Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Chuyên đề: XU HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CHỦNG LỢI KHUẨN PROBIOTIC TRONG Y HỌC VÀ THỰC PHẨM CHỨC NĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.51 KB, 39 trang )

TỔNG QUAN KINH TẾ - XÃ HỘI, AN NINH CHÍNH TRỊ
THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC NĂM 2015
______________

Phần thứ nhất:
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI

I- VỀ KINH TẾ
1- Tổng quan bức tranh kinh tế thế giới năm 2015
Năm 2015 kinh tế thế giới tiếp tục chịu tác động trực tiếp, tiêu cực từ những bất
ổn chính trị, cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích giữa các nước lớn, đặc biệt là những bất
ổn chính trị kéo dài tại Trung Đông, Bắc Phi cùng với cuộc khủng hoảng về di cư tại
châu Âu và căng thẳng trên Biển Đông làm ảnh hưởng đến môi trường hợp tác đầu tư,
kinh doanh khu vực, đến sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế thế giới.
* Kinh tế thế giới tăng trưởng thấp nhất từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
Trước những biến động gần đây trên thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế, các tổ
chức quốc tế trong tháng 10/2015 đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm
2015 - 2016. Trong Báo cáo cập nhật tháng 10/2015, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế
toàn cầu năm 2015 chỉ đạt 3,1% (giảm 0,2% điểm so với dự báo tháng 7/2015), năm
2016 phục hồi nhẹ với tốc độ 3,6% (giảm 0,2% điểm so với dự báo tháng 7/2015). WB
dự báo kinh tế thế giới tăng trưởng 2,5% trong năm 2015 (giảm 0,4% điểm so với dự
báo trước) (Xem phụ lục - Biểu 1). Đây là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ sau khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009.
Theo IMF, hoạt động sản xuất công nghiệp, đầu tư và thương mại toàn cầu đều chậm
lại đáng kể. Dòng vốn vào các nền kinh tế đang nổi sụt giảm. Sau khi biến động mạnh
trong tháng 7 và tháng 8/2015, các thị trường tài chính - tiền tệ đã dần ổn định hơn nhưng
vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bên cạnh các khó khăn trước mắt, IMF cho rằng kinh tế thế giới
tăng trưởng chậm xuất phát từ sự suy yếu của một số yếu tố nền tảng lâu dài (lao động,
năng suất, công nghệ...).
IMF nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu có nhiều rủi ro: (i) Nguy cơ gây bất ổn
thị trường tài chính toàn cầu như tái phát khủng hoảng nợ Hy Lạp, cú sốc kép của việc


đồng loạt thu hẹp nới lỏng tiền tệ của Mỹ, EU và Nhật Bản...; (ii)Tăng trưởng tiềm
năng tiếp tục suy yếu và nguy cơ trì trệ kéo dài do nợ và thất nghiệp cao làm suy yếu
đầu tư và tiêu dùng; (iii) Rủi ro kinh tế Trung Quốc “hạ cánh cứng” có nhiều tác động
khó lường; (iv) Căng thẳng leo thang ở các điểm nóng địa - chính trị quốc tế (vấn đề
U-crai-na, cuộc chiến chống tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng ở Trung Đông...) nếu
vượt tầm kiểm soát có thể làm gián đoạn các dòng lưu chuyển thương mại, đầu tư và
năng lượng toàn cầu.
* Tăng trưởng kinh tế của một số nền kinh tế
1


Triển vọng tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các nước và nhóm nước.
Được hỗ trợ bởi giá dầu thấp, nới lỏng tiền tệ và củng cố tài khóa, kinh tế các nước
phát triển tiếp tục phục hồi song chậm hơn kỳ vọng. Trong khi đó, các nền kinh tế
đang nổi giảm tốc năm thứ 5 liên tiếp do tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc và
giảm mạnh tăng trưởng ở các nước xuất khẩu dầu mỏ. IMF dự báo nhóm nước phát
triển tăng trưởng 2,0% trong năm 2015; các nước đang phát triển chỉ tăng trưởng 4,0%
trong năm 2015 .
Mỹ dự báo sẽ tăng trưởng cao hơn trong nửa cuối năm 2015 do các yếu tố hạn
chế tăng trưởng trong nửa đầu năm sẽ giảm dần trong nửa cuối năm. Kinh tế Mỹ dự
báo tăng 2,0% trong năm 2015 (giảm 0,1% điểm so với dự báo tháng 7/2015). EU và
khu vực đồng Euro dự báo sẽ tiếp tục phục hồi khả quan trong nửa cuối năm 2015 tiếp
theo đà phục hồi tăng trưởng đã tương đối bền vững trong nửa đầu năm 2015. IMF
(10/2015) dự báo tăng trưởng GDP của khu vực Eurozone sẽ đạt 1,5 - 1,6% trong năm
2015. Nga, tăng trưởng kinh tế tiếp tục sụt giảm 4,3% so với cùng kỳ năm ngoái,
nguyên nhân chủ yếu do giá dầu giảm và các biện pháp cấm vận của phương Tây.
Chính phủ Nga ước tính nền kinh tế Nga sẽ giảm khoảng 3,9% trong năm 2015. Chính
sách nới lỏng tiền tệ của ngân hàng Trung ương (NHTW) Nhật Bản từ cuối tháng
10/2014 dự báo sẽ thúc đẩy kinh tế Nhật Bản tăng trưởng trở lại trong năm 2015 sau
khi tăng trưởng âm. Kinh tế Trung Quốc tiếp tục giảm tốc với tăng trưởng trong quý

III/2015 chỉ đạt 6,9%, mức thấp nhất kể từ năm 2009. IMF dự báo tăng trưởng kinh tế
Trung Quốc năm 2015 chỉ đạt 6,8%. Kinh tế khu vực Đông Á - Thái Bình Dương tăng
trưởng chậm lại với tốc độ 6,5% trong năm 20151 do tác động của giảm tốc tăng
trưởng kinh tế Trung Quốc. Ấn Độ là điểm sáng trong các nền kinh tế đang nổi với
tăng trưởng cao 7,3 - 7,5% trong năm 2015-2016 nhờ đẩy mạnh cải cách, tăng đầu tư
và hưởng lợi từ giá hàng cơ bản nhập khẩu giảm. Ở Đông Nam Á, các nước dựa vào
thị trường Trung Quốc như In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a chịu nhiều tác động, trong đó
tăng trưởng của Ma-lai-xi-a giảm mạnh còn 4,7% trong năm 2015 (năm 2014, tăng
6%). Tăng trưởng GDP của Châu Phi sẽ tăng từ mức 3,5% năm 2014 lên 4,5% năm
2015.
* Tài chính tiền tệ và đầu tư
Dự báo thị trường tài chính tiền tệ sẽ có nhiều biến động phức tạp, nhất là khả
năng FED tăng lãi suất vào cuối năm sẽ làm đồng USD tăng giá. Ngân hàng Thế giới
(WB, 6/2015) dự báo dòng vốn quốc tế đổ vào các nước đang phát triển dự báo sẽ
giảm từ 5,4% GDP năm 2014 xuống còn 5,1% GDP năm 20152.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu dự báo sẽ tiếp tục phục
hồi trong nửa cuối năm. Trên thị trường tiền tệ, dự báo đồng USD sẽ tiếp tục tăng giá
so với các đồng tiền chính trên thế giới từ nay đến cuối năm do Mỹ có kế hoạch nâng
1

Báo cáo của WB, tháng 10/2015.
Theo khu vực, dòng vốn quốc tế đổ vào khu vực Đông Á và Thái Bình Dương sẽ giảm từ 5,7% GDP năm 2014 xuống 5,1% GDP
năm 2015, khu vực Châu Âu và Trung Á vẫn giữ nguyên ở mức 5% GDP, khu vực Châu Mỹ Latinh và Caribê giảm từ 5,9% GDP
xuống còn 5,4% GDP, khu vực Trung Đông và Bắc Phi tăng từ 2,1% GDP lên 2,2% GDP, vào khu vực Nam Á vẫn giữ nguyên ở
mức 5,8% GDP, và khu vực Châu Phi cận Xahara giảm từ 4,3% GDP xuống 4,2% GDP.
2

2



lãi suất và nền kinh tế Mỹ tiếp tục hồi phục.
Đối với tình hình tài khóa, theo báo cáo Fiscal Monitor (Báo cáo Theo dõi Tài chính
của IMF) (4/2015), thâm hụt ngân sách trung bình của thế giới được dự báo ở mức 3,4%
GDP vào năm 2015. Trong đó thâm hụt ngân sách tại các nền kinh tế phát triển sẽ tiếp tục
giảm, cụ thể là giảm từ 3,9% năm 2014 xuống 3,3% năm 2015, trong khi đó thâm hụt
ngân sách của các nền kinh tế đang nổi và thu nhập trung bình của thế giới dự báo sẽ có
xu hướng tăng từ 2,4% năm 2014 lên 3,7% GDP năm 2015. Nợ công trung bình của thế
giới được dự báo ở mức 80,4% GDP năm 2015, giảm nhẹ so với 79,8% GDP năm 2014.
* Thương mại toàn cầu
IMF dự báo trao đổi thương mại hàng hóa, dịch vụ toàn cầu năm 2015 tăng
trưởng chậm với tốc độ 3,2%. Cả xuất khẩu và nhập khẩu của các nền kinh tế đang nổi
và các nước đang phát triển đều giảm tốc mạnh, trong đó xuất khẩu năm 2015 chỉ tăng
3,9% (giảm 1,1% điểm so với dự báo trước) và năm 2016 dự báo tăng 4,8%; nhập
khẩu năm 2015 chỉ tăng 1,3% (giảm 2,3% điểm so với dự báo trước) và năm 2016 tăng
4,4% (Xem phụ lục - Biểu 2).
Giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng giảm mạnh so với năm ngoái, nhất là giá
dầu giảm sâu (khoảng 30%), giá vàng giảm 7%, bạc giảm 8%. IMF (7/2015) dự báo
giá dầu giảm 38,8% trong năm 2015 so với cùng kỳ năm 2014 và chỉ số giá hàng hóa
phi dầu giảm 15,6% năm 2015 so với cùng kỳ năm ngoái.
2- Dự báo tăng trưởng trong năm 2016
Trong bản báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế toàn cầu 2015 - 2016 của Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF), cơ quan này đưa ra dự báo nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 3,1%
trong năm 2015 và đạt 3,6% trong năm 2016, dù những con số này thấp hơn so với
những con số trong dự báo đưa ra trước đó. Bên cạnh dự báo mức tăng trưởng của kinh
tế thế giới, IMF đã đưa ra dự báo về sự gia tăng lạm phát toàn cầu, từ 0,3% năm 2015
sẽ tăng lên khoảng 1,2% vào năm 2016.
IMF dự báo cụ thể rằng ở khu vực Eurozone sẽ tăng trưởng nhẹ ở mức 1,6% so
với năm 2015, và sẽ là mức tăng trưởng mạnh nhất kể từ năm 2010. Tại Mỹ, tăng
trưởng kinh tế có khả năng sẽ tăng nhẹ 2,8%, làm cho tốc độ tăng trưởng hàng năm
của nước này đạt mức nhanh nhất kể từ năm 2005. Trong khi đó IMF hạ dự báo tăng

trưởng kinh tế của Nhật Bản trong năm 2015 xuống 0,6% và năm 2016 xuống 1%. Các
nền kinh tế bị IMF hạ thấp triển vọng tăng trưởng mạnh nhất là các nền kinh tế phát
triển và mới nổi đang trong thời kỳ suy thoái như Brazil, Nga, và Canada. Trong số
này, nền kinh tế được dự báo sẽ có tăng trưởng trong năm 2016 chỉ có duy nhất
Canada.
Bên cạnh dự báo mức tăng trưởng của kinh tế thế giới, IMF đã đưa ra dự báo về
sự gia tăng lạm phát toàn cầu, từ 0,3% năm 2015 sẽ tăng lên khoảng 1,2% vào năm
2016.

