Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kiến nghị đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.68 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước đang phát triển, đang thực hiện và dần hồn
thành chính sách cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy chúng ta là
nước nơng nghiệp lạc hậu nhưng có một sự thuận lợi hết sức to lớn trong
việc giao lưu với quốc tế đặc biệt là đối các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đó
chính là : Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm Đơng Nam Á, trong vịng cung
Châu Á - Tây Thái Bình Dương và Việt Nam là một nhiệt đới gió mùa ẩm,
nhiều đồi núi. Với những điều kiện thuận này đã giúp cho việc sản xuất và
khẩu các mặt hàng chủ lực tiến triển nhanh, đạt tiêu chuẩn về chất lượng.
Có thể noicác mặt hàng xuất khẩu của việt nam đã được nhiều nước trên thế
giới biết đến như : cà phê, cao su,gạo, dệt may, thuỷ sản …Những mặt hàng
xuất khẩu trong những năm gần đây lại càng phát triển, đem lại những
thành tựu to lớn góp phần sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tình hình
xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực diễn ra như thế nào? Chính phủ và các
doanh nghiệp đã dùng những biện pháp gì để nâng cao hiệu quả xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực trong tiến trình hội nhập , xây dựng đất nước. Do vậy
em chọn đề tài :”Một số kiến nghị đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam ”để phân tích những khía cạnh trên .

Bài viết của em ngoài phần mở đầu và kết luận có 3 ý chính :
I – Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực ở
Việt Nam .
II – Tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam .
III – Một số kiến nghị cho xuất khẩu hàng chủ lực của Việt Nam .

1


NỘI DUNG
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU VÀ XUẤT KHẨU
CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM.


1.Khái niệm .
Ngoại thương là trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông
qua các hoạt động mua bán. Trong hoạt động ngoại thương: xuất khẩu là
việc bán hàng hố và dịch vụ ra nước ngồi. Tồn bộ hoạt động xuất khẩu
trong ngoại thương giữa các nướ hay một nước được là mậu dịch quốc tế hay
thương mại quốc tế .
Xuất khẩu là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất, nó phản ánh
quan hệ thương mại, bn bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác
trên cơ sở dùng phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối
với mỗi quốc gia hay là đối với cả hai quốc gia .
Xuất khẩu đã thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế
đối ngoại, là phương diện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt
động xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập
khẩu cũng như tạo cơ sở phát triển các hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất
của chính sách thương mại của mỗi quốc gia .
2. Quan niệm về xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam .
Hàng xuất khẩu chủ lực là loại hàng hoá được Việt Nam đem bán cho
các nước khác trên phạm vi toàn thế giới. Đây là những mặt hàng hàng đầu
của chúng ta, được sản xuất và nuôi trồng với số lượng nhiều, chất lượng tốt
được người dân trên thế giới tin dùng. Hàng xuất khẩu chủ lực đem lại lợi
nhuận cao góp phần to lớn vào sự tăng trưởng GDP của đất nước .

2


Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của việt nam như: dệt may, cao su,
giày dép, hạt điều, hạt tiêu, gạo v.v.đều là những mặt hàng rất tốt. Nhìn
chung các mặt hàng ngon, đạt chất lượng tốt nhưng vì chúng ta thiếu những
trang thiết bị, thiếu kiến thức khoa học nên chưa phát huy tốt được khả năng
và sinh trưởng của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Bên cạnh đó thời tiết rất

