gần như đối xứng. Muốn
dùng phép so sánh thì phải thực hiện trên cùng cấu trúc giải phẫu và vùng để
so sánh trên cùng một bên của cơ thể người bệnh.
Trước khi nghiên cứu sâu những chi tiết về triệu chứng bệnh lý của một
tổ chức bị thương tổn, chúng ta phải nhấn mạnh một lần nữa rằng, chất lượng
thăm khám phải đạt tới mức rất chính xác thì mới có chẩn đoán đúng. Khả
năng chính xác này chỉ có thể dựa vào việc thực hành và ứng dụng của từng
người một, đôi khi không phát hiện được gì chính lại là sự lĩnh hội không đầy
đủ về kỹ thuật và hạn chế về giải phẫu.
Như vậy, cơ sở của việc thăm khám thực hiện trên đối tượng cụ thể của
nhóm bệnh lý điển hình bao gồm phương pháp khoa học và kinh nghiệm. Đây

9


là tính đặc thù lý giải kết qủa điều trị khác nhau giữa các cơ sở y tế khác nhau
trên cùng một nhóm bệnh lý khi áp dụng thăm khám và điều trị.
VI. KHÁI NIỆM - CƠ CHẾ TÁC DỤNG
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp làm phong phú và bổ sung cho
các phương pháp điều trị vật lý, điều trị bảo tồn và điều trị phục hồi trong một
số bệnh lý liên quan tới cột sống và thần kinh - cơ - khớp. Do những tai biến
liên quan nên người ta tách biệt từng hình thái, từng phép điều trị khác nhau
để đánh giá và xem xét một cách cẩn trọng. Trong đó, tập trung từng kỹ thuật
điều trị liên quan tới cột sống & thần kinh - cơ - khớp với từng bệnh lý cụ thể.
Nhiệm vụ Kỹ thuật viên điều trị là phải nắm vững một cách tuyệt đối
những chống chỉ định khi điều trị bằng phương pháp này. Người điều trị
không chỉ công nhận mà còn phải tuân thủ theo những chống chỉ định, bởi lẽ
bên cạnh các kiến thức quý báu về lâm sàng còn có những phương pháp khác

để chống chỉ định như: điện quang, xét nghiệm,…
Một số phép điều trị với kỹ thuật cổ điển như kéo nắn, điểm huyệt đặc
tr­ưng tuy rất thịnh hành nhưng nhiều người điều trị tỏ ra rất hoài nghi, rất
không tán thành và coi thường bởi có thể khó phân biệt và đánh giá rõ ràng
kết quả điều trị. Mặc dù vậy, ngày càng nhiều bệnh nhân tìm đến các bác sỹ,
kỹ thuật viên điều trị các chứng đau và bệnh lý liên quan cơ - xương - khớp,
đặc biệt là các ảnh hưởng chức năng thần kinh cột sống. Kết quả mang lại là
cảm giác dễ chịu, mất đi sự căng cứng cơ, giảm đau sau mỗi lần điều trị nên
cả thầy thuốc và bệnh nhân đều giảm đi sự hoài nghi.
Tính hữu hiệu của ph­ương pháp này không thể chứng minh một cách
cụ thể được, nhưng nó luôn tỏ ra rằng Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp
là phương pháp đặc thù để điều trị những rối loạn chức năng của hệ vận động,

10


tác động tích cực đến hệ thần kinh, mà có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
lao động của người bệnh.
Trong những năm gần đây, những thành công và thất bại trong phương
pháp điều trị này đã tìm cách cố gắng phân tích và lý giải trên cơ sở sinh lý
học thần kinh, còn những trường hợp bị dồn ép, những trường hợp bị bán trật
khớp, hoặc tương tự vẫn chưa giải thích được một cách chính xác. Với cách
giải thích của sinh lý thần kinh là sự chặn lại ở trước hạch đối với dây thần
kinh cảm thụ bệnh lý hướng tâm ở sừng sau tuỷ sống thông qua tác động của
cơ quan cảm thụ cơ học do quá trình điều trị gây nên. Kết quả thực nghiệm đã
cho thấy rằng sự chặn lại ở trước hạch là do tính ức chế của chất Encélaphine
tự do. Do vậy, với các thủ pháp kéo nắn trong trường hợp dồn đĩa đệm (VD
dồn ép đĩa đệm đốt sống cổ) có giải phóng được không? hoặc là với mục đích
dịch chuyển đĩa đệm thì có thực hiện được không? hoặc qua kéo nắn có thể
làm thư giãn đối với cột sống hoặc đối với rễ thần kinh được không?. Điều đó