3


Hầu hết các cơ quan dự báo, bao gồm cả Ngân hàng Thế giới (World Bank), Tổ
chức Hợp tác và Phát triển (OECD) hay Bloomberg, đều có những cái nhìn khá lạc
quan về một nền kinh tế thế giới mạnh mẽ hơn trong năm 2016. Tuy nhiên, trong vòng
10 năm thì IMF vẫn có dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ tốt hơn Fed đến 7 năm, nhưng
cũng không có nghĩa là các dự báo của IMF lúc nào cũng chính xác. Lý do là bởi đã là
dự báo thì không bao giờ có sự chắc chắn.
Nhưng các chuyên gia thế giới tin rằng, kinh tế toàn cầu sẽ có được sự cải thiện
phần nào về tốc độ tăng trưởng trong năm 2016, sau bốn năm suy thoái liên tục ở các
nền kinh tế lớn (2011-2014).
Với việc tăng trưởng kinh tế toàn cầu nhanh hơn, doanh số của các công ty sẽ
khấm khá hơn, thúc đẩy tăng trưởng thu nhập nhanh hơn và sẽ tạo một cú hích lớn cho
thị trường chứng khoán của thế giới so với năm 2015.
II- AN NINH CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
1- Tình hình Ukraine
Đã gần 2 năm trôi qua, kể từ tháng 2/2014, những bất ổn tại Ukraine ngày càng
sâu sắc, làm cho người dân Ukraine mệt mỏi, còn dư luận thế giới cảm thấy ngán
ngẩm khi nói về những gì đang xảy ra tại đất nước này. Tất cả vẫn chỉ là hỗn loạn và
bạo lực.

Có thể thấy rằng, chính quyền mới ở Ukraine được thành lập giữa lúc xã hội
Ukraine chia rẽ và bất ổn, nay họ tạo thêm sự cộng hưởng, làm cho những mâu thuẫn
ấy ngày càng sâu sắc hơn, tạo nên một xã hội hết sức rối ren mà chẳng biết họ làm thế
nhằm mục đích gì, phải chăng họ không còn cách nào khác để khẳng định quyền lực
của mình?
Lúc này nói về Ukraine là người ta nghĩ ngay tới những bản thống kê số lượng
người chết và bị thương vì đạn pháo và những trò lố bịch tại nghị trường. Có thể thấy
rằng, sự ngột ngạt trong lòng xã hội Ukraine đã không còn âm ỉ mà nó đã đạt đến mức
cao trào. Tuy nhiên, mâu thuẫn xã hội hiện nay tại Ukraine chưa thể xảy ra một sự đổi
thay tiếp tục.
“Khát vọng NATO – EU” của Ukraine đã bị đóng lại trong khoảng thời gian
không thể định trước khi gần đây NATO đã mời gọi Montenegro gia nhập tổ chức này.
Mà có lẽ người dân Ukraine cũng không còn quan tâm tới điều xa xỉ ấy nữa, mà khí
đốt của Nga giúp cho họ sưởi ấm trong mùa Đông giá buốt mới là điều họ chờ đợi lúc
này.
Tuy nhiên, hình như chính quyền Ukraine không xem việc lo cho cuộc sống của
người dân là ưu tiên trong chương trình hành động, khi họ thách thức Nga trong việc
trả nợ và còn đòi hỏi nhiều thứ khác nữa. Và thế là người dân Ukraine lại phải tiếp tục
chịu đựng những khó khăn và bất ổn trong sự bế tắc, quẫn cùng.
Vì người nắm quyền và chính thể hiện nay do người dân Ukraine lựa chọn thông
qua những cuộc bầu cử tự do nên họ không thể làm khác được. Đã có những cuộc biểu
4


tình chống đối thể hiện sự phẫn nộ của người dân đối với chính quyền nhưng thời thế
bây giờ đã khác vì chính phủ đang tồn tại là hợp hiến, hợp pháp và được lựa chọn bằng
ý nguyện của người dân.
Bạo loạn lật đổ lúc này cũng là không thể, một phần vì người dân đã quá mệt mỏi,
một phần vì họ cũng chẳng quan tâm đến sự tồn tại của chính quyền vì sự quẫn bách
của cuộc sống hàng ngày. Và thế là những người đại diện cho ý chí của dân tộc, ý

nguyện của người dân Ukraine mặc sức làm những điều gì mà họ thích, trong đó có cả
những trò hề mà dư luận đã bêu lên.
Có thể thấy rằng, những bất ổn tại Ukraine chưa thể có hồi kết khi chính quyền
mới chưa thật sự vì người dân, vì đất nước. Sức mạnh nội lực đã bị suy yếu khi sự
đoàn kết dân tột đã bị làm cho phân rã, trong khi đó việc tranh thủ sự trợ giúp của quốc
tế đã không được chính quyền tranh thủ, tận dụng.
Đất nước Ukraine làm sao hy vọng có hòa bình khi nguyên thủ quốc gia kêu gọi
cộng đồng hỗ trợ vũ khí để giải quyết xung đột quốc gia? Đất nước Ukraine làm sao có
được độc lập khi điểm quan trọng nhất chương trình hành động của chính phủ là xin
tài trợ, hỗ trợ quốc tế?
Có lẽ trong tận cùng của sự thất vọng, người dân Ukraine mới nhận ra rằng họ đã
sai lầm khi “giao trứng cho ác” và chưa biết khi nào họ mới có thể được hưởng một
cuộc sống thanh bình – chân giá trị của dân chủ, tự do.
2- Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã thông qua dự thảo nghị quyết do Mỹ và Nga
soạn thảo nhằm thắt chặt các biện pháp trừng phạt hiện nay nhắm đến các mục tiêu tài
chính của Nhà nước Hồi giáo (IS).
Nghị quyết nhằm vào nguồn thu tài chính của của IS cũng như đưa ra các định
hướng triển khai nghị quyết nhằm khuyến khích thêm nhiều quốc gia tham gia “dự án
này”.
Nghị quyết được 15 quốc gia thành viên thông qua và sẽ được triển khai vào
tháng 2/2016, theo đó cấm các quốc gia cũng như bất cứ người dân nào mua bán các
cổ vật có nguồn gốc từ Syria với tổ chức Nhà nước Hồi giáo và các phiến quân Mặt
trận Nusra.
Nghị quyết cũng kêu gọi các quốc gia chấm dứt việc trả tiền chuộc con tin cho các
tổ chức khủng bố này. Hội đồng cũng đặc biệt yêu cầu các thành viên báo cáo các hoạt
động ngăn chặn các sản phẩm từ dầu khí, nhà máy lọc dầu và các nguyên vật liệu có
liên quan đến dầu khí được tuồn ra ngoài hay nhập lậu vào nước họ từ IS hoặc Nusra
Front.
Hội đồng Bảo an cũng cảnh báo việc một số các quốc gia đang thất bại trong việc

thực thi các biện pháp trừng phạt mang tính lâu dài nhằm vào IS và yêu cầu các quốc
gia thông báo về việc triển khai nghị quyết trong vòng 120 ngày.
5


IS đã bị Hội đồng Bảo an liệt vào danh sách đen, xếp ngang hàng với các tổ chức
khủng bố khác, phải chịu các biện pháp trừng phạt của Hội đồng Bảo an.
Có 234 cá nhân và 74 thực thể của IS và al-Qaeda đang nằm trong danh sách
trừng phạt của Hội đồng Bảo an. Các đối tượng và thực thể này là mục tiêu của lệnh
cấm vận vũ khí, lệnh cấm đi lại cũng như phong tỏa tài sản trên phạm vi toàn cầu.
Việc thông qua nghị quyết trên là kết quả của việc rà soát suốt 18 tháng về các
biện pháp trừng phạt al-Qaeda của Hội đồng.
3- Tình hình Syria
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua nghị quyết về Syria. Đây là nghị quyết
cho thấy sự thống nhất hiếm thấy giữa 15 nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc (HĐBA LHQ), mặc dù trong nghị quyết không đề cập đến số phận của Tổng
thống Syria Bashar al-Assad.
HĐBA LHQ đã nhất trí thông qua một nghị quyết ủng hộ lộ trình quốc tế cho tiến
trình hòa bình ở Syria, thể hiện tính nhất trí hiếm hoi giữa các cường quốc về một cuộc
xung đột đã cướp đi hơn 250.000 sinh mạng trong thời gian qua.
“HĐBA đang gửi một thông điệp rõ ràng cho tất cả bên liên quan, rằng đã đến lúc
ngăn chặn việc giết chóc ở Syria và đặt nền móng cho một chính phủ mà những người
dân đã phải sống trong đau khổ lâu nay tại vùng đất bị tàn phá này có thể ủng hộ”.
Hiện nay, vẫn có sự khác biệt quan điểm về tương lai của Tổng thống Syria
Bashar al-Assad, một đồng minh thân cận của Nga và Iran. Các chính phủ phương Tây
muốn ông bị lật đổ. Và nghị quyết không đề cập đến số phận của ông Assad.
Văn bản của nghị quyết kêu gọi LHQ đưa ra HĐBA các tùy chọn để giám sát một
lệnh ngừng bắn trong vòng một tháng thông qua nghị quyết. Nghị quyết cũng ủng hộ
thời gian biểu đã được thoả thuận trước đó tại Vienna (Áo) về các cuộc đàm phán giữa
Chính phủ Syria và phe đối lập về một chính phủ thống nhất và sau đó là tổ chức các

cuộc bầu cử.
Theo nghị quyết, các cuộc đàm phán nói trên sẽ bắt đầu vào đầu tháng Một tới.
Văn bản này cũng tán thành việc tiếp tục cuộc chiến chống lại Nhà nước Hồi giáo (IS)
tự xưng.
4- Tình hình Trung Đông
Một cuộc khủng hoảng an ninh toàn cầu đang hoành hành tại Trung Đông và lan
ra nhanh chóng khi hàng ngày có hàng triệu người chạy trốn khỏi Syria và Iraq.
Sự bức hại, tình trạng nghèo đói, xung đột chính trị là yếu tố khiến hơn 1 triệu
người di cư và tị nạn chạy trốn đến châu Âu. Đây là thống kê do Cao ủy Liên hợp quốc
về người tị nạn (UNHCR) và Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) cùng đưa ra ngày 22/12.
Theo dữ liệu mới của UNCHR và IOM, tính đến ngày 21/12, hơn 972.000 người
đã phải trải qua hành trình nguy hiểm vượt biển Địa Trung Hải để đến những miền đất
6


hứa, trong khi 34.000 người khác lựa chọn đường bộ từ Thổ Nhĩ Kỳ qua Bulgaria và
Hy Lạp.
Thống kê cho thấy Hy Lạp là một trong 6 nước tiếp nhận lượng người tị nạn lớn
nhất, khoảng 821.000 người, chiếm 80%. Italy cũng là đích đến của 150.000 người di
cư vượt biển. Bulgaria tiếp nhận gần 30.000 người, trong khi đó Tây Ban Nha đón tiếp
hơn 3.800 người. UNHCR cho biết cuộc nội chiến tại Syria là nguyên nhân làm bùng
phát cuộc khủng hoảng di cư tại châu Âu trầm trọng nhất kể từ những năm 90 của thế
kỷ trước khi hơn một nửa số người di cư và tị nạn đến từ Syria.
Người đứng đầu IOM William Lacy Swing (Uy-li-am La-xi Xuynh) nhận định số
người di cư và tị nạn trên chưa tính tới 4.000 người bị mất tích và chết đuối khi đang
trên hành trình vượt biển. Theo ông, tình trạng này là khó tránh khỏi, đặt ra thách thức
buộc các nước châu Âu phải hành động, đảm bảo sự an toàn cũng như thể hiện thiện
chí sẵn sàng tiếp nhận người di cư. IOM cũng cho rằng rất khó để ước đoán số người tị
nạn và di cư tới châu Âu vào năm 2016 khi mà các bên chưa tìm ra biện pháp giải
quyết cuộc nội chiến Syria, trong khi nhiều nước châu Âu vẫn siết chặt an ninh tại biên

giới.
5- Các nước châu Á chạy đua tàu ngầm do căng thẳng ở Biển Đông
Các chuyên gia phân tích của DSI xác nhận thị trường tàu ngầm châu Á đang có
giá trị trên 7 tỷ USD, nhưng đến năm 2015 sẽ tăng lên đến 11 tỷ USD. Điều đó có thể
có nghĩa là vượt qua vị trí thứ hai của châu Âu và đứng sau Mỹ.
Chuyên gia Sravan Kumar Gorantala của DSI cho biết Trung Quốc, Ấn Độ,
Australia và Hàn Quốc là những nước chính mua tàu ngầm giữa những lo ngại về đe
dọa và xung đột hàng hải có thể xảy ra ở Biển Đông, cũng như ở Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương.
Ông Gorantala nói, thực trạng Trung Quốc ngày càng hung hăng trong những vụ
tranh chấp trên Biển Đông cùng với việc nước này hiện đại hóa đội tàu ngầm đã dẫn
đến gia tăng nhu cầu về tàu ngầm của nhiều nước và vùng lãnh thổ như Ấn Độ, Nhật
Bản, Đài Loan, Australia. Nhật Bản đã có hành động mua vũ khí của nước ngoài, chủ
yếu trang bị cho các tàu ngầm lớp Soryu của họ. Thái Lan sắp mua 3 tàu ngầm chạy
bằng diesel của Trung Quốc. Philippines và Indonesia cũng đã mua các tàu ngầm Kilo
do Nga chế tạo vào lúc Trung Quốc ngày càng tỏ ra hung hăng.
Mỹ vẫn là thị trường tàu ngầm lớn nhất, với mức chi dự trù tăng thêm 102 tỷ USD
trong vòng thập niên tới.