thuận lợi cho một số loại cây trồng nhưng cũng có những trở ngại lớn đối với
một số loại cây trồng khác. Các mặt hàng xuất khẩu của chúng ta giá rất rẻ
nhưng mẫu mã không được hoàn hảo lắm, phần lớn khi đem trồng cùng
giống cây nếu trồng ở Việt Nam thì các củ, quả, hạt lại bé hơn so trồng ở
những nước khác, không riêng gì các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà ngay
cả nhiều loại cây khác nữa .
Đối với loại cây công nghiệp như: cao su, cà phê… thì khí hậu việt
nam lại là một ưu thế. Cao su và cà phê của ta được thế giới dùng rất nhiều
do vậy chúng ta đã xuất khẩu vơí một số lượng tương đối lớn nhiều, một tín
hiệu đáng mừng cho kinh tế Việt Nam . Tuy diện tích trồng chưa đáp ứng đủ
nhưng như thế cũng là tương đối ổn .
Đối với mặt hàng thuỷ sản thì diện tích ni trồng và qui cách chất
lượng chưa hợp lý lắm, diện tích chưa đáp đủ nhu cầu của thị trường.Một
vấn đề đáng chú ý đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực nữa là: chúng ta sản
xuất đem đi xuất khẩu sang các nước khác nhưng trong nước các mặt hàng
này rất ít, tất cả những thứ tốt nhất đều đem xuất khẩu do đó dẫn đến một
tình trạng là người Việt Nam sản xuất ra những thứ ngon xuất khẩu ra nước
ngoài nhưng họ chưa được dùng những thứ loại một, loại ngon nhất mà họ
toàn đung những thứ loại hai – lọai kém chất lượng hơn .
Đối với mặt hàng giày dép và dệt may thì đây là những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực đạt được những thành tựu rất to lớn, đứng thứ hai về xuất khẩu
trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vịêt nam . Đây là những mặt
3


hàng truyền thống nên duy trì và phát huy xem đây là một mục tiêu cho
những mặt hàng kém hơn noi theo .
3. Vai trò của xuất khẩu .
Nền kinh tế việt nam đã từng bước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã

đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng hhố
đã góp phần quan trọng trong q trình cơng nghiệp, hiện đại hố đất nước .
Đối với nền kinh tế quốc dân :
Xuất khẩu hàng chủ lục có vai trị quan trọng trong q trình phát triển
kinh tê của nước ta nói riêng cũng như tồn thế gới nói chung. Là nơị dung
chính của hoạt động ngoại thương và hoạt quan trọng của thương mại quốc
tế.
Xuất khẩu hàng chủ lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng
đầu của việt nam. Nó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, nó là nền tảng cho
nhập khẩu. Mỗi quốc gia có tăng trưởng được hay khơng, có vị trí trong đấu
trường quốc tế hay không và quan trọng nhất là có được lịng tin u của
khách hàng, bạn hàng trên tồn thế giới hay khơng đó là nhờ “xuất khẩu
hàng chủ lực với chất lượng tốt, giá rẻ, bền, đẹp ”.
Xuất khẩu hàng chủ lực góp phần tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập
khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việt nam là nước
đang phát triển, một trong những rào cản và khó khăn chính đối với tăng
trưởng kinh tế là thiếu nguồn vốn. Huy động vốn có nhiều cách như : phát
hành trái phiếu , huy động vốn của dân cư, vay vốn… nhưng cách tốt nhất
vẫn bằng con đường xuất khẩu .
Xuất khẩu hàng chủ lực tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có
liên quan phát triển, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền
4


kinh tế. Ngồi ra xuất khẩu cịn tạo được điều kiện mở rộng khả năng tiêu
dùng sản phẩm góp phần cho sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản
xuất trong nước tạo được thế đứng trên thế giới, thu hút vốn đầu tư trong
nước và phát triển đầu tư nước ngoài.
Xuất khẩu hàng chủ lực là phương tiện quan trong để thu hút công
nghệ kỹ thuật mới từ các nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo

năng lực sản xuất mới . Đồng thời xuất khẩu hàng chủ lực có vai trị thúc đẩy
chun mơn hoá.
4. Một số vấn đề cần lưu ý trong xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
của việt nam .
Việt Nam là nước đang phát triển, cần có nhiều mối quan hệ giao lưu
trên tồn thế giới vì vậy xuất khẩu hàng hóa cũng là hướng đi nhanh nhất và
đạt hiệu quả cao nhất. Vì chúng ta tham gia vào thị trường thế giới chưa lâu,
kinh nghiệm tĩch luỹ chưa nhiều cho nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc
soạn thảo ra một nội dung hợp đồng chính xác, phù hợp với cả hai bên .
Vấn đề vận chuyển hàng hoá đặc biệt quan trọng đối với xuất khẩu các
mặt hàng chủ lực, phải biết tìm cách vận chuyển nhanh nhất mà khơng làm
tổn hại đến hàng hóa, đến quan hệ song phương giữa hai nước.
Để xuất khẩu hàng hoá an tồn đã khó thì việc tìm một đối tác phù
hợp, đáng tin cậy lại càng khó hơn .
Chúng ta phải quan tâm đến qui mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Xuất khẩu với số lượng bao nhiêu, hình thức xuất khẩu, phương thức xuất
khẩu diễn ra theo kiểu gì để từ đó có thể có những cách vận chuyển hợp lý
nhất.
Trước khi xuất khẩu nên tìm hiểu cơ cấu thị trường, tìm hiểu giá cả
hàng hố tăng giảm đến đâu tránh bị lỗ .
5


II – TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ
LỰC
1. Tình hình xuất khẩu .
1.1Giày dép .
Xuất khẩu giày dép của Việt Nam đứng thứ 4 trên giới sau Trung Quốc,
Hồng Kông và Italia. Sản lượng giày da Việt Nam đứng thứ 8 trên thế giới.
Cả nước hiện có 233 doanh nghiệp sản xuất giày dép các loại trong đó có 76

doanh nghiệp có 76 doanh nghiệp nhà nước, 80 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và 71 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Tổng nặng sản xuất
giày dép các loại hàng năm đạt khoảng 47,5%; doanh nghiệp nhà nước
chiếm 27.5% và doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 25% , sản phẩm giày
dép tăng rất nhanh qua các năm. Cùng với sự tăng lên của sản lượng là gia
tăng lên của sản lượng là sự gia tăng nhanh chóng mức tiêu thụ giày dép,
trong đó xuất khẩu tăng nhanh nhất. Năm 1991 hầu như không xuất khẩu,
sang năm 1992 xuất khẩu được 5 triệu USD nhưng cho đến nay sản lượng
xuất khẩu đã tăng lên đáng kể, doanh thu lên đến 1.559,5 6triệu USD. Kim
ngạch xuất khẩu năm 1991 so với năm 2002 đă gấp 312 lần, trung bình mỗi
năm tăng tới 89,3%. 4 tháng đầu năm 2003 xuất khẩu đạt 825 triệu USD tăng
20,9%, đứng thứ 3 sau dầu thô và dệt may. Giày dép xuất khẩu của Việt
Nam chủ yếu sang thị trường EU. Năm 2002 chiếm 82% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Thị trường Mỹ tuy kim ngạch xuất khẩu chưa lớn nhưng
là thị trường đầy tiềm năng, sau hiệp định thương mại Việt – Mỹ giày dép là
một trong những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc về nhiều
mặt như giải quyết công ăn, việc làm cho lao động xã hội – một vấn đề bức
xúc hiện nay có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu với kim ngạch khá cao và
tăng liên tục .
1.2 Gạo .
6


Đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì gạo cũng là
một trong những mặt hàng dẫn đầu về xuất khẩu. Xuất khẩu gạo đứng thứ
hai sau dầu thô. Một đIểm đáng tự hào của Việt Nam là mặt hàng gạo xuất
khẩu đứng thứ 2 trên thế giới . Nhìn lại 14 năm xuất khẩu gạo, bên cạnh sự
tăng tiến về số lượng, sự tiến bộ về chất lượng và chủng loại là một thực tế
rất đáng tự hào. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo tỷ lệ gạo chất lượng
trung bình, tỷ lệ tấm cao trên 25% chiếm đến 80% đến 90% do vậy sức cạnh