vẫn chưa trả lời cụ thể được, cũng như vậy với phương pháp ấn đĩa đệm trong
lúc kéo nắn thì liệu đĩa đệm dịch chuyển được bao xa, cũng chưa biết được cụ
thể. Với cách lý giải trên, còn những vấn đề cần phải được giải thích là tính
thường xuyên của việc kéo nắn cột sống như thế nào, phòng ngừa khả năng
tái phát như thế nào?.
Mặc dù còn nhiều nội dung cần tiếp tục giải thích, nhưng việc tái lập sự
cân bằng cho các cơ là điều quan trọng trong phòng ngừa tái phát. Việc kéo
dãn các cơ trương lực bị ngắn rút cũng như các bài tập về cơ lực đối với các
cơ chu kỳ bị suy yếu, trong đó có cả các bài tập hướng dẫn tại nhà là một bộ
phận đảm bảo vững chắc cho kết quả điều trị của phương pháp này.
Cách đánh giá kết hợp đông - tây y cho rằng điều trị thần kinh - cơ bằng
kỹ thuật này đó chính là phản xạ cơ học thư giãn sau co cơ đẳng trường đối

11


với cơ chủ vận, và tận dụng quá trình ức chế tương hỗ đối với cơ đối vận, qua
đó các phép kỹ thuật này đã tự khẳng định được giá trị của kỹ thuật điều trị.
Những phức hợp của rối loạn quá trình vận động có thể gặp ở cột sống,
các chi hoặc một tổ chức cơ - xương - khớp bất kỳ đòi hỏi cách thức điều trị
khác nhau, nó cần được hiểu biết dựa trên nhiều kiến thức khác nhau như cơ
sinh học, giải phẫu bệnh,…
Phương pháp thăm khám, chẩn đoán và điều trị trong các nội dung điều
trị bằng trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp hay bằng các chuyên ngành
khác trên cùng một đối tượng bệnh lý đều hướng tới mục đích tìm ra đúng
bệnh lý để có phương pháp điều trị thích hợp. Trị liệu thần kinh cột sống & cơ
- khớp cần tìm ra nguyên nhân gây bệnh theo lý luận có tính đặc thù riêng, do
vậy từ đó cũng có những phương pháp điều trị mang tính đặc thù nên ảnh
hưởng nhất định đến việc điều trị có kết quả hay không.
Việc thăm khám, chẩn đoán dựa trên các cơ sở khoa học, nhưng khả

năng phát hiện bệnh còn cần đến những yếu tố mang tính kinh nghiệm mà
khoa học và thiết bị kỹ thuật hiện đại có thể chưa thay thế được. Với phương
pháp này, ngoài việc kết hợp nhiều mặt kiến thức chuyên môn về y học, thì
những kinh nghiệm quý được áp dụng hiện nay vẫn chưa có đủ cơ sở khoa
học để giải thích và chứng minh hiệu quả nó mang lại.
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp phải được áp dụng đúng với đối
tượng bệnh lý thì nó mới phát huy được hiệu quả và tác dụng. Kinh nghiệm
thăm khám, điều trị cũng chỉ được phát huy hiệu quả do khả năng khác nhau
của từng người điều trị, khả năng này còn phụ thuộc vào khả năng khác nhau
của từng người, và rất đặc thù nên đối với những bệnh mạn tính, việc tiến
hành một điều trị ban đầu là rất cần thiết để có một quyết định điều trị đúng
tiếp theo. Một mặt còn mang tính hạn chế do nhiều khi chưa đủ lý luận để giải

12


thích những kết quả điều trị mang lại mặc dù rất tốt, đặc biệt đối với kết quả
điều trị các bệnh lý mạn tính, các bệnh lý mang tính hội chứng liên quan cơ xương - khớp.
Tóm lại, thăm khám, chẩn đoán, điều trị bằng kỹ thuật trị liệu thần kinh
cột sống & cơ - khớp có điểm chung, có điểm riêng trong việc điều trị một đối
tượng bệnh lý liên quan, tuy nhiên cách tiếp cận và thực hiện có những điểm
khác biệt, có nhiều điểm mạnh và không ít điểm yếu. Điều quan trọng là
người điều trị phải biết cả hai mặt gồm đối tượng điều trị là bệnh lý và áp
dụng phương pháp điều trị là các phép kỹ thuật cụ thể. Biết lắng nghe bệnh
nhân, tôn trọng kết quả điều trị.
Việc điều trị bằng phương pháp này dứt khoát phải tuân thủ những
nguyên tắc, tuy nhiên không thể thiếu vận dụng sáng tạo trên cơ sở nguyên
tắc cơ bản, và tùy khả năng con người của từng người điều trị, đối tượng điều
trị, mà qua đó có thể mang lại những kết quả điều trị khác nhau. Với một quy
trình thăm khám hiệu quả, một đánh giá chẩn đoán đúng thì điều trị là yếu tố