7


Phần thứ hai:
TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC

I- KINH TẾ - XÃ HỘI
1- Kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2015
Năm 2015, kinh tế thế giới phục hồi chậm, giá dầu tiếp tục giảm và ở mức thấp,
một số nước phá giá mạnh đồng tiền... đã tác động nhiều hơn đến nền kinh tế nước ta
so với giai đoạn cuối năm 2014 đầu năm 2015. Tuy vậy, với sự điều hành sát sao của

Chính phủ và quyết tâm của các Bộ, ngành, nền kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao,
lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ
bản được bảo đảm.
Tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt trên 6,5%, cao nhất trong 5 năm qua, vượt
kế hoạch đề ra (6,2%); Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng; GDP năm
2015 đạt khoảng 204 tỷ USD, bình quân đầu người 2.228 USD (tính theo sức mua
ngang giá là trên 5.600 USD). Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh từ mức 18,13%
năm 2011 xuống còn khoảng 2% vào năm 2015, thấp nhất trong 15 năm qua. Chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) bình quân 11 tháng năm 2015 tăng 0,64% 3. Thu - chi ngân sách
nhà nước: lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/11, tổng thu NSNN ước đạt 807,04 nghìn tỷ
đồng, bằng 88,6% dự toán; tổng chi NSNN ước đạt 961,9 nghìn tỷ đồng, bằng 83,9%
dự toán.
Thu hút vốn FDI, ODA đạt nhiều kết quả tích cực: trong 11 tháng, so với cùng kỳ,
số dự án cấp mới tăng 30%; vốn FDI thực hiện ước đạt 13,2 tỷ USD, tăng 17,9%; tổng
vốn đăng ký ước đạt trên 20,22 tỷ USD, tăng 16,7%. Vốn ODA và vốn vay ưu đãi của
nhà tài trợ nước ngoài giải ngân ước đạt 4,4 tỷ USD, bằng 88,7% cùng kỳ năm trước.
Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến tiếp tục tăng trưởng cao: Chỉ
số sản xuất công nghiệp (IIP) 11 tháng ước tăng 9,7%, cao hơn cùng kỳ các năm trước
(năm 2013 tăng 5,6%; năm 2014 tăng 7,5%). Đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo
tiếp tục phục hồi mạnh mẽ: so với cùng kỳ năm trước, IIP tăng 10,1%, cao hơn mức
tăng cùng kỳ các năm trước.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, tuy gặp nhiều khó khăn do giá xuất khẩu
giảm, cạnh tranh gay gắt về thị trường, chịu ảnh hưởng của thiên tai, nhưng vẫn phát
triển khá ổn định. Tính đến 15/11, cả nước đã thu hoạch được 1.436,9 nghìn ha lúa mùa,
bằng 86,1% cùng kỳ năm trước; trong đó, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch gần
xong; năng suất ước đạt 50,2 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha so với vụ mùa năm trước.
Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển, sức mua và tổng cầu được cải thiện. Tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 11 tháng ước tăng 9,4% so với
cùng kỳ năm trước; nếu loại trừ yếu tố giá, tăng 8,3%, cao hơn mức tăng 7,8% của cùng
kỳ năm trước.

Tổng kim ngạch xuất khẩu hiện tại ước đạt 148,7 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng
kỳ năm 2014; tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 152,5 tỷ USD, tăng 13,7% so với
3

Báo cáo số 10505/BC-BKHĐT ngày 27/11/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

8


cùng kỳ năm 2014; nhập siêu khoảng 3,78 tỷ USD, gần bằng 2,5% tổng kim ngạch
xuất khẩu.
Lĩnh vực an sinh xã hội tiếp tục được các cấp, các ngành chú trọng triển khai và
đạt nhiều kết quả tích cực, như: thực hiện các chính sách đối với gia đình chính sách,
người có công; hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống đối với người nghèo, người dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, đối tượng bảo trợ xã hội; hỗ trợ đào tạo nghề, tư vấn
giới thiệu việc làm; rà soát, sửa đổi chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tăng
lương tối thiểu đối với khu vực sản xuất, kinh doanh và tăng lương đối với người về
hưu, các đối tượng chính sách và công chức có mức lương thấp... Tính đến tháng 11
năm 2015, ước tạo việc làm khoảng 1,5 triệu người, đạt gần 93,8% kế hoạch, tăng
2,8% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình tai nạn giao thông đã giảm cả 3 tiêu chí: số
vụ tai nạn giảm 11,30%, số người chết giảm 3,64%, số người bị thương giảm 15,83%
so với cùng kỳ năm trước. Cả nước xảy ra 2.694 vụ cháy, nổ làm 86 người chết, 283
người bị thương, thiệt hại ước tính 876 tỷ đồng.
Các hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền được triển khai tích
cực và đạt kết quả tốt. Công tác quy hoạch, bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa tiếp tục
được quan tâm thực hiện. Hoạt động thể thao thành tích cao đạt kết quả tốt tại các giải
thi đấu khu vực và quốc tế.
Tổng cầu và sức mua tăng cao so với cùng kỳ; khách quốc tế đến nước ta tiếp tục
tăng so với cùng kỳ năm trước. Vốn FDI đăng ký và thực hiện đều tăng cao so với
cùng kỳ. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện rõ rệt. Hoạt động phát triển

doanh nghiệp chuyển biến tích cực. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều
kết quả; an sinh xã hội và phúc lợi xã hội tiếp tục được bảo đảm; an ninh chính trị, trật
tự xã hội được giữ vững; công tác bảo đảm an toàn giao thông được tăng cường.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Giá dầu thô và giá
xuất khẩu các mặt hàng nông sản xuống thấp, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp,
xuất khẩu và giảm nguồn thu NSNN; hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn khó khăn; tình hình
cháy, nổ, chặt phá rừng vẫn còn diễn biến phức tạp; đời sống của một bộ phận người
dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai,... còn nhiều khó khăn.
2- Các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2016
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã chính thức thông qua Nghị quyết về kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2016 bao gồm nhiều chỉ tiêu quan trọng về phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mục tiêu tổng quát được đặt ra trong năm 2016 vẫn
là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2015,
chú trọng cải thiện chất lượng tăng trưởng, bảo đảm phát triển bền vững.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2016 đạt 6,7%; GDP bình quân đầu người
khoảng 2.450 USD. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2016 tăng dưới 5%. Tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm và năm
2016 bằng khoảng 31% GDP. Bội chi NSNN năm 2016 là 4,95% GDP.Tổng kim
ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu dưới
5%.
9


Về xã hội, tỉ lệ lao động qua đào tạo năm 2016 đạt 53%, trong đó tỷ lệ lao động
qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có văn bằng chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo đạt
21%. Tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%. Trong lĩnh vực y tế, mục tiêu năm
2016 đạt 24,5 giường/10.000 dân. Tỉ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế năm 2016 đạt
76%. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng năm 2016 còn dưới 13,8%. Tỉ lệ hộ
nghèo năm 2016 giảm khoảng 1,3-1,5%; riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%.

Diện tích nhà ở bình quân đầu người năm 2016 đạt 22,6 m 2; Tỷ lệ khu công nghiệp,
khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường đạt 85% và tỷ lệ che phủ rừng đạt 41%...
II. CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
1. Ngoại giao chính trị
1.1. Ngoại giao song phương
Tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh, phức tạp, tác động sâu sắc
đến môi trường an ninh, phát triển của đất nước.
Năm 2015 chứng kiến những diễn biến nhanh và phức tạp của thế giới và các khu
vực. Kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi trong tâm thế “lạc quan thận trọng”, chưa có
những đột phá lớn. Các nền kinh tế chủ chốt như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU đều đạt mức
tăng trưởng khá hơn năm 2014 4, song các tồn tại cơ bản vẫn chưa được khắc phục,
đáng chú ý là nợ công ở châu Âu tiếp tục trầm trọng với vấn đề Hy Lạp. Các nền kinh
tế mới nổi gặp nhiều khó khăn và đứng trước nguy cơ dòng vốn đảo chiều do niềm tin
đầu tư giảm sút5.
Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị và các điểm nóng chưa hạ nhiệt ở các khu
vực châu Âu, châu Á, Trung Đông châu Phi, các vấn đề an ninh phi truyền thống như
chủ nghĩa khủng bố, sự lan truyền dịch suy hô hấp cấp vùng Trung Đông, vấn đề người
di cư... nổi lên gay gắt, tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh đó, điểm sáng nổi bật là các nước đều nỗ lực đẩy mạnh liên kết
kinh tế, thương mại, đầu tư với rất nhiều thỏa thuận, sáng kiến đang định hình như
TPP, RCEP, TTIP, FTA Trung - Nhật - Hàn, Liên minh kinh tế Á - Âu, Ngân hàng đầu
tư phát triển hạ tầng châu Á (AIIB)…, thể hiện xu thế tất yếu của liên kết, thuận lợi
hóa, tự do hóa kinh tế, thương mại, đồng thời cho thấy tính phức tạp trong tập hợp lực
lượng và cạnh tranh chiến lược - kinh tế giữa các nước lớn.
Quan hệ giữa các nước lớn vẫn trong khuôn khổ vừa hợp tác vừa đấu tranh,
nhưng có chiều hướng ngày càng phức tạp hơn trong diễn biến của các cặp quan hệ
Hoa Kỳ - Trung Quốc, Hoa Kỳ - Nga, Trung Quốc - Nhật Bản, Nga - EU... Sự tùy
thuộc lẫn nhau sâu rộng về kinh tế, tài chính, nhu cầu hợp tác xử lý các vấn đề toàn
cầu và kiểm soát các điểm nóng khu vực (U-crai-na, Trung Đông, I-ran, Biển Đông,

4

EU đã thoát khỏi trình trạng giảm phát nhờ hiệu ứng kích thích tiền tệ; Nhật Bản tăng trưởng 1% trong quý I/2015,
Trung Quốc tăng trưởng chậm lại nhưng đạt mức 7%, Ấn Độ tăng trưởng cao nhất trong G20 đạt 7,4%.
5
Theo Viện nghiên cứu tài chính quốc tế, dòng vốn chảy vào các nền kinh tế đang nổi quý I/2015 ở mức thấp nhất trong
6 năm qua, chỉ đạt 981 tỷ USD so với mức 1.048 tỷ USD của năm 2014.