tranh rất kém. Vượt qua những khó khăn và yếu tố kém ban đầu trong 8 năm
gần đây (1995 – 2002 ) xuất khẩu gạo nước ta có nhiều khởi sắc. Gạo xuất
khẩu tăng nhanh từ 2 triệu tấn năm 1995 tăng lên 4.5 triệu tấn năm 1999. Về
chất lượng gạo có tiến bộ hơn rất nhiều (hạt dài, ít bạc bụng ) có tỉ trọng lớn
và có xu hương tăng dần, còn hạt tròn, bạc bụng chiếm tỷ lệ tấm cao, tỷ
trọng bé có xu hướng giảm dần . Chính vì vậy gạo xuất khẩu của chúng ta
đến năm 1999 đã đứng vững trên thị trường khó tính EU, Bắc Mỹ và khu
vực ĐNá. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm (1998 – 2001) là 326 triệu
USD / tấn, tăng 63USD / tấn so với giá trung bình 9 năm trước. Do sản
lượng tăng và giá cũng tăng nên thu nhập về xuất khẩu gạo tăng nhanh từ
530 triệu USD năm 1995 tăng lên 868 triệu USD năm 1996, 891 triệu USD
năm 1997, 1.024 tỷ USD năm 1998, năm 1999 là trên 1.025 tỷ USD, năm
2000 khoảng 700 triệu USD, năm 2001 dù giá gạo giảm nhưng vẫn đạt trên
600 triệu USD cho đến năm 2002 xuất 320 triệu tấn giảm 13.1% về lượng
nhưng do giá cao lên doanh số vẫn tăng 13,9% . Có thể nói trong 14 năm
xuất gạo nước ta đã thu về trên 8 tỷ USD đạt 572 triệu USD / năm, một đóng
góp rất lớn vào thu nhập nền kinh tế quốc dân, cải thiện mức sống cho người
dân và khuyến khích nơng dân sản xuất . Nhưng một điều đáng tiếc cho mặt
hàng gạo của ta vẫn chưa có thương hiệu trên thế giới .

7


Nói một cách đơn giản thì cao su là ngun liệu rất quan trọng đối với các
mặt hàng có liên quan vì vậy trong tương lai chắc chắn ngành cao su Việt
Nam sẽ phát triển hơn rất nhiều .
1.3 Dệt May .
Ngành cơng nghiệp dệt may ngày càng đóng góp một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, vì nó khơng chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của
con người mà còn là ngành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội,

tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho
ngân sách nhà nước. Trong 10 năm trở lại đây ngành dệt may đã chứng tỏ là
một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt
bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8% năm,
đứng thứ 3 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu sau dầu thô và gạo. Năm
2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 23 tỷ USD gấp 16,9% lần so với
năm 1992 chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Năm
2001 xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, tăng trên 5% so
với năm 2000. Trong đó kim ngạch xuất khẩu vào EU chiếm trên 30% kim
ngạch xuất khẩu cả nước. Xuất khẩu chủ yếu theo phương thức gia công nên
các doanh nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào đơn đặt hàng của nước ngoài
hoặc xuất khẩu thông qua thứ 3. Trong 3 năm gând đây chỉ dao động ở mức
600 USD / năm . Theo thống kê đến hết quí I năm 2003 kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may sang tất cả các thị trường đạt gần 500 triệu USD tăng 15% so
với cùng kì năm 2002 trong đó thị trường EU đạt 100 triệu, thị trường Nhật
đạt 200 triệu, thị trường Mỹ là 50 triệu
Nhìn chung xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các khu vực có thị trường
sử dụng hạn ngạch và phi hạn ngạch có tăng nhưng tăng chưa tương xứng
với tiềm năng. Hàng dệt may của chúng ta có thể có thể tiến xa hơn, sản xuất
ra nhiều hơn và xuất khẩu nhiều hơn trong những năm gần đây.
8