quan trọng đối với việc chữa bệnh. Chúng ta sẽ nghiên cứu các kỹ thuật điều
trị ở phần kỹ thuật điều trị cơ bản.
VII. PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ
Phương thức điều trị trong Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp thực
hiện trên các nguyên tắc bao gồm từ thăm khám, chẩn đoán, điều trị ban đầu,
điều trị, theo dõi đánh giá và tập luyện sau điều trị. Do vậy, để đạt được hiệu
quả cao trong điều trị thì bên cạnh kỹ thuật điều trị cơ bản dùng cho từng
bệnh lý liên quan thì kinh nghiệm, khả năng, cảm nhận bằng kinh nghiệm
từng đối tượng bệnh,… cũng đều mang tầm quan trọng.
Để có một phương thức điều trị đúng, tốt và mang lại hiệu quả, người
thực hiện điều trị phải nắm chắc các kiến thức cơ bản, các quy ước, quy định

13


trong phương pháp này. Đặc biệt phải nắm rõ các phép điều trị cơ bản và
siêng năng luyện tập để phát triển kinh nghiệm điều trị. Để thực hiện đúng kỹ
thuật điều trị thì yêu cầu ng­ười điều trị biết trình tự tác động đối với một
bệnh lý cơ - xương - khớp nhất định, các chỉ định, chống chỉ định,… để thực
hiện điều trị mang lại kết quả tốt nhất. Việc áp dụng điều trị nắn chỉnh cột
sống, tác động cột sống,… phải thực hiện trên nền kiến thức tổng hợp thông
qua biện pháp kỹ thuật an toàn để phòng ngừa tối đa các rủi ro.
VIII. CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH
1. Chỉ định
Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp thường được áp dụng điều trị
cho những trường hợp bệnh lý liên quan tới cột sống và thần kinh - cơ - khớp
như rối loạn chức năng của cột sống, rối loạn chức năng các khớp ngoại vi,
cũng như đối với bệnh lý thuộc các cơ như: ngắn rút cơ, yếu cơ, mất đồng bộ
giữa các cơ. Trên cơ sở tìm hiểu tiền sử bệnh, tìm hiểu vận động chức năng và
qua cách thăm khám bằng sờ nắn đối với hệ vận động, cho phép người điều

trị xác định rõ những tiêu chuẩn ban đầu cho việc chỉ định điều trị hay điều trị
ban đầu bằng các phép kỹ thuật cơ bản. Với một triệu chứng đau thì cần chú ý
xác định rõ: đau tại chỗ hay đau do lan truyền, xác định sự thay đổi của phần
mềm tại chỗ (vùng bị tác động), đau tại ranh giới của vận động bệnh lý như
đối với đốt sống, đoạn cột sống, khớp ngoại vi, đau do mất đồng bộ của các
cơ đối với một vùng như ngắn rút cơ, yếu cơ, hay đối với một hệ thống như
đau gân cơ thuộc cột sống.
Chỉ định điều trị cần thực hiện chẩn đoán và tiến hành điều trị ban đầu
với việc để ý sự mất đồng bộ của các cơ. Nó thể hiện có thể ở một vùng nào
đó do: ngắt rút, suy yếu hay thể hiện ở một hệ thống như đau gân cơ cột sống
bằng cách thông qua phương pháp điều trị ban đầu, việc điều ban đầu có một

14


ý nghĩa rất lớn. Sau khi đã loại trừ những chống chỉ định quen thuộc, người
điều trị có thể đưa ra một quan điểm về mặt chẩn đoán cũng như điều trị dựa
trên thành công của điều trị ban đầu, cũng vì vậy mới có định hướng chính
xác cho việc điều trị lâu dài một cách an toàn nhất. Nếu kết quả trực tiếp hay
gián tiếp của phương pháp điều trị thăm dò không thể hiện rõ rệt, thì phải xem
xét các thông tin lâm sàng để tiếp tục xác định h­ướng chẩn đoán tiếp theo,
nhằm tìm ra một hướng điều trị với kỹ thuật tốt nhất cho ngư­ời bệnh.
Điều trị ban đầu trước tiên có giá trị với sự mất đồng bộ của cơ và rối
loạn hoạt động cơ học của khớp, kỹ thuật sờ nắn không phát huy được tác
dụng trong trường hợp những vùng bị tác động không thể hiện rõ những thay
đổi về mặt bản chất, và về tính chất của nó, những gân tại chỗ nói chung thể
hiện được phải sau một thời gian bệnh lý tiềm tàng kéo dài thì phương pháp
điều trị ban đầu trở nên có giá trị. Trong cách lựa chọn phương thức điều trị
và cách thức phối hợp giữa các phương thức để điều trị thì phải biết phân biệt
từng tiêu chuẩn một. Về phương thức và quy trình điều trị, cách thức điều trị