10


biển Hoa Đông…) khiến các nước lớn luôn tìm cách đối thoại, giảm căng thẳng và
tránh xung đột trực diện.
Mặt khác, những mâu thuẫn gia tăng về lợi ích chiến lược không thể né tránh đã
làm cho cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, mang lại nhiều hệ lụy đối với
môi trường hòa bình, an ninh chung. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là
điểm sáng phát triển kinh tế năng động nhất của thế giới, nhưng đồng thời cũng là
trọng điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn.
Bên cạnh các nỗ lực hợp tác, tình trạng thiếu hụt lòng tin chiến lược ngày càng
trầm trọng hơn, cả giữa các nước lớn với nhau, giữa nước lớn với nước nhỏ, trước sự
gia tăng của những hành động đơn phương xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của quốc gia khác, thay đổi nguyên trạng, vi phạm luật pháp quốc tế và các chuẩn mực
ứng xử khu vực.
Những diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, nhất là những chuyển động
phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn, đã tác động sâu sắc đến môi trường an ninh
và phát triển của nước ta. Thách thức về chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông không
ngừng gia tăng; các hoạt động chống phá, can thiệp dưới các chiêu bài dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo, dân tộc vẫn tiếp diễn với nhiều hình thức mới, tinh vi, phức tạp hơn.
Trong lĩnh vực kinh tế, bên cạnh cơ hội mở ra của tiến trình hội nhập, mở rộng thị
trường, tiếp cận các nguồn vốn, công nghệ…, chúng ta phải đối mặt với cạnh tranh

quyết liệt và sự “co kéo” từ các tập hợp lực lượng ẩn chứa trong các liên kết kinh tế.
Triển khai đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm công tác đối ngoại,
nắm bắt cơ hội, hóa giải thách thức.
Năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng đối với đất nước. Chúng ta ra sức phấn đấu,
tích cực thi đua chào mừng những ngày lễ lớn của dân tộc: 85 năm thành lập Đảng, 70
năm Quốc khánh, 40 năm giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước. Cả
nước đang trong giai đoạn nước rút hoàn thành Kế hoạch phát triển 5 năm 2011-2015,
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, hướng tới Đại hội Đảng lần
thứ XII. Việt Nam cũng là một bộ phận quan trọng của Cộng đồng ASEAN sắp được
hình thành vào cuối năm 2015, đồng thời là thành viên đóng góp tích cực, có trách
nhiệm cho cộng đồng quốc tế đang bước vào thời kỳ “Phát triển bền vững sau 2015”.
Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ của đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ phát triển, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, nâng cao vai trò, vị thế Việt
Nam ở khu vực và thế giới. Trong năm 2015, phát huy những thành tựu của năm 2014,
chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng, phục vụ hiệu quả các mục tiêu an
ninh, phát triển và nâng cao vị thế đất nước.

11


Quan hệ với các đối tác6 quan trọng tiếp tục đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu
quả, tăng cường đan xen lợi ích, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi
cho phát triển.
Với các nước láng giềng, chúng ta không ngừng nỗ lực củng cố, tăng cường quan
hệ đặc biệt với Lào và truyền thống hữu nghị với Cam-pu-chia trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, thương mại, văn hoá, giáo dục, quốc phòng, an ninh, với các chuyến
thăm lẫn nhau của Lãnh đạo cấp cao, các cơ chế đối thoại, hợp tác ở các cấp, các hoạt
động giao lưu nhân dân. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa ta với Lào và Cam-pu-chia
phát triển thuận lợi; Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước có quan hệ thương mại - đầu tư

lớn nhất của Lào và nhóm nước đối tác thương mại hàng đầu của Cam-pu-chia (thứ 2
về thương mại, thứ 5 về đầu tư).
Với Trung Quốc, chúng ta luôn coi trọng phát triển quan hệ Đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện; chủ động nỗ lực cải thiện quan hệ theo hướng phát triển lành mạnh trên
cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích của nhau, hợp tác cùng có lợi.
Trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai
bên đã đạt được nhận thức chung quan trọng về phương hướng, biện pháp lớn để phục
hồi và thúc đẩy phát triển quan hệ hai nước trong thời gian tới. Các hoạt động kỷ niệm
65 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, giao lưu hai Đảng, giao lưu nhân dân, giữa
các Bộ, ngành, địa phương hai nước diễn ra sôi động. Tuy nhiên, vấn đề Biển Đông
vẫn là trở ngại lớn nhất và tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn, đặc biệt khi Trung Quốc
đẩy mạnh hiện thực hóa yêu sách với cái gọi là “đường lưỡi bò”, ráo riết tiến hành các
hoạt động tôn tạo, mở rộng các đảo, bãi, đá thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Trường
Sa.
Với các nước ASEAN, ta phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện mục tiêu Cộng
đồng và xây dựng Tầm nhìn ASEAN sau năm 2015; cụ thể hóa và triển khai các nội
hàm Đối tác chiến lược với In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan; chuẩn bị thiết lập quan
hệ Đối tác chiến lược với Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a; đưa quan hệ với Mi-an-ma đi vào
chiều sâu với nhiều biện pháp hợp tác cụ thể, thiết thực.
Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga ngày càng đi vào thực chất
với độ tin cậy chính trị cao. Nga đánh giá cao kết quả và tầm quan trọng chuyến thăm
của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và dự Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Chiến
tranh vệ quốc vĩ đại, coi đây là sự ủng hộ to lớn của Việt Nam khi bạn bị cô lập, và
phải đối phó với mưu toan xét lại lịch sử để hạ thấp vai trò, uy tín của Nga trong Chiến
tranh thế giới thứ hai chống chủ nghĩa phát-xít. Các thỏa thuận hợp tác giữa hai bên
trong chuyến thăm Nga của Chủ tịch nước ta và chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng
6

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 quốc gia, gồm: Nga (2001), Ấn Độ (2007), Trung
Quốc (2008), Nhật Bản, Hàn Quốc và Tây Ban Nha (2009), Anh (2010), Đức và Italy (2011), Thái Lan, Indonesia,

Singapore và Pháp (2013), Malaysia và Philippines (2015).
Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược theo ngành với Hà Lan (2010), Đan Mạch (2011); thiết lập
quan hệ đối tác toàn diện với: Nam Phi (2004), Chile, Brazil và Venezuela (2007), Australia và New Zealand (2009),
Argentina (2010), Ukraine (2011), Hoa Kỳ và Đan Mạch (2013).

12


Nga Mét-vê-đép về các vấn đề kinh tế, phát triển, an ninh, quốc phòng, thương mại,
đầu tư, dầu khí, năng lượng… tiếp tục đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới.
Quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục phát triển
mạnh mẽ. Nhật Bản là đối tác kinh tế - phát triển hàng đầu của Việt Nam, thể hiện ở
dòng vốn FDI và cam kết ODA (Nhật vừa cam kết gần 1 tỷ USD cho 7 dự án trọng
điểm của Việt Nam). Hai nước tăng cường hợp tác toàn diện, trong đó có an ninh quốc
phòng, nâng cao năng lực chấp pháp biển và phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, chuyến
đi thăm Nhật của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao nước ta vàp
tháng 9/2015 là một tin vui lớn. Quan hệ Việt - Nhật là quan hệ chiến lược, lâu dài, có
ý nghĩa quan trọng đối với nước ta. Sự cam kết nối kết hai nền kinh tế, sự tin cậy và
phối hợp chính trị, các quan hệ an ninh - quốc phòng…, nhất là sự quan tâm tình hình
biển Hoa Đông, biển Đông… làm cho hai nước xích lại gần nhau hơn. Quan hệ đối tác
chiến lược tốt nhất với Nhật Bản sẽ đem lại rất nhiều lợi ích trước mắt cũng như lâu
dài. Nó sẽ có tác động thúc đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
ta. Hiện Nhật cung cấp 30 tỉ trong 90 tỉ USD vốn vay ODA cho Việt Nam.
Với Liên minh châu Âu (EU), trọng tâm là hoàn thiện các khuôn khổ hợp tác:
hai bên đang hoàn tất phê chuẩn Hiệp định PCA và chuẩn bị ký FTA; thúc đẩy hợp tác
toàn diện về kinh tế, phát triển, tăng cường phối hợp trong các vấn đề khu vực.
Quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ có nhiều phát triển tích cực. Hai
bên đã tích cực phối hợp chuẩn bị cho chuyến thăm lần đầu tiên của Tổng Bí thư Đảng
ta tới Hoa Kỳ, coi đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm bình thường hóa và
thiết lập quan hệ ngoại giao. Ta và Hoa Kỳ đã tổ chức nhiều hoạt động giao lưu, trao

đổi đoàn trên các kênh Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, góp phần xây dựng
lòng tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại hai chiều 4 tháng đầu năm đạt 13,3 tỷ đô la
(tăng 23% so với cùng kỳ năm 2014). Hợp tác an ninh quốc phòng đạt tiến triển mới,
với việc hai bên ký kết “Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ”.
Bên cạnh đó, ta tiếp tục chủ động đối thoại thẳng thắn với Hoa Kỳ về các vấn đề hai
bên còn có quan điểm khác biệt, đấu tranh với các hành động can thiệp vào công việc
nội bộ của ta.
Quan hệ với các nước bạn bè truyền thống và các đối tác quan trọng khác được
triển khai đồng bộ, toàn diện. Những kết quả quan trọng đạt được trong chuyến thăm
của Chủ tịch nước đến Cộng hòa Séc, A-déc-bai-dan, của Thủ tướng Chính phủ đến
Ô-xtrây-li-a, Niu-Di-Lân, Ca-dắc-xtan, An-giê-ri, Bun-ga-ri, Bồ Đào Nha, của Phó
Chủ tịch nước đến Bra-xin, Bô-li-vi-a... đã tăng cường thực chất các mối quan hệ hợp
tác dựa trên nền tảng hữu nghị truyền thống.
Trước thách thức về an ninh, chủ quyền lãnh thổ gia tăng, đối ngoại đã chủ
động, tích cực đấu tranh góp phần bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và các lợi ích chiến lược của đất nước.
Trước tình hình Biển Đông diễn biến rất phức tạp, chúng ta đã sử dụng triệt để
các biện pháp chính trị - ngoại giao, các kênh đối thoại và tiếp xúc, triển khai trên mọi
13


cấp độ song phương và đa phương, khu vực và quốc tế để khẳng định lập trường chủ
quyền của ta, phản đối, bác bỏ các yêu sách và hành động vi phạm luật pháp quốc tế,
tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế trong việc giữ gìn hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn
hàng hải trên Biển Đông. Với Trung Quốc, bằng nhiều hình thức khác nhau (công hàm,
tiếp xúc các cấp, đặc biệt là cấp cao), ta đều thẳng thắn nêu quan ngại và phản đối
mạnh mẽ yêu sách chủ quyền phi lý và các hành động đơn phương trên thực địa nhằm
phá bỏ nguyên trạng Biển Đông; khẳng định lập trường nhất quán của ta và yêu cầu
phía Trung Quốc chấm dứt các hành động có thể làm ảnh hưởng quan hệ hai nước và

mất ổn định khu vực. Đồng thời, ta kiên trì thúc đẩy đối thoại, đàm phán với Trung
Quốc. Tại các diễn đàn đa phương quan trọng như ASEAN, Hội nghị cấp cao Á - Phi,
Đối thoại Shangri-la…, ta đã vận động, phối hợp cùng các nước lên tiếng bày tỏ quan
ngại về các hành động đe dọa hòa bình, ổn định trên Biển Đông. Tuyên bố Chủ tịch tại
Hội nghị cấp cao ASEAN 26 đã nêu rõ quan ngại của Lãnh đạo các nước ASEAN về
hành động lấn biển, tôn tạo đảo, thúc đẩy sớm hình thành Bộ quy tắc ứng xử của các
bên trên Biển Đông (COC). Nhóm các nước G7 đã ra Tuyên bố cả ở cấp cao và cấp
Ngoại trưởng, bày tỏ sự lo ngại về các hành động thay đổi nguyên trạng, đe dọa hòa
bình, ổn định, an toàn, an ninh hàng hải ở Biển Đông.
Công tác đấu tranh trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo tiếp tục khó khăn
và phức tạp, các hành động chống phá an ninh quốc gia ngày càng tinh vi và nguy
hiểm; nhưng chúng ta đã vận dụng linh hoạt giữa đấu tranh và đối thoại; kết hợp đồng
bộ các biện pháp chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, văn hóa, tư tưởng, tuyên
truyền, giáo dục... bảo vệ các lợi ích của ta, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, và
không để ảnh hưởng đến quan hệ của ta với các đối tác quan trọng.
1.2. Ngoại giao đa phương:
Đối ngoại đa phương là bộ phận quan trọng của chính sách đối ngoại và hội
nhập quốc tế.
Với vai trò chủ nhà, Việt Nam đã tổ chức thành công kỳ họp lần thứ 132 Đại hội
đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU-132) (7), được quốc tế đánh giá cao. Tuyên bố
7