2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực .
2.1 Thuận lợi .
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đạt được nhiều thành tựu
to lớn như hiện nay cũng là nhờ những thuận lợi nhất định .
Việt Nam mới tham gia vào AFTA – một tổ chức cắt giảm thuế đối với
hàng xuất khẩu cho nên xuất khẩu các mặt hàng chủ lực sẽ dễ dàng và thuận

lợi hơn.
Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang EU, ASEAN, Mỹ, Nhật, Singapore…
Đây là những thị trường đầy tiềm năng. ở những thị trường Châu Á có một
loạt chính sách xuất khẩu được cải thiện. Bên cạnh đó thị trường EU đang
chuyển dịch theo hướng tích cực. Hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU tăng cả
lượng lẫn giá trị. Mặt khác thị trường EU không khống chế hạn ngạch đối
với hàng Việt Nam một trong những tín hiệu rất đáng mừng .
Đặc biệt chúng ta có một lợi thế rất lớn trong lĩnh vực xuất gạo – mặt
hàng chủ lực của nước ta đứng thứ 2 trên thế giới vì hiệu quả kinh tế – xã hội
– quốc phịng – an ninh và mơi trường của sản xuất và xuất khẩu gạo cao,
hiệu quả này khơng chỉ trước mắt mà cịn lâu dài. Nhà nước tăng cường hỗ
trợ hoạt động xúc tiến thương mại. Thị trường xuất khẩu đã mở rộng tới hơn
100 quốc gia. Trong thời gian này nhà nước sẽ chi khoảng 30 triệu USD để
hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại. Các doanh nghiệp sẽ đực hỗ trợ
một số hoạt động như thông tin thương mại, tư vấn xuất khẩu, hội chợ triển
lãm, khảo sát thị trường, quảng bá thương hiệu, nhằm từng bước xây dựng
cơ cấu xuất khẩu hiệu quả nhất .
2.2 Khó khăn .

9


Bên cạnh những thuận lợi hàng xuất khẩu chủ lực của chúng ta cịn gặp
rất nhiều những khó khăn .
Khó khăn lớn nhất là khả năng cạnh tranh của hàng hố Việt Nam hiện
nay vẫn cịn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo đánh
giá mới đây cuả diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam chỉ xếp thứ 10 trong số
11 nền kinh tế Châu Á về năng lực cạnh tranh .
Năng lực sản xuất hàng xuất khẩu, những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao
trong kim ngạch xuất khẩu còn chưa mạnh. Tuy tổng kim ngạch của những

mặt hàng này có thể cao nhưng giá trị gia tăng và hàm lượng nội địa còn
thấp. Nguyên vật liệu đầu vào chưa nhiều, ngành sản xuất giày dép, dệt may,
thép… vẫn phụ thuộc từ nhập khẩu nước ngồi. Ngun liệu sản xuất trong
nước chưa có hoặc chất lượng cịn thấp, gía thành cịn cao so với hàng nhập.
Mặt khác, tuy tăng trưởng cơng nghệp nói chung đạt gần 15% mỗi năm
nhưng chủ yếu do tăng về chi phí sản xuất, chứ khơng phải do tăng năng suất
lao động hay áp dụng công nghệ mới . Do đó, hiệu quả cảu sản xuất và tính
cạnh tranh của sản phẩm không cao.
Mạng lưới thu mua vận chuyển vẫn phụ thuộc vào tư thương, tình trạng
bị ép cấp, ép giá vẫn diến ra đậm nét do một số mặt hàng đã bị mất thương
hiệu như :cà phê…
Cơ sở vật chất kỹ thuật cịn yếu kém phân bố khơng đều. Máy móc thiết
bị số lượng ít chưa đáp ứng đủ nhu cầu .
Vấn đề điều hành xuất khẩu các mặt hàng chủ lực cũng cịn nhiều bất cập:
có sự cạnh tranh giữa các địa phương trong cùng mặt hàng xuất khẩu.
Bão lụt hạn hán cũng ảnh hưởng lớn đến sản lượng của các mặt hàng xuất
khẩu.