phối hợp hay phân biệt cũng cần có những đánh giá khi lựa chọn áp dụng.
Với những trường hợp cấp tính thì thường điều trị từ 1 - 14 ngày, những
trường hợp mạn tính thì phải điều trị trên 30 ngày. Như vậy, nằm giữa 14 và
30 ngày có thể được xem như là “bán mạn tính”.
Đối với bệnh nhân, thầy thuốc cần tham vấn rõ xem dấu hiệu đau tại
chỗ hay đau do lan truyền. Điều chỉ dẫn này cũng phải được ghi nhận để phân
tích một cách cẩn thẩn để xem có phải do chính từ cột sống hay có sự phối
hợp với thoái hoá. Điển hình của đau dọc theo rễ thần kinh và theo trục của
dây thần kinh là biểu hiện đầu tiên của một chèn ép rễ. Kinh nghiệm cho thấy
rằng, cần phải hỏi bệnh nhân xem triệu chứng đau cấp tính, hoặc khu trú có
tốt hơn sau điều trị ban đầu hay không, hay đau ở ranh giới của vận động

15


bệnh lý có được giải toả hay không. Bệnh nhân với triệu chứng đau mạn tính
hoặc là đau do dẫn truyền (điển hình trong hội chứng phản xạ cột sống) phải
trước tiên điều trị với các thử nghiệm liên quan các khớp.
Đánh giá bệnh lý của kết qủa điều trị ban đầu có thể phân biệt do ngắn
rút của cơ trương lực, hoặc tình trạng của tràn dịch ổ khớp, thoát vị đĩa
sống,… Việc lựa chọn và xác định phương thức điều trị thì việc xuất hiện hay
mất đi của triệu chứng đau đối với thăm dò phải được phân biệt rõ rệt. Qua đó
tiếp tục xác định các phương pháp điều trị bổ sung hoặc kết hợp bên cạnh thủ
pháp, thực hiện điều trị tại cơ sở y tế hay tự tập luyện tại nhà theo hướng dẫn
của thầy thuốc.
Phương pháp điều trị ban đầu được cho là rất an toàn và hiệu quả, việc
phản ứng tích cực xảy ra trong giai đoạn điều trị ban đầu là cơ sở để xác định
tốt hơn quy trình điều trị tiếp theo đối với cả thầy thuốc và người bệnh.
2. Đánh giá phản ứng của bệnh nhân khi điều trị
Đánh giá phản ứng của bệnh nhân trong quá trình điều trị để tiếp tục

kiểm tra chính việc điều trị của thầy thuốc với đối tượng điều trị là việc phải
làm theo nguyên tắc vì các chẩn đoán và kết luận mang tính đặc thù và không
thể hoàn toàn khẳng định sau thăm khám, đặc biệt chú ý với việc điều trị ban
đầu vì khả năng chẩn đoán của các thầy thuốc khác nhau có thể không đồng
nhất, và phương tiện điều kiện kỹ thuật tác nghiệp ở nhiều nơi là còn khó
khăn và hạn chế. Về cơ bản, điều trị bằng phương pháp này đối với các bệnh
liên quan cột sống và thần kinh - cơ - khớp thì việc đánh giá phản ứng của
bệnh nhân được phân thành một số trường hợp dưới đây.
- Bệnh nhân thấy tốt hơn sau điều trị: Tiếp tục quy trình điều trị cho tới
khi hết đau, đặc biệt cho tới khi đạt được mục tiêu điều trị.

16


- Tình trạng bán cấp tính của bệnh nhân trở nên xấu đi trong nhiều giờ
sau, tuy nhiên thấy tốt hơn trong những ngày sau: Tiếp tục quy trình điều trị.
- Tình trạnh bệnh nhân xấu đi ngay lập tức sau điều trị đối với bệnh cột
sống: Phải trấn an bệnh nhân; làm độc tác kéo nhẹ đối với đoạn cột sống điều
trị, có thể tiến hành một xoa bóp nhẹ đối với cơ cạnh sống; gây tê tại chỗ;
kiểm tra và đánh giá lại những phát hiện trước đây; tìm kiếm những tư liệu
chính xác trong thăm khám kể cả tình trạng thần kinh trong bệnh sử.
- Tình trạng bệnh nhân trở nên dần dần xấu đi (hàng ngày, hàng tuần
cho đến hàng tháng sau điều trị): Dừng điều trị bằng các trị liệu cơ học,
chuyển sang dùng thuốc; kiểm tra và đánh giá lại những phát hiện trước đây;
việc tìm hiểu lại vấn đề thần kinh, vấn đề thấp hay là vấn đề chấn thương là
một việc làm rất cần thiết; nếu bệnh nhân yêu cầu về bồi thường thì không
nên do dự và nên giải quyết.
- Biến chứng về thần kinh: Ngay lập tức gửi bệnh nhân đến các trung
tâm; ngay lập tức tìm hiểu những tư liệu trong tiến trình bệnh và những phát
hiện trong tiền sử bệnh.