Diễn ra từ 28/3 - 01/4/2015 tại Hà Nội, Đại hội đồng IPU lần thứ 132 là một trong những sự kiện chính trị - ngoại
giao lớn nhất mà Việt Nam từng đăng cai, thể hiện tinh thần chủ động của một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế. Hơn 1.600 đại biểu đến từ hơn 160 nghị viện thành viên IPU, các thành viên liên kết, các quan sát
viên và nhiều tổ chức quốc tế đã có mặt tại Hà Nội, cùng nhau thảo luận nhiều vấn đề quan trọng của nghị viện, đặc biệt
là chủ đề chung “Các mục tiêu phát triển bền vững: Biến lời nói thành hành động”. Đây là chủ đề hết sức thiết thực do
Việt Nam đề xuất và nhận được sự nhất trí cao của tất cả lãnh đạo nghị viện, nghị sĩ, khách mời của IPU-132.
Đại hội đồng IPU-132 đã thảo luận và thông qua 4 Nghị quyết quan trọng gồm: (i) Chiến tranh mạng - mối đe dọa
nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh quốc tế; (ii) Định hình cơ chế mới về quản trị nguồn nước: Thúc đẩy hành động

của Nghị viện về vấn đề nước; (iii) Luật pháp quốc tế trong vấn đề chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau và quyền con người; (iv) Nghị quyết về chủ đề khẩn cấp “Hợp tác nghị viện chống lại Nhà nước Hồi giáo
IS và nhóm khủng bố Boko Haram chống lại dân thường, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em”.
Cuối cùng, kết quả của Đại hội đồng IPU 132 lần này đã được thể hiện trong Tuyên bố Hà Nội - văn bản quan trọng
mang tính tổng kết kết quả thảo luận của IPU-132; phản ánh tầm nhìn, cam kết và hành động của các Nghị viện thành
viên, vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích của người dân, quốc gia cũng như thúc đẩy hợp tác toàn cầu.
Chủ tịch IPU Saber Chowdhury đánh giá: “Tuyên bố Hà Nội do Quốc hội Việt Nam đề xuất và được thông qua tại
Việt Nam sẽ là một di sản lớn, thể hiện sự đóng góp nổi bật của Việt Nam đối với cộng đồng thế giới”.
“Việt Nam đã đặt ra tiêu chuẩn mới về công tác tổ chức cho những lần tiếp theo”, ông Saber Chowdhury khẳng định.

14


Hà Nội và các kết quả của Hội nghị là cơ sở quan trọng định hình cho hoạt động của
IPU, đồng thời đóng góp thiết thực cho Liên hợp quốc trong việc xây dựng và triển
khai Chương trình nghị sự phát triển bền vững sau năm 2015.
Trong khuôn khổ ASEAN(8), ta đã tích cực phối hợp xác định trọng tâm ưu tiên
của ASEAN trong năm 2015, nâng cao hiệu quả các cơ chế của ASEAN, làm sâu sắc
hơn quan hệ của ASEAN với các đối tác, củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong
cấu trúc khu vực.
Công tác chuẩn bị cho năm APEC Việt Nam 2017 đang được chuẩn bị tích cực,
theo đúng lộ trình đề ra và bảo đảm có sự phối hợp liên ngành chặt chẽ.
Tại các diễn đàn quan trọng như Hội nghị Cấp cao Á - Phi, ASEAN, Hội đồng
nhân quyền Liên hợp quốc, UNESCO, Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu, Hội
nghị Tương lai châu Á lần thứ 21, Hội nghị thượng đỉnh khí hậu thế giới COP 21 9…,
chúng ta đã chủ động phát huy tư thế thành viên có trách nhiệm, tích cực đóng góp cho
các vấn đề thuộc quan tâm chung, đồng thời thúc đẩy các vấn đề trực tiếp liên quan
đến an ninh, phát triển của ta.
Ta đã đón Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc thăm Việt Nam lần thứ hai, tham vấn về
các vấn đề quan trọng như Biển Đông, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp

quốc, việc Liên hợp quốc hỗ trợ Việt Nam thực hiện chương trình phát triển bền vững
sau năm 2015...
Ta đón Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ
tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình thăm cấp Nhà nước Việt Nam
ngày 05 và 06/11/2015. Đây là chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Tập Cận Bình trên cương vị là lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước
8

Trong hai ngày 21 - 22/11/2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 và các hội nghị cấp cao liên quan tại Thủ đô Kuala Lumpur, Malaysia. Sáng
22/11/2015, tại thủ đô Kuala Lumpur, Malaysia, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng lãnh đạo các nước thành viên Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á đã ký Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập Cộng đồng ASEAN 2015 và Tuyên bố
Kuala Lumpur về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025. Trong Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập Cộng đồng
ASEAN, các nhà lãnh đạo ASEAN tuyên bố chính thức thành lập Cộng đồng ASEAN vào ngày 31/12/2015. Tuyên bố
khẳng định cam kết của các nước thành viên đối với Hiến chương ASEAN, phản ánh mong muốn và ý chí tập thể nhằm
chung sống trong một khu vực hòa bình, an ninh và ổn định dài lâu, tăng trưởng kinh tế bền vững, thịnh vượng chung và
tiến bộ xã hội.
9

Sau 12 ngày đàm phán căng thẳng với nhiều cuộc thương lượng kéo dài suốt đêm, thỏa thuận Hội nghị thượng đỉnh
khí hậu thế giới COP 21 (Thỏa thuận Paris), thông qua ngày 12/12, đã đi vào lịch sử với sự đồng thuận của 195 nước
thành viên Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu.
Dẫn đầu Đoàn cấp cao Việt Nam dự Hội nghị, trong phát biểu của mình tại phiên khai mạc COP 21, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đề nghị: Nội dung Thỏa thuận cần bảo đảm sự đóng góp công bằng giữa các quốc gia và có sự cân
bằng trong các nội dung về giảm nhẹ, thích ứng, tài chính, phát triển và chuyển giao công nghệ... Các nước phát triển cần
đi đầu trong thực hiện cam kết của mình, đồng thời hỗ trợ và tăng cường năng lực cho các nước đang phát triển để cùng
nhau thực hiện thành công Thỏa thuận này.
Phát biểu của Thủ tướng cũng đã thể hiện trách nhiệm rất rõ ràng của Việt Nam đối với cộng đồng thế giới. Cụ
thể đối với giai đoạn sau năm 2020, mặc dù là một nước đang phát triển còn nhiều khó khăn, chịu tác động nặng nề của
biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn cam kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm đến 25% nếu

nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng đóng góp 1 triệu USD vào Quỹ Khí hậu xanh giai đoạn
2016 - 2020, trong điều kiện khó khăn về nguồn lực. Qua đó thể hiện sự nghiêm túc, trách nhiệm của Việt Nam khi thực
hiện các nghĩa vụ trong Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) và Nghị định thư Kyoto.

15


Trung Quốc. Chuyến thăm nhằm vào việc củng cố tình hữu nghị truyền thống, làm sâu
sắc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung, thúc đẩy hòa bình, ổn
định và phát triển của khu vực và thế giới.
2. Ngoại giao kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ đắc lực cho các mục
tiêu phát triển của đất nước.
Với sự ra mắt của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính
phủ đứng đầu, tiến trình hội nhập được triển khai bài bản, có sự lãnh đạo xuyên suốt,
thống nhất, có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các ngành, các lĩnh vực, trong đó
hội nhập kinh tế tiếp tục là trọng tâm ưu tiên. Việc Việt Nam hoàn tất ký kết, phê
chuẩn một loạt các FTA lớn như TPP, RCEP, các FTA với Liên minh kinh tế Á - Âu,
EU, Hàn Quốc, EFTA… không chỉ mở ra các cơ hội mới về mở cửa thị trường, nguồn
vốn… mà còn mang ý nghĩa chiến lược xác lập vị trí của nền kinh tế Việt Nam trong
chuỗi giá trị toàn cầu. Công tác vận động chính trị, ngoại giao tập trung tháo gỡ các
vướng mắc phức tạp, nhạy cảm liên quan đến lao động, dân chủ, nhân quyền, vận động
các đối tác lớn công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam vào thời điểm ký
kết các FTA.
Các hoạt động Ngoại giao kinh tế được lồng ghép hài hòa trong các hoạt động đối
ngoại cấp cao, chuyển tải những thông điệp chính sách lớn của ta về kinh tế đến cộng
đồng doanh nghiệp quốc tế. Chủ tịch nước ta và Tổng thống Séc đã đồng chủ trì Diễn
đàn kinh tế - du lịch với sự tham gia của 500 doanh nghiệp Việt Nam và các nước ở
khu vực Đông Âu. Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Đa-vốt 2015, ta đã chủ động tăng
cường tiếp xúc, đối thoại với trên 30 tập đoàn, công ty đa quốc gia, giới thiệu về môi
trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, và các chính sách của Chính phủ ta khuyến

khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh lâu dài ở Việt Nam.
Tại Diễn đàn Kinh tế Biển (Lít-xbon, Bồ Đào Nha), Thủ tướng Chính phủ đã chuyển
thông điệp của ta về chính sách phát triển kinh tế biển, cũng như yêu cầu bảo đảm môi
trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế biển, nhất là ở Biển Đông.
Ngoại giao kinh tế cũng mang lại những kết quả rất cụ thể, thiết thực, đóng góp
vào nỗ lực chung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại. Với sự vận
động ngoại giao tích cực của ta, Hàn Quốc và Đài Loan đã nối lại tiếp nhận lao động
Việt Nam sang làm việc sau một thời gian gián đoạn; Nhật Bản đồng ý tiếp nhận 151
ứng viên y tá và điều dưỡng viên. Ta đã thành công quan trọng bước đầu đưa hàng
nông sản, hoa quả Việt Nam vào những thị trường yêu cầu gắt gao về chất lượng (Nhật
Bản, EU, Hoa Kỳ, Canada, Ô-xtrây-li-a…). Bộ Ngoại giao đã triển khai nhiều hoạt
động tăng cường kết nối địa phương với ngoại giao đoàn, hỗ trợ các địa phương, doanh
nghiệp nhận diện rõ hơn các cơ hội, thách thức từ Cộng đồng Kinh tế ASEAN và các
hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam sắp tham gia.
Như vậy, công tác đối ngoại trong năm 2015 đã đạt những kết quả quan trọng.
Đạt những kết quả đó là nhờ có sự chỉ đạo sát sao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính
phủ và các đồng chí Lãnh đạo cấp cao, có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các
kênh Đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa đối ngoại 16


quốc phòng - an ninh - kinh tế, tạo ra hiệu ứng tổng lực của tất cả các binh chủng làm
công tác đối ngoại.
III. VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI LÃNH THỔ
1- Tình hình Biển Đông
Thời gian qua, tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp. Hầu hết các quốc
gia có lợi ích liên quan mong muốn một Biển Đông hoà bình, ổn định, đảm bảo quyền
tự do, an toàn hàng hải, hàng không qua Biển Đông; thúc đẩy hợp tác biển. Tuy nhiên
vẫn có những quốc gia bất chấp luật pháp quốc tế ngang nhiên đẩy mạnh các hoạt
động cải tạo đảo trái phép với quy mô lớn, xây dựng nhiều công trình, cơ sở hạ tầng
cũng như tăng cường các hoạt động quân sự. Những diễn biến mới và phức tạp ấy gây