10


Trong tương lai chúng ta nhất định sẽ khắc phục những khó khăn này và
lợi dụng những thuận lợi để tăng khả năng xuất khẩu hàng chủ lực và một số
các mặt hàng xuất khẩu khác.
III – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ
LỰC CỦA VIỆT NAM .
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng chủ lực chính phủ và các doanh
nghiệp đã có những biện pháp trước mắt và lâu dài cho hoạt động này.
1. Qui hoạch và phát triển các mặt hàng chủ lực.
Chính phủ đã có những chính sách kịp thời về vấn đề này, đây là vấn đề

rất cần thiết đối mặt hàng xuất khẩu. Đầu tiên qui hoạch tổng thể những
vùng nào có lợi thế về lĩnh vực nào thì phát triển và duy trì mặt hàng đó, đầu
tư vốn và trang thiết máy móc tăng sản lượng hàng hố xuất khẩu. Thứ hai
qui hoạch chi tiết có nghĩa là vùng nào ni trồng loại nào thì cần bao nhiêu
ha đất, phân bố cho từng bộ phận sản xuất nhỏ làm công việc gì ? ở đâu ?
như thế nào ? cịn những vùng nào khơng có lợi thế thì phải chuyển đổi cơ
cấu, thay đổi cách làm việc và những phương thức hoạt động từ trước đến
nay để tạo một lợi thế cạnh tranh.
Sau khi thu hoạch xong chính phủ sẽ tìm kiếm thị trường tiêu thụ thơng
qua chương trình xúc tiến thương mại để xuất khẩu hàng hoá. Nâng cao chất
lượng giá thành của sản phẩm và thị trường đầu ra.
Một vấn đề quan trọng đó là xây dựng kho dự trữ vì Việt Nam chưa có
một kho dự trữ lớn nào để lưu trữ hàng hoá xuất khẩu. Đây là vấn đề rất
quan trọng, hàng hóa làm ra phải có nơi khơ ráo thống mát để cất nếu
khơng hàng sẽ nhanh hỏng, chất lượng kém do vậy chúng ta phải xây dựng
một kho dự trữ để bảo quản hàng hoá .
2. Mở rộng phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ lực.
11


Bên cạnh việc duy trì và củng cố các thị trường chính như : EU, Nhật,
Trung Quốc, ASEAN việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa chủ lực
phải mang tính đa phương hố, ưu tiên mở rộng các thị trường mới như
Canada, Trung Đông… đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường
Đông Nam Á này. Ta chỉ duy trì ở mức nhất định để tạo quan hệ giao lưu
giữa hai nước với nhau, còn để kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn thì chúng ta
nên thâm nhập vào thị trường Mỹ, EU…Nhà nước đàm phán mở rộng thị
trường, về vấn đề tăng hạn ngạch đối các mặt hàng xuất khẩu, để giải quyết
vấn đề này các nhà doanh nghệp nên thực hiện những chiến lược sau:
Trước hết là giảm chi phí sản xuất cho một số ngành chủ lực như:giày

dép, dệt may v.v bằng cách cung cấp đầy đủ nguyên phụ liệu, ta nên phát
triển sản xuất phụ liệu bằng công nghệ tiên tiến đảm bảo chất lượng tốt cho
sản phẩm. Có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước, ưu
tiên hạn ngạch cho các doanh nghệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước.
Còn đối với một số cây công trồng của Việt Nam như: gạo, chè, cà phê, hạ
điều, hạt tiêu…thì các doanh nghiệp phải xây dựng và sớm hoàn chỉnh để áp
dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001 và ISO 14000.
Thứ hai tất cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực hay là bất kỳ một mặt hàng
nào xuất khẩu cũng đều phải tạo lập cho mình một thương hiệu : Muốn xuất
khẩu trực tiếp thì các mặt hàng, các sản phẩm cần có nhãn hiệu riêng của
mình.
Thứ ba các doanh nghiệp phải biết tự quảng bá sản phẩm cuả mình trên
tồn thế giới, chúng ta phải biết quảng bá cho các sản phẩm cho mình, đưa
sản phẩm của mình đến những nơi nào mà họ chưa biết, khẳng định vị thế
với họ bằng chất và quy cách làm ăn của ta .
Bằng cách này hay cách khác việc mở rộng thị trường xuất khẩu đối với
nước ta có ý nghĩa lớn.
12