Bệnh nhân trong tình trạng như cũ, không tốt lên cũng chẳng xấu đi sau
vài ngày điều trị hoặc tối đa 7 ngày: dừng điều trị.
3. Chống chỉ định điều trị
Các trường hợp có bệnh lý liên quan dưới đây đều không được điều trị
sau khi thăm khám phát hiện bệnh lý liên quan cột sống và thần kinh - cơ khớp.
- Nội khoa: Tiểu đường; khối u; bệnh huyết dịch; lao xương; ung thư
xương; viêm khớp sưng tấy; bệnh tinh thần; mệt mỏi quá độ; quá đói; say
rượu.

17


- Ngoại khoa: Gãy xương; ứ huyết vết thương mới xuất hiện; sưng tấy;
cơ kiện tổn thương đứt cấp tính dây chằng.
- Phụ sản: đang mang thai, kỳ kinh nguyệt.
- Da liễu: ung nhọt, sưng tấy, lở loét.
Các trường hợp dưới đây nên điều trị kết hợp hoặc hạn chế dùng
phương pháp này, hoặc tiến hành điều trị ban đầu một cách cẩn thận nhất
trước khi quyết định điều trị.
- Thoát vị đĩa đệm thắt lưng cấp, thoát vị đĩa đệm cổ cấp.
- Tổn thương cấp tính ở phần mềm cột sống cổ.
- Thương tổn phần mềm ở cột sống cổ giai đoạn mạn tính.
- Chóng mặt cổ (kể cả đau đầu thể cổ).
- Thoái hoá đốt sống trượt khớp ở cột sống thắt lưng.
- Xương mọc thêm ở cột sống và ở ống tủy.
- Tiêu xương hay rối loạn chuyển hoá xương.
- Viêm đốt sống dính khớp các giai đoạn cấp và mạn tính.
- Thâm nhiễm viêm đối với cột sống trong viêm khớp do thấp.
- Đốt sống bất thường và vận động cột sống quá mức do bẩm sinh hay
mắc phải.

IX. AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ
Tính an toàn trong chữa trị một số bệnh liên quan tới cột sống và thần
kinh - cơ - khớp bằng Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp là rất cao nếu
những người điều trị tuân thủ những nguyên tắc trong điều trị. Ngược lại, nếu
không tuân thủ những nguyên tắc trong điều trị thì cũng có thể gây ra những
kết quả khôn lường.
Về cơ bản, thực hiện tốt các kỹ thuật trong điều trị các bệnh liên quan
cột tới sống và thần kinh - cơ - khớp sẽ mang lại hiệu quả rất tích cực, đảm

18


bảo an toàn cao và tránh được tác dụng phụ do không phải dùng thuốc theo
đường uống. Việc này đặc biệt tốt với những bệnh nhân được chống chỉ định
dùng thuốc uống do đang tồn tại các bệnh lý khác trong khi cần điều trị bệnh
lý liên quan cơ - xương - khớp và các bệnh mạn tính.
Việc áp dụng phác đồ điều trị sớm và đúng thì ngoài việc chữa trị đư­ợc
bệnh cấp tính tại thời điểm, còn góp phần cực kỳ quan trọng trong việc ngăn
chặn nguyên nhân gây ra các bệnh mạn tính liên quan. Phục hồi và duy trì sức
khoẻ lâu dài. Nội dung này phải kể đến các tổn thương phát sinh đối với
xương khớp, mà tiếp theo là ảnh hưởng thứ phát khi tác động đến các bộ phận
chức năng khác của cơ thể. Các tác động này chủ yếu gây ra các ảnh hưởng
về xương, thần kinh, gân cơ, mô mềm, sinh hoá,… thì dùng phương pháp này
hiện đang mang lại kết quả cao nhất và tốt nhất so với các phương pháp điều
trị hiện nay. Đối với các di lệch liên quan đốt sống, di lệch liên quan khớp,
cong vẹo cột sống, co rút gân cơ.
Việc áp dụng phương pháp điều trị này trong điều trị dự phòng sẽ giúp
ngăn chăn và giải quyết sớm các tổn thương, đặc biệt với các tổn thương có
thể sinh ra ngay từ khi thai nhi, hoặc trong các trường hợp do thiếu hiểu biết
trong quá trình lao động sinh ra. Một mặt phòng chống bệnh nghề nghiệp, mặt

khác luôn duy trì được chất lượng sức khỏe tốt cả về thể chất và tinh thần.
X. MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ
Mục tiêu điều trị của phương pháp này là phải đạt được những kết quả
rất cụ thể đối với từng giai đoạn điều trị nhằm đánh giá việc thăm khám chẩn
đoán và định hướng điều trị có đúng với đối tượng bệnh lý hay không. Với
biểu hiện rõ ràng và ảnh hưởng nhiều nhất đến bệnh nhân có bệnh lý liên
quan cơ - xương - khớp là đau, nên mục tiêu hàng đầu cần đạt được là giảm
đau không uống thuốc cho bệnh nhân kể cả tổn thương cấp tính và mạn tính.