lo ngại cho cộng đồng quốc tế, tạo ra cuộc chạy đua vũ trang tại Biển Đông và đe dọa
đến hoà bình, an ninh của khu vực.
Từ khoảng cuối năm 2013, đặc biệt sang năm 2015, Trung Quốc cấp tập tăng
cường xây dựng, tôn tạo và bồi đắp các cấu trúc địa lý mà nước này đang chiếm đóng
trái phép tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo, vi phạm các cam kết khu vực cũng như luật pháp
quốc tế, gây mất ổn định và đe dọa an ninh, an toàn hàng hải và hàng không trong khu
vực Biển Đông. Các hành động này đã gặp phải sự chỉ trích và phản đối gay gắt từ
phía Việt Nam cũng như các nước có quyền và lợi ích ở Biển Đông.
Những hành động ngang ngược
Nhằm thực thi yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý ở Biển Đông. Trung Quốc tiến
hành ồ ạt các hoạt động cải tạo trên diện rộng các cấu trúc địa lý tại quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam mà nước này hiện đang chiếm đóng
trái phép. Từ đầu năm 2014 đến nay, Trung Quốc huy động một lượng lớn máy móc,
trang thiết bị để đồng loạt đẩy mạnh xây dựng. Theo ảnh chụp vệ tinh mới nhất tháng
5-2015, Trung Quốc đã xây dựng các cấu trúc địa lý rộng hơn gấp 20 lần diện tích ban
đầu chỉ trong vòng 3 năm10. Việc Trung Quốc sử dụng một lực lượng khổng lồ để tiến
hành cải tạo đất làm khuấy động cả một vùng Biển Đông đã gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường sinh thái, cũng như hòa bình, an toàn và ổn định ở khu vực. Bên
cạnh đó, Trung Quốc còn đẩy mạnh một số hoạt động quân sự trên Biển Đông nhằm
phô trương sức mạnh11. Những bức ảnh công bố trên các tài khoản mạng xã hội của
truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng cho thấy trong những ngày đầu tháng 12, các
tàu chiến của hải quân Trung Quốc đã tham gia các đợt tập trận bắn đạn thật trên Biển
Đông.

10

Theo Báo cáo thường niên của Bộ Quốc phòng Mỹ hôm 8/5/2015 thì Trung Quốc “đã mở rộng diện tích các đảo họ
đang chiếm trong Biển Đông lên khoảng 400 lần”, tương đương với 800 ha kể từ tháng 1-2014, trong đó có đến ¾ diện
tích này thực hiện từ đầu năm 2015 đến nay.

11
Ngày 13/12, Bộ Quốc phòng Trung Quốc thông báo rằng hải quân nước này đang tiến hành các cuộc tập trận ở Biển
Đông.“Hải quân Trung Quốc trong mấy ngày nay đã đưa 1 hạm đội ra những vùng biển ở Biển Đông để tập trận”, Bộ
Quốc phòng Trung Quốc viết trong một thông cáo ngắn.

17


Cũng liên quan đến những diễn biến trên Biển Đông, ngày 11/12, chính quyền
Đài Loan (Trung Quốc) ra thông báo một ngọn hải đăng và cầu cảng mới xây, cùng
đường băng được mở rộng trái phép trên một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa của
Việt Nam ở Biển Đông sắp đi vào hoạt động.
Tất cả các hoạt động trên của phía Đài Loan là xâm phạm nghiêm trọng tới chủ
quyền lãnh thổ không thể tranh cãi của Việt Nam.
Ngày 13/12, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình tuyên bố: "Việt Nam có
đầy đủ căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi
của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của các bên tại
khu vực này mà không được sự chấp thuận của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô
giá trị.Việc Đài Loan bất chấp quan ngại của Việt Nam, của các nước cũng như cộng
đồng quốc tế, cử quan chức đến đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam
và tiếp tục tuyên bố đưa vào hoạt động một số công trình trên đảo là hành động vi
phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, gây căng thẳng và làm phức tạp tình
hình tranh chấp ở Biển Đông. Việt Nam kiên quyết phản đối và mạnh mẽ bác bỏ hành
động này.Việt Nam yêu cầu Đài Loan chấm dứt ngay những hành động vi phạm chủ
quyền của Việt Nam, không tái diễn các hành động tương tự”.
Đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
Trước việc Trung Quốc cải tạo trên diện rộng tại các cấu trúc địa lý nước này
chiếm đóng trái phép ở Biển Đông, Việt Nam đã liên tục và kịp thời có các biện pháp
đấu tranh thích hợp để bảo vệ chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.

Trên mặt trận chính trị, ngoại giao, Việt Nam đã tiến hành các biện pháp đấu
tranh kiên quyết ở nhiều cấp, kể cả ở cấp cao nhất, thông qua nhiều hình thức cả song
phương và đa phương. Về các biện pháp đấu tranh song phương, chúng ta đã tiến hành
giao thiệp với Trung Quốc và đồng thời chủ động nêu vấn đề trong các diễn đàn song
phương với các nước. Với Trung Quốc, trong các cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc,
tất cả các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đều khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bày tỏ quan ngại đối với hoạt động xây
dựng, lấn biển của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế và
DOC, căn cứ Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên
biển giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011 để giải quyết những bất đồng giữa hai
bên, có biện pháp thích hợp để duy trì hòa bình, ổn định trên biển và kiềm chế, không
có hành vi làm phức tạp tình hình. Đến ngày 2-7-2015, ta đã giao thiệp 14 lần với
Trung Quốc, trao 9 công hàm phản đối việc làm của Trung Quốc tại Biển Đông.
Trong các cuộc gặp, tiếp xúc song phương với lãnh đạo các nước lớn, các nước
trong khu vực, ta cũng bày tỏ quan ngại và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế đối
với lập trường của Việt Nam. Với những nỗ lực này, lãnh đạo chính giới và quốc hội
nhiều nước đã chia sẻ quan ngại của ta, ủng hộ chủ trương của ta trong vấn đề Biển
Đông, kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, không mở rộng hoặc gia tăng căng thẳng.
18


Việt Nam cũng đấu tranh thông qua nhiều hình thức như phát biểu của Người
phát ngôn, gửi Công hàm lên Liên hợp quốc và nêu vấn đề tại các diễn đàn... Từ tháng
6-2014đến nay, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã cóhơn 10 lần phát biểu
công khai lên án phản đối các hoạt động lấn biển, cải tạo của Trung Quốc. Ở cấp độ
khu vực, chúng ta cũng phát biểu công khai tại các diễn đàn của ASEAN12.
Đồng hành với các biện pháp đấu tranh về chính trị và ngoại giao, Đảng và Nhà
nước ta cũng rất chú trọng đến việc sử dụng các biện pháp đấu tranh trên thực địa. Một
mặt, chúng ta tăng cường năng lực của các lực lượng chấp pháp trên biển; mặt khác,
hỗ trợ ngư dân và bà con ta bám biển, đảo để duy trì hoạt động thực thi chủ quyền của

ta tại Biển Đông. Các hoạt động duy trì, sửa chữa và cải tạo các công trình cũ của ta tại
Trường Sa được tiến hành chủ yếu nhằm mục đích dân sự để cải thiện đời sống, cơ sở
vật chất cho cán bộ, chiến sỹ và người dân trên đảo và củng cố khả năng phòng thủ
đồng thời được tiến hành ở các đảo nổi nên không gây ảnh hưởng môi trường, không
làm thay đổi nguyên trạng. Cần nhấn mạnh các hoạt động của Việt Nam hoàn toàn là
việc làm bình thường, hợp pháp, không vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế và
DOC, hoàn toàn khác với các hoạt động xây dựng, lấn biển quy mô lớn của Trung
Quốc về tính chất, quy mô và mục đích. Việc chúng ta duy trì và củng cố các hoạt
động tại các cấu trúc địa lý tại Trường Sa hoàn toàn là hoạt động thực thi, củng cố chủ
quyền của chúng ta đối với quần đảo này, giống như các hoạt động mà các chúa
Nguyễn trước đây từng tiến hành ở Biển Đông.
Phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới
Các hoạt động cải tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc ở Biển Đông đã vấp phải
sự chỉ trích, phản đối của nhiều nước trong và ngoài khu vực.
Tại các hội nghị của ASEAN trong thời gian năm 2014-2015, vấn đề Biển Đông
được nêu đậm. Tuyên bố Chủ tịch ASEAN trong Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 26
(26-27-4-2015) nêu quan ngại sâu sắc về các hoạt động bồi đắp, tôn tạo đang diễn ra ở
Biển Đông. Trong số các bên tranh chấp ở Biển Đông, Philippines là quốc gia phản
ứng sớm và mạnh mẽ nhất để phản đối các hoạt động cải tạo của Trung Quốc13.

12

Tại Phiên họp toàn thể Hội nghị ASEAN cấp cao (tháng 6/2015), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bày tỏ lo ngại về
những hoạt động tôn tạo, bồi đắp quy mô lớn ở Biển Đông, cũng như những hệ lụy của chúng; đồng thời nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc tuân thủ các nguyên tắc tự kiềm chế, không làm phức tạp thêm tình hình, giải quyết tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982, thực hiện nghiêm túc, đầy đủ Tuyên bố
DOC và sớm thông qua COC.
13
Tháng 5/2015, Philippines đã công bố công khai các bức ảnh chụp vệ tinh về các hoạt động cải tạo đất mà Trung Quốc
đang thực hiện tại Trường Sa, gửi công hàm phản đối hoạt động cải tạo của Trung Quốc. Tổng thống Philippines Aquino

đã nhiều lần chỉ trích và phản đối các hoạt động cải tạo của Trung Quốc thông qua việc trả lời phỏng vấn báo chí và phát
biểu tại cuộc họp thượng đỉnh của ASEAN. Lập luận chung của Philippines là hành động của Trung Quốc đã:
- Vi phạm các cam kết mà Trung Quốc đã ký với ASEAN trong khuôn khổ DOC
- Là hành động nhằm thúc đẩy yêu sách đường 9 đoạn của trung Quốc ở Biển Đông
- Đe dọa an ninh và ổn định của khu vực.
Do đó, Philippines kêu gọi một lệnh tạm ngừng xây dựng tại các cấu trúc địa lý đang tranh chấp ở Biển Đông, bao gồm
cả quần đảo Hoàng Sa và kêu gọi sự hợp tác của cộng đồng quốc tế nhằm gia tăng sức ép với Trung Quốc để buộc Trung
Quốc phải chấm dứt hành vi này.

19


Các nước lớn như Mỹ, Nhật, Nga, Úc, Ấn Độ...cũng đều có phát biểu về vấn đề
này, trong đó, Mỹ là nước có quan điểm mạnh mẽ nhất ở nhiều cấp 14. Chính phủ Nhật
và Mỹ cũng xem xét việc tuần tra chung ở Biển Đông giữa lực lượng phòng vệ bờ biển
Nhật và quân đội Mỹ trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng trở nên hung hăng ở Biển
Đông nhằm “mở rộng khu vực bay tuần tra tới phía Nam Biển Đông do lực lượng tàu
cá, cảnh sát biển và hải quân của Trung Quốc lớn mạnh hơn láng giềng và tình hình
Biển Đông ảnh hưởng đến an ninh quốc gia của Nhật Bản” 15.Trong một tuyên bố ngày
4-6-2015, Thủ tướng Úc Tony Abbot đã lên tiếng chỉ trích các hoạt động phi pháp của
Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó có việc xây dựng các đảo nhân tạo, khẳng định Úc
ủng hộ việc “ giải quyết một cách hòa bình theo luật pháp quốc tế. Chúng tôi (Úc) sẽ
làm những gì có thể để duy trì tự do hàng hải và tự do trên không”.
Hầu hết các nước lớn như Mỹ, Anh, Nhật...đều đã lên tiếng mạnh mẽ về tình hình
Biển Đông nói chung và các hoạt động cải tạo các cấu trúc địa lý tại khu vực này nói
riêng16.
Việc Trung Quốc ồ ạt tôn tạo, bồi đắp các cấu trúc địa lý trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa thời gian vừa qua rõ ràng là vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo này, vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm DOC, hủy hoại
môi trường, sinh thái biển, làm phức tạp tình hình, đe dọa an ninh, an toàn hàng hải

trên Biển Đông, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hòa bình và ổn định trong khu vực và trên
thế giới.
14

Ngày 09/4, phát biểu tại Jamaica, Tổng thống Obama cho biết “Mỹ lo ngại Trung Quốc không tuân thủ các quy định và
nguyên tắc quốc tế và đang cậy thể nước lớn và sử dụng sức mạnh để buộc các nước khác vào thế bất lợi” đồng thời cho
rằng “vấn đề này có thể được giải quyết thông qua ngoại giao, nhưng chỉ vì Philippines hay Việt Nam không lớn như
Trung Quốc không có nghĩa là họ bị dồn sang một bên”. Tại phiên thảo luận “Mỹ và những thách thức đối với an ninh
châu Á – Thái Bình Dương” tại đối thoại Shangri-La 14 (29 – 31/5/2015), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ có bài phát biểu
mở đầu trong đó nhấn mạnh Mỹ có quyền can dự và lo ngại sâu sắc trước những căng thẳng ở vùng biển này cũng như
phản đối bất cứ giải pháp quân sự nào và khuyến khích ASEAN cùng Trung Quốc hợp tác. Ngày 31-3-2015, phát biểu tại
Hội nghị hải quân ở Úc, Đô đốc Harry Harris, chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương đã cáo buộc Trung Quốc đang xây dựng
“Vạn lý Trường thành” bằng cát tại Trường Sa, kêu gọi các bên tuân thủ cam kết kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt
động có thể làm phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp, ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng
Mỹ, Trung tá Jefrey Pool cũng tuyên bố “Chúng tôi kêu gọi Trung Quốc dừng tất cả chương trình cải tạo các cấu trúc địa
lý và tham gia vào các sáng kiến ngoại giao để khuyến khích tất cả các bên cùng kiềm chế thực hiện các hành động tương
tự”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Jeff Rathke phát biểu ngày 24-11-2014 khẳng định các hoạt động xây dựng quy
mô lớn trên Biển Đông sẽ làm phức tạp và leo thang thêm tình hình, đồng thời kêu gọi Trung Quốc hãy minh bạch, công
khai các hoạt động ở khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Mỹ cũng là nước đưa ra sáng kiến “đóng băng” để kêu gọi các
quốc gia giữ nguyên trạng và thúc đẩy quá trình đàm phán để đạt được COC. Sáng kiến này được Bộ trưởng Ngoại giao
Mỹ John Kerry đưa ra tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) được tổ chức tại Nay Pyi Taw, Myanmar vào ngày 9-8-2014.
Không chỉ tuyên bố, Mỹ còn có những phản ứng quyết liệt trên thực địa. Ngày 11-5-2015, chiến hạm Mỹ USS Fort
Worth, tàu chiến cận bờ lớp Freedom đã tiến vào gần các bãi đá Trung Quốc đang cải tạo trái phép ở quần đảo Trường Sa.
15
Ngày 16-4, Mỹ - Nhật Bàn – Hàn Quốc ra tuyên bố sau đàm phán ba bên tại Washington thúc giục Trung Quốc tuân
thủ luật pháp quốc tế, chấm dứt việc xây dựng và cải tạo phi pháp các đảo ở Biển Đông, tôn trọng tự do hàng hải trên
tuyến giao thông quan trọng này.
16
Hội nghị cấp Ngoại trưởng các nước G7 lại Lubeck, Đức ngày 15/4/2015 ra Tuyên bố về an ninh hàng hải ở biển Đông
và Hoa Đông, bày tỏ quan ngại về những hành vi đơn phương ở Biển Đông, bao gồm “cải tạo đất quy mô lớn làm thay

đổi nguyên trạng và gia tăng căng thẳng”, đồng thời kêu gọi tất cả các nước kể cả Trung Quốc giải quyết tranh chấp bằng
các biện pháp hòa bình và tuân thủ các phán quyết có giá trị ràng buộc của các cơ quan tài phán quốc tế. Tại Hội nghị
thượng đỉnh an ninh châu Á lần thứ 14 (Shangri-la) tại Singapore từ 29 – 31/5/2015, hầu hết các nước tham dự đề bày tỏ
quan ngại và cho rằng lợi ích của các quốc gia bị ảnh hưởng bởi các hoạt động xây dựng, lấn biển của Trung Quốc tại
Biển Đông.

20


2- Tình hình an ninh biên giới
Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền với Campuchia dài 1.137km, có
10 tỉnh của Việt Nam tiếp giáp với 9 tỉnh của nước bạn. Hoạt động giao thương chủ
yếu dựa vào các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu quốc gia, nhiều trục chính và đường mòn
qua lại biên giới.
Trong năm 2015, tình hình chính trị tại Camuchia diễn biến phức tạp. Đảng Cứu
nguy Dân tộc Campuchia (CNRP) do Sam-raisy cầm đầu tiến hành các hoạt động
chống phá gây chia rẽ, bất ổn tại Campuchia; các đối tượng, hội nhóm thù địch tăng
cường chống phá quan hệ Việt Nam - Campuchia. Do đó, đã tác động, ảnh hưởng đến
tình hình biên giới hai nước Việt Nam – Campuchia trong thời gian qua.
2.1- Tình hình ngoại biên
- Đảng đối lập CNRP và các hội nhóm KKK:
Đảng CNRP tiếp tục lợi dụng vấn đề Việt kiều và phân giới cắm mốc để chống
phá Việt Nam, kích động gây Chia rẽ mối đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia;
hạ uy tín Đảng Nhân dân Campuchia (CPP); “đòi xem xét lại Hiệp định biên giới mà
Campuchia ký với Việt Nam năm 2005”; ngăn cản, phá hoại hoạt động phân giới cắm
mốc biên giới Việt Nam - Campuchia; yêu sách sai trái về cái gọi là “đòi lại vùng đất
Nam bộ”; vu cáo Việt Nam áp đặt ách đô hộ với Campuchia; kích động tâm lý kỳ thị
người Việt ở Campuchia… Trong tháng 6 và tháng 7-2015, một số nghị sĩ đảng CNRP
và nhiều đối tượng quá khích, cực đoan đã tiến hành gây rối trên tuyến biên giới thuộc
tỉnh Long An và An Giang.

Sau khi thất bại trong việc sử dụng vấn đề biên giới, lãnh thổ, Việt kiều làm con
bài chính trị để hạ uy tín của CPP không thành, CNRP có sự điều chỉnh sách lược, tập
trung củng cố nội bộ, xây dựng đài truyền hình phục vụ công tác tuyên truyền; vận
động các đảng nhỏ liên kết nhằm mục tiêu giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử cấp
địa phương năm 2017, bầu cử Quốc hội 2018 sắp tới; tiếp tục lợi dụng vấn đề ngoại
kiều, tham nhũng, an sinh xã hội, đất đai để công kích chính phủ Campuchia. Tuy
nhiên, nội bộ đảng CNRP mâu thuẫn, mất đoàn kết, niềm tin của quần chúng giảm sút.
Quốc hội Campuchia đã ra quyết định bãi bỏ chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội thứ I của
Kem Sokha, Tòa án Campichia cũng đã ra lệnh bắt giữ Sam Raisy do những vi phạm
trước đây (hiện Sam Raisy đang ở nước ngoài).
Tổ chức Khmer Kampuchia Krôm (KKK): Tăng cường chống phá mối quan hệ
giữa Việt Nam và Campuchia; đề nghị Cục quản lý xuất nhập cảnh Campuchia đẩy
đuổi người Việt Nam về nước; kích động kỳ thị người Việt.
Các hội nhóm KKK cấu kết với Hội sinh viên trí thức và Đảng CNRP tổ chức
kích động biểu tình trước Đại sứ quán Việt Nam và Đại sứ quán một số nước; đưa
người về Việt Nam lấy dấu vân tay, thu thập chữ ký vào bản kiến nghị để thực hiện
việc chống phá Việt Nam. Có 11 hội, nhóm KKK tại Campuchia soạn thảo bản “thông
cáo chung” gửi đến “Buổi họp diễn đàn nhân dân ASEAN” kêu gọi đặc phái viên Liên
21


Hiệp quốc, các cá nhân, tổ chức trong ASEAN can thiệp và giám sát vấn đề nhân
quyền tại Việt Nam.
- Hoạt động của chính quyền CPC
Trước việc đảng CNRP cấu kết với các hội, nhóm KKK tổ chức gây rối, chính
quyền CPC xiết chặt an ninh, xét xử các đối tượng tổ chức biểu tình; tổ chức các Đoàn
công tác xuống các tỉnh để động viên nhân dân không nghe theo sự xúi giục của đảng
CNRP tham gia các cuộc biểu tình; chấn chỉnh lại bộ máy chính quyền từ Trung ương
đến địa phương; cải cách nền kinh tế, tranh thủ các nguồn vốn của các tổ chức Quốc tế
và Chính phủ các nước tài trợ, cải cách tiền lương nhằm ổn định hơn đời sống xã hội…

Mặt khác tiến hành đàm phán thành công với đảng CNRP để giải quyết mâu thuẫn tồn
tại sau bầu cử Quốc hội khóa V/2013, ổn định tình hình chính trị trong nước.
Từ đầu tháng 8/2015, phía CPC có chủ trương đóng các đường mòn, lối mở qua
lại biên giới Việt Nam – CPC và kiểm tra nghiêm ngặt người qua lại biên giới, cửa
khẩu. Đồng thời thành lập các tổ công tác trên phạm vi toàn quốc, gồm: Cán bộ hộ
tịch, cán bộ Tổng cục di trú và các lực lượng bảo vệ biên giới để rà soát, kiểm tra
người nước ngoài đang sinh sống, làm ăn ở CPC.
Hiện tại, Campuchia có 44 đảng phái chính trị, tuy nhiên quy mô nhỏ, uy tín thấp,
thiếu kinh phí hoạt động nên chưa thu hút cử tri; các đảng phái đang vân động, liên kết
với nhau, củng cố lực lượng nhằm lật đổ sự cấm quyền của CPP và Thủ tướng Hunsen.
Bên cạnh đó, các nước lớn tiếp tục tìm cách chi phối, thao túng chính quyền
Campuchia; tuy không công khai hậu thuẫn chho các đảng phái nào, nhưng Mỹ và
Trung Quốc lại có tác động lớn đến tình hình chính trị ở Campuchia. Đáng chú ý, gần
đây Campuchia công khai ủng hộ Trung Quốc và bác bỏ vai trò của ASEAN trong giải
quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
2.2- Trên tuyến biên giới tại An Giang
Tình hình an ninh trật tự trên tuyến biên giới được giữ vững, nhân dân hai bên
đoàn kết, tích cực sản xuất. Tuy nhiên, tình hình bất ổn chính trị ở Campuchia thời
gian gần đây đã ảnh hưởng đến tâm trạng và đời sống của bà con Việt kiều và người
dân ở khu vực biên giới, đặc biệt là vụ việc tổ chức KKK và Đảng Cứu quốc (CNRP)
kích động gây rối ở khu vực biên giới thuộc huyện An Phú, Tri Tôn… Tình hình vi
phạm quy chế biên giới, quy định xuất nhập cảnh, hoạt động của các loại tội phạm vẫn
còn phức tạp. Nhiều trường hợp người Việt Nam, người nước ngoài đến khu vực biên
giới không có giấy phép và nhập cảnh trái phép từ Campuchia về Việt Nam.
Phía Campuchia đã bắt giữ và trao trả qua đường An Giang 33 đợt gồm 330 công
dân Việt Nam không có giấy tờ hợp pháp; trong đó, ta tiếp nhận qua đường ngoại giao
28 đợt/282 người; tiếp nhận không qua đường ngoại giao 05 đợt/38 người.
Công tác phân giới cắm mốc do chưa thống nhất được một số điểm trên thực địa;
Đảng CNRP, KPP thường xuyên xuống khảo sát các cột mốc biên giới để quay phim,
chụp hình vu cáo Việt Nam lấn đất, gây khó khăn cho quá trình phân giới, cắm mốc.