19


Sau đó, cần điều trị và phục hồi các tổn thương, ngăn chặn các tác động
không tích cực liên quan, phục hồi sức khoẻ toàn diện đối với bệnh lý mạn
tính sau điều trị để đạt được mục tiêu chất lượng tốt về sức khoẻ thể chất và
tinh thần.
Mục tiêu quan trọng là thực hiện thăm khám, chẩn đoán và quyết định
phương pháp điều trị nào, kế hoạch điều trị ban đầu, mục đích kết quả là gì và
cách thực hiện ra sao đối với từng bệnh nhân. Như vậy, việc phân loại bệnh
nhân theo bệnh lý là yếu tố quan trọng để có được lựa chọn đúng cho phương
pháp điều trị và kết quả điều trị mong đạt được. Mục tiêu sau chữa bệnh là
phục hồi sức khoẻ, theo dõi tính ổn định sau điều trị đối với từng đối tượng
bệnh để tránh các tổn thương mạn tính.
Việc thăm khám, đánh giá lại kết quả điều trị đối với từng bệnh nhân
phải được đưa vào quy trình khám chữa bệnh sau mỗi liệu trình. Do tính đặc
thù việc điều trị bằng trị liệu thần kinh - cơ - khớp, nên kết quả điều trị một
đối tượng bệnh lý cụ thể có thể sẽ mang lại nhiều kết quả tốt đối với nhiều
mặt sức khoẻ người bệnh, việc tự chăm sóc sức khoẻ sau điều trị đối với các
bệnh lý mạn tính là quan trọng nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ, do vậy đánh
giá đúng đối tượng bệnh lý và nguyên nhân gây bệnh sẽ giúp tư vấn người

bệnh thực hiện tốt tự chăm sóc sức khoẻ bản thân. Đối với thầy thuốc, đây là
điểm để thực sự kết thúc việc chữa bệnh cho người bệnh bằng phương pháp
này.
Mục tiêu an toàn trong điều trị đạt được phải đi kèm với thực hiện tốt
điều trị rộng hơn cho các bệnh nhân cơ - xương - khớp có bệnh lý chống chỉ
định dùng thuốc giảm đau theo đường uống. Do vậy, kết quả điều trị sẽ trực
tiếp hoặc gián tiếp góp phần phục hồi sức khoẻ và giảm các bệnh lý liên quan
do nếu có tác động ảnh hưởng từ bệnh lý thần kinh - cơ - khớp.

20


XI. TÂM LÝ NGƯỜI BỆNH VÀ THẦY THUỐC TRONG TRỊ
LIỆU
Phương pháp thăm khám bệnh nhân đối với phương pháp điều trị này
có tính rất đặc thù, do liên hệ với kinh nghiệm thăm khám nên thầy thuốc cần
thông qua những công năng cảm giác khi giao tiếp với bệnh nhân để chẩn
đoán một cách có hệ thống các thông tin liên quan đến bệnh tật. Thực hiện sờ
nắn bằng tay là một trong những nội dung chính khi tiến hành thăm khám
bệnh nhân để có thể đưa ra phán đoán chính xác đối với triệu chứng bệnh. Để
tối ưu hoá thông tin khách quan từ bệnh nhân và từ thầy thuốc trên đối tượng
bệnh lý, việc thực hiện nguyên tắc và các giới hạn trong giao tiếp giữa bệnh
nhân và thầy thuốc là rất quan trọng do các tiếp xúc giữa bệnh nhân và thầy
thuốc phải được xây dựng trên một mục tiêu rõ ràng, tránh hiểu nhầm trong
toàn bộ quá trình thăm khám và điều trị.
Việc thăm khám dứt khoát phải thực hiện việc giao tiếp trực tiếp qua hệ
da người bệnh bằng tay của thầy thuốc. Tùy theo phong tục tập quán văn hoá
giao tiếp giữa người bệnh và thầy thuốc mà việc thực hiện có đạt yêu cầu tốt
trong thăm khám hay không qua các tác động bằng tay là sờ nắn, kéo nắn,…
Do vậy, thầy thuốc cần tham khảo trước đối ý kiến người bệnh về những động

tác thăm khám sẽ tiến hành. Mặt khác, bằng nhạy cảm của bản thân, thầy
thuốc có thể tự đánh giá các ảnh hưởng qua các giao tiếp trong thăm khám
với sự rõ ràng, quy trình chuẩn với mục tiêu hướng tới kết quả điều trị.
Điều bất lợi nhất trong giao tiếp giữa thầy thuốc với bệnh nhân là không
xác lập được rõ ràng các giao tiếp để thăm khám, trong đó bao gồm cả yếu tố
tinh thần và suy nghĩ của hai bên. Sự mong đợi từ phía bệnh nhân là “bệnh
của mình đã kéo dài 30 năm nhưng muốn điều trị khỏi trong ít phút”, còn thầy
thuốc thì với suy nghĩ rằng “kỹ thuật của tôi có thể chữa khỏi tất cả”, đó là

21


không thực tế. Do vậy, thông tin giao tiếp cần thực tế, có cơ sở giữa thông tin
với thực tế. Ví dụ một bệnh nhân bị thoái hoá đốt sống cổ kiểm tra thấy có
các ảnh hưởng lâm sàng đến đau đầu, mất ngủ,… thì cần phân tích cho bệnh
nhân hiểu rõ hơn.
Bệnh nhân luôn quan tâm và lo lắng về bệnh tật của họ và các ảnh
hưởng mà bệnh tật của họ có thể gây ra. Việc thầy thuốc thông tin với một
phương pháp tốt tới bệnh nhân có thể giúp mối giao tiếp giữa hai bên tốt đẹp
và cởi mở là điều kiện thuận lợi cho quá trình thăm khám và điều trị. Đương
nhiên cần thiết phải có tối thiểu một linh cảm thầy thuốc như trong sự thông
cảm, trong sự nhạy cảm, hơn nữa trong bản năng sẵn có và trong cả sự nghi
vấn, kể cả những thông tin không bằng lời nói, chỉ bằng sự cảm nhận của thầy
thuốc vẫn có thể sự dụng trong thăm khám và điều trị. Nghệ thuật của thầy
thuốc là thống nhất được mối giao tiếp bằng lời nói và không bằng lời nói với
bệnh nhân, khả năng này của thầy thuốc phải luôn được học hỏi, nâng cao và
rèn luyện.
Tâm lý người bệnh nhằm khắc phục đau là nội dung cần được hiểu một
cách đúng đắn và phải tuân theo hai chiều hướng sau đây: Việc chấp nhận sự
phụ thuộc của bệnh nhân với môi tr­ường xung quanh như thế nào? các

phương pháp của thầy thuốc nhằm giảm bớt sự phụ thuốc của bệnh nhân vào
các biện pháp y tế. Bệnh nhân phụ thuộc vào sự tự chủ của mình được bao
nhiêu lâu? Geissner và Wurtele (1990) khẳng định rằng, những phân tích
quan trọng đối với việc khắc phục đau là phải làm cho bệnh nhân hiểu thấu
đáo để tự mình kiểm tra và đánh giá tình trạng đau của mình.

22


XII. ĐAU CẤP VÀ MẠN TÍNH LIÊN QUAN TỚI CỘT SỐNG VÀ
THẦN KINH - CƠ - KHỚP
Đau, theo sinh lý học thần kinh mô tả là một khái niệm trừu tượng phụ
thuộc theo những yếu tố: cơ địa, cảm xúc và sự chịu đựng khác nhau của từng
người bệnh. (Geissner và Wurtele, 1990). Theo Engel (1970) thì “ Đau là một
cảm giác khó chịu được cơ thể ghi nhận và đau là nguồn gốc của bệnh tật,
thông qua cảm giác đau ta có thể tìm thấy thương tổn”. Nhưng theo Adler và
Hemmeler (1998) thì thương tổn có thể tồn tại với đau, cũng có thể thương
tổn là mối đe doạ và cũng có thể chỉ là sự tưởng tượng mà thôi. Sternbach
(1974) phân biệt giữa đau và bệnh nhân đau.
Bệnh nhân đau là một bệnh nhân tìm đến thầy thuốc khi có đau cấp tính
hoặc mạn tính với hy vọng là để giảm đau. Điều trị bằng trị liệu thần kinh - cơ
- khớp với những trường hợp đau cấp tính hoặc mạn tính trên cơ sở sửa lại
tình trạng rối loạn chức năng của cột sống hay các chi. Thực hiện thăm khám
yêu cầu một thầy thuốc phải có đủ kiến thức về lâm sàng để phân biệt đau cấp
tính, đau mạn tính và đau trong ung thư và AIDS. Trong các chứng đau cấp
tính, đau mạn tính thì phải thực hiện phân biệt và áp dụng các chỉ định và
chống chỉ định điều trị.
Trong Trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp, đau cần được xem xét và
đánh giá thông qua các thông tin cơ bản sau:
- Biểu hiện khu trú đau? (khuếch tán hay lan truyền).

- Tính chất đau? (như kim châm, ẩm ướt, bỏng rát).
- Mức độ đau? (chịu được, không chịu được).
- Thời gian xuất hiện và tồn tại cơn đau? (cấp tính, tản mạn, tái phát,
kéo dài, mạn tính).