22


Hiện nay, hai bên đã phối hợp cắm mốc dấu và ký sơ đồ nháp được 07 mốc: 255,
256, 261, 271, 272, 282, 285; nghiệm thu và ký biên bản 09 mốc: 272, 274, 276, 277,
278, 279, 280, 282, 285. Tiến hành khởi công và giám sát xây dựng mốc 255, 256,
261, 271, 272, 275, 282, 285. Tính đến nay, tuyến biên giới An Giang- Campuchia đã
cắm xong 37/48 mốc, trong đó: đã xây dựng xong 35 mốc, đang xây dựng 02 mốc
(261 ở An Phú, 275 ở Tịnh Biên).
3- Tình hình an ninh - tư tưởng năm 2015
3.1- Tình hình chung
- Sự chống phá của Mỹ và phương Tây
Cùng với việc thúc đẩy quan hệ song phương, Mỹ cũng đồng thời tiếp tục hậu
thuẫn cho số đối tượng phản động, chống đối trong và ngoài nước; thúc đẩy, phát triển
cái gọi là “xã hội dân sự”; chỉ đạo các tổ chức NGO tuyên truyền “giá trị Mỹ”, xây
dựng các tổ chức “chân rết” ngầm; đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực giáo dục đào tạo để
tác động “chuyển hóa” Việt Nam.
Mỹ, EU tiếp tục gây sức ép với Việt Nam về dân chủ, nhân quyền; hậu thuẫn đối
tượng chống phá; thu thập thông tin tình hình kinh tế - xã hội, chính trị, công tác chuẩn
bị Đại hội XII của Đảng; đòi Chính phủ ta thả các đối tượng vi phạm pháp luật. Quốc
hội Canada thông qua Đạo luật S-219 “hành trình đến tự do”, nội dung xuyên tạc lịch
sử và vu cáo Việt Nam.
Các tổ chức NGO và “xã hội dân sự” liên kết, móc nối với các nhóm gọi là “dân
oan”, “người nghèo thành thị”, “nạn nhân tệ nạn xã hội” để tập trung lực lượng; thu
thập thông tin các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ để thực hiện các hoạt
động chống phá.
3.2- Các tổ chức phản động lưu vong người Việt ở nước ngoài
Tiếp tục phát triển lực lượng nhằm công khai hóa cái gọi là “tổ chức chính trị đối
lập trong nước”; gia tăng hoạt động xuyên tạc, kích động chống phá Việt Nam.
Các tổ chức phản động “Việt tân”, “vì dân”, “khối 8406”… hỗ trợ tài chính,

phương tiện cho các đối tượng cực đoan, chống đối trong nước tiến hành chống phá;
viết bài kích động lôi kéo biểu tình nhân các sự kiện như: Đại hội Đảng các cấp; ngày
lễ, kỷ niệm lớn của đất nước; chuyến thăm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước sang các
nước; vấn đề Biển Đông, chuyến thăm của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận
Bình…; chọn đối tượng đưa đi nước ngoài huấn luyện “đấu tranh bất bạo động”.
Việt Tân móc nối với các thành viên Tiểu ban Nhân quyền trong Quốc hội
Canada ra “chính sách nhân quyền đối với Việt Nam” trong năm 2015; liên kết với các
tổ chức khác vu khống Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo” để tạo
áp lực đòi trả tự do cho những tội phạm mà chúng gọi là “tù nhân lương tâm”, “dân
oan”; sử dụng mạng xã hội tuyên truyền, trao đổi thông tin; phát triển lực lượng trong
các “tổ chức xã hội dân sự” và một số tín đồ cực đoan trong tôn giáo; tổ chức huấn
luyện các đối tượng chống phá trong nước.
23


“Ủy Ban Cứu người vượt biển” (BPSOS) móc nối bọn phản động trong và ngoài
nước tham gia thực hiện cáo gọi là kế hoạch “5 năm và 100 năm tái thiết Việt Nam”.
Móc nối các đối tượng “hội ái hữu cựu tù nhân chính trị và tôn giáo”, “hội anh em dân
chủ”, “khối tín đồ Phật giáo Hòa Hảo độc lập” đòi thả số tội phạm mà chúng gọi là “tù
nhân chính trị và tôn giáo”; móc nối một số trí thức trẻ trong Phật giáo Hòa Hỏa để
huấn luyện hoạt động chống phá.
Các tổ chức phản động ở Mỹ tán phát “kiến nghị thư” phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam; làm phim, tài liệu có nội dung bịa đặt, xuyên tạc lịch
sử; tập hợp lực lượng âm mưu đồng loạt tổ chức biểu tình nhân các sự kiện lớn. Các
phần tử phản động trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài thành lập cái gọi là “viện
nhân quyền Việt Nam” (VIFHR) có trụ sở tại Pháp. Các đối tượng chống phá ở Úc kêu
gọi, xin chữ ký cho “chiến dịch vận động nhân quyền 2015”, âm mưu tổ chức biểu tình
trước Đại sứ quán Việt Nam tại Úc.
3.3- Các đối tượng, tổ chức phản động trong nước
Các đối tượng chống phá trong nước tiếp tục nhận sự hỗ trợ vật chất từ cá nhân,

tổ chức bên ngoài; gia tăng hoạt động tụ tập, biểu tình, công khai hóa “hội, nhóm xã
hội dân sự”. Chúng lợi dụng Internet đăng tải nội dung xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà
nước ta về dân chủ, nhân quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng, kêu gọi đa nguyên, đa
đảng, “tự do báo chí”; khơi gợi tư tưởng dân tộc cực đoan; kích động người dân chống
lại Đảng, Nhà nước; lợi dụng tình hình Biển Đông xuyên tạc, vu cáo ta; xuyên tạc
nhân sự và văn kiện của Đại hội XII của Đảng.
Các đối tượng chống phá, cơ hội chính trị, phần tử bất mãn vận động thành lập
trái phép “diễn đàn, hội, nhóm xã hội dân sự”; sử dụng các trang mạng xã hội làm
công cụ để tuyên truyền, liên kết, móc nối, trao đổi thông tin, hội họp, đi thăm, tặng
quà, cầu siêu cho các gia đình “tù nhân lương tâm”, “dân oan”, phần tử cực đoan; vận
động các đối tượng bất mãn, cực đoan tham gia các “phong trào”, “chiến dịch” chống
phá.
- Trong tôn giáo:
Tòa Giám mục Ban Mê Thuột chỉ đạo các giáo hạt, giáo xứ, dòng tu lợi dụng hoạt
động từ thiện, nhân đạo để thâm nhập vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa; đẩy mạnh tuyên truyền, lôi kéo lực lượng, củng cố các “hội đoàn”, đẩy mạnh thực
hiện “liên tôn”, kích động đấu tranh “đòi đất đai”, “đòi tự do tôn giáo”. Giáo phận Kon
Tum chủ trương “truyền giáo sắc tộc” và lội kéo tín đồ gây sức ép đòi thành lập giáo
xứ mới, cấp đất để xây dựng một trung tâm hành hương tại TP. HCM. Cái gọi là “hội
đồng liên tôn” đã tiếp nhận một số học viên ở An Giang, Kiên Giang, Bình Dương
tham gia tập huấn kỹ năng truyền thông và phối hợp với “hội nhà báo độc lập Việt
Nam”, tổ chức “xã hội dân sự”, tổ chức quốc tế để gây áp lực thông qua Luật Biểu
tình; tán phát tài liệu xuyên tạc tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Thích Quảng Độ lôi kéo, kích động một số phật tử, trí thức trẻ, các “tổ chức xã
hội dân sự” ở Tp. HCM và các tỉnh, thành phía Nam để tuyên truyền, xuyên tạc, chống
24


phá. Một số đối tượng lấy cớ “phản biện xã hội” để tuyên truyền chống phá Đại hội
Đảng các cấp; đòi lại đất đai, cơ sở thờ tự; thông qua Phòng thông tin Phật giáo quốc

tế tại Pháp, Hội Giao điểm tại Mỹ để liên kết với các hãng truyền thông quốc tế (RFA,
VOA, BBC...), các trang mạng xã hội, phỏng vấn, viết bài xuyên tạc Giáo hội phật
giáo Việt Nam, kêu gọi Mỹ và các nước phương Tây can thiệp, yêu cầu Nhà nước cho
phục hoạt tổ chức “Giáo hội PGVNTN”.
3.4. Tại các vùng chiến lược
- Tại tây Bắc và phụ cận: Số cốt cán tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình tiếp
tục tiến hành các hoạt động chống phá nhằm củng cố tổ chức, đối phó với chính
quyền; gặp gỡ, trao đổi với các tổ chức ở Mỹ, cung cấp tài liệu nhằm kêu gọi hỗ trợ và
công nhận tổ chức. Một số đối tượng tham gia hoạt động tuyên truyền, lôi kéo đồng
bào Mông sang Lào tham gia hoạt động lập “Nhà nước Mông” gây tâm lý hoang mang
trong một số vùng dân tộc Mông tại Điện Biên, lai Châu, Sơn La…
- Tại Tây Nguyên và phụ cận: Số FULRO lưu vong tiếp tục liên lạc với các đối
tượng trong nước tuyên truyền, lôi kéo người dân tộc thiểu số Tây Nguyên trốn đi
Campuchia, Thái Lan; khôi phục một số khung nhân sự “Tin lành Đêgar” cấp làng tại
Tây Nguyên…
- Tại Tây Nam bộ, số đối tượng sư sãi ở Bạc Liêu, Trà Vinh tiếp tục hoạt động
chống đối, gây thanh thế. Các hội nhóm KKK tiếp tục đưa các đối tượng xâm nhập
Tây Nam bộ để móc nối, lôi kéo một số người Khmer tham gia hoạt động chống phá;
lựa chọn sư sãi Campuchia gốc Khmer Nam bộ để đào tạo, đưa về Việt Nam hoạt
động.
3.5- Tại An Giang
- Một số đối tượng trong tỉnh đã ủng hộ, hưởng ứng các hoạt động của các tổ
chức “xã hội dân sự” trái phép như: ký tên ủng hộ, viết bài hưởng ứng, tán phát, đăng
tải quan điểm sai trái, thù địch trên các web, Facebook, blog.
- Trong Phật giáo Hòa Hảo (PGHH): Các đối tượng cực đoan tiếp tục hoạt động
chống phá, chọn người thay thế Lê Quang Liêm, tán phát tài liệu, đơn, thư, giảng đạo
trái phép; vận động tiền cho cái gọi là “hỗ trợ những người khiếu kiện”; tổ chức cầu
nguyện và quay phim, chụp ảnh để tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo… Tham gia các tổ
chức, hội và cái gọi là diễn đàn “xã hội dân sự”; tuyên truyền trên Internet (đặc biệt là
Facebook, Blog) để xuyên tạc, vu cáo, kích động khiếu kiện, biểu tình. Một số đối

tượng tham gia cái gọi là tổ chức “phụ nữ nhân quyền”, đến thăm các gia đình tội
phạm chúng gọi là “tù nhân lương tâm”, “dân oan”.
- Một số đối tượng PGHH cực đoan và đối tượng đeo bám khiếu kiện ở tỉnh,
Trung ương đã tham gia các hội, nhóm trái phép như: “hội phụ nữ nhân quyền”, “hội
dân oan”, “phong trào liên đới dân oan”, “hội cựu tù nhân lương tâm”… Một số đối
tượng về hưu, đối tượng vi phạm pháp luật, đối tượng bất mãn xin ra khỏi Đảng,
PGHH cực đoan chống phá trong tỉnh có dấu hiệu liên hệ, móc nối để tăng cường các
hoạt động chống phá.
25


×