23


- Tình trạng đau? (yên lặng, căng thẳng, khi nằm, khi ngồi, khi đứng,
khi đi).
- Triệu chứng đi kèm với đau? (chóng mặt, nhịp tim nhanh,…).
- Thông tin khác? (nghề nghiệp, thói quen trong sinh hoạt,…).
Trong quá trình điều trị, yếu tố quan trọng để có thể đạt được một kết
quả điều trị tốt là: tuổi còn trẻ, bệnh cấp tính, hơi đau một chút, khoẻ mạnh,
năng động. Đối với bệnh nhân mạn tính thì thời gian điều trị cần phải tăng
thêm, kỹ thuật chẩn đoán và điều trị cần phải chọn lọc và thực hiện có đánh
giá, sự tái lập lại chức năng tức là chữa khỏi và phục hồi lại hoàn toàn là điều
không thực hiện được. Do vậy, với mỗi trường hợp đau, bệnh nhân cũng phải
tự ý thức được tình trạng bệnh tật và thực tế của mình.
Đánh giá cảm giác đau chủ quan qua thang đo trực giác và bằng danh số
kèm theo (Mc Gill và vấn đề đau) đã được Keefe và Block (1982) ghi chép lại
qua việc theo dõi đối với cơ quan vận động. Nếu có biểu hiện đau thì có thể
nhận xét được qua những hiện tượng như sự tự chế ngự, sự tự cựa quậy, sự
thư giãn nghỉ ngơi, sự nhăn nhó, sự thở dài, sự tự xoa đập tại chỗ liên tục ở tư
thế ngồi, đứng và đi với dáng lom khom. Keefe và cộng sự (1990) đau có thể
chia ra làm 4 nhóm nguyên nhân chủ yếu khác nhau do tuổi tác, giới tính,
nguồn gốc, chủng tộc và tầng lớp xã hội.
Kết quả điều trị đau phụ thuộc một chẩn đoán đúng và một phư­ơng
pháp điều trị phù hợp. Đôi khi có sự khác biệt về hiệu quả điều trị lại do chính
cảm nhận cá nhân của từng người bệnh. Điều chú ý là điều trị đau cần thực

hiện vào những thời gian cố định, tránh theo ý kiến chủ quan của bệnh nhân
để phòng ngừa đau tái phát. Đánh giá kết quả điều trị bằng phương pháp này
đối với bệnh lý cột sống và thần kinh - cơ - khớp cho thấy thế mạnh là giảm

24


đau, với kỹ thuật được thực hiện bởi các kỹ thuật viên có kinh nghiệm thường
giúp bệnh nhân giảm đau tức thì khi điều trị.
XIII. CHĂM SÓC VÀ LUYỆN TẬP SAU ĐIỀU TRỊ
Các bệnh lý đư­ợc trị liệu thần kinh cột sống & cơ - khớp nếu đạt được
những kết quả tích cực thì điều đó khẳng định đã thực hiện một phương pháp
điều trị hiệu quả, điều này đặc biệt có ý nghĩa với các bệnh lý mạn tính để duy
trì thực hiện điều trị hướng tới kết quả tốt nhất. Trong các nội dung giới đã
giới thiệu, kết quả điều trị đối với từng bệnh phụ thuộc các yếu tố chủ quan và
khách quan, ngoài một phương pháp điều trị đúng, còn phụ thuộc vào các
bệnh nhân khác nhau.
Luyện tập sau điều trị hay chăm sóc và phục hồi sức khoẻ sau điều trị
đối với bệnh lý liên quan tới cột sống và thần kinh - cơ - khớp là rất quan
trọng. Điều này nhất thiết phải thực hiện theo hướng dẫn của thầy thuốc. Vì
nội dung, mục đích, phương pháp tập luyện đối với mỗi bệnh lý là khác nhau,
với cùng một bệnh lý nhưng với các bệnh nhân khác nhau cũng có thể phải
thực hiện khác nhau. Thực hiện chăm sóc sau điều trị cần thực hiện nhiếu tác
động tích cực khác nhau chứ không chỉ đơn thuần là luyện tập thể dục. Người
bệnh cần nhận được một tư vấn đầy đủ về luyện tập thể chất, luyện tập tinh
thần, chế độ dinh dưỡng, các quan hệ xã hội, đặc biệt là môi trư­ờng sống và
làm việc với các thói quen cụ thể.
Mục đích mong muốn đạt được từ việc chăm sóc sau điều trị đối với
nhóm bệnh lý này là các tác động nhằm hỗ trợ hồi phục các tổn thương đã
được điều trị có liên quan đến cả mặt sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tinh thần.

Đối với một bệnh nhân cụ thể, kết quả mong muốn sẽ là không còn cảm giác
đau với tình trạng tinh thần sảng khoái, các hoạt động chức năng liên quan
thần kinh và vận động được phục hồi tốt nhất. Kết quả mong muốn cũng có

25


×