3. Đa dạng hố các hình thức và phương thức xuất khẩu hàng chủ lực .
Đa dạng hố các hình thức xuất khẩu hàng chủ lực có nghĩa là hàng xuất
khẩu của chúng ta phải tìm được hình thức xuất khẩu tiện cho ta nhất, có thể
xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là các nhà
sản xuất và kinh doanh bán hàng trực tiếp cho người mua nước ngoài hoặc
mua hàng trực tiếp, từ người sản xuất hay kinh doanh nước ngồi khơng qua
trung gian. Xuất khẩu gián tiếp là xuất khẩu qua trung gian thương mại. Mỗi
doanh nghiệp nên lựa chọn hình thức xuất khẩu có lợi nhất cho mình
Đa dạng hố phương thức xuất khẩu hàng chủ lực có nghĩa là ta xuất
khẩu bằng phương tiện gì ? vận chuyển bằng đường biển, đường sông, hay

đường không …chúng ta nên chọn phương tiện vừa rẻ lại an tồn cho hàng
hố xuất.
Đa dạng hố hình thức và phương thức xuất khẩu hàng chủ lực sẽ giúp
cho các doanh nghiệp giảm chi phí vận chuyển xuống mức tối thiểu vừa
nhanh lại vừa đảm bảo chất lượng.
4. Đầu tư và hỗ trợ của nhà nước cho mặt hàng xuất khẩu .
Được sự đầu tư và hỗ trợ của nhà nước cho mặt hàng xuất khẩu là một
việc hết sức thuận đối với mỗi doanh nghiệp khi xuất khẩu.
Chính phủ có chính sách hỗ trợ về giống, về phương thức. Đầu tiên khi
nuôi trồng một loại giống mới thì chính phủ sẽ hỗ trợ về giống cho các vùng
đã qui hoạch để họ nghiên cứu, tìm ra một loại giống tương tự nhưng với giá
cả thấp hơn so với hàng nhập khẩu sẽ giảm chi phí hơn. Chính phủ hướng
dẫn phương thức ni trồng đạt hiệu quả cao nhất, chất lượng tốt mà thu
hoạch lại cao.

13


Đối với các mặt hàng như da giày, dệt may…thu hút đầu tư cho sản xuất
nguyên phụ liệu đầu vào, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép giảm chi
phí đầu vào như đã trình bày tại đề án phát triển xuất khẩu ngành da giày.
Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng (như đường sá, điện nước, xử lý ô nhiễm
môi trường), Hỗ trợ chính sách về đào tạo lao động.
Nhà nước hỗ trợ vốn cho nông dân để cải tạo vườn, mua sắm các trang
thiết bị. Đồng thời hỗ trợ tín dụng cho tạm nhập nguyên vật liệu để chế biến
xuất khẩu.
Ở mặt hàng rau quả nhà nước tiếp tục hỗ trợ kinh phí để nhập khẩu cơng
nghệ mới phục vụ cho biến.
Đặc biệt nhà nước nên đầu tư cho khâu sơ chế sau thu hoạch để đảm bảo
độ đồng đều và chất lượng của sản phẩm từ đó tăng giá trị hàng xuất khẩu .

5. Hồn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu hàng chủ lực .
Bên cạnh sự đầu tư và hỗ trợ của mình phục vụ cho xuất khẩu thì chính
phủ nên tiếp tục triển khai Quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000
“về một số chính sách khuyến khích phát triển các ngành nghề”. Do đó, để
phát triển bền vững phải có chính sách của nhà nước với tư tưởng xuyên suốt
trong đó là “tối đa hoá sự trợ giúp, tối thiểu hoá việc huy động, đIều tiết các
ngành nghề”qua kênh tài chính, phân phối thu nhập. Trên tinh thần đó những
chính sách và cơ chế quản lý cần phải thực hiện là :
Thứ nhất, phần đầu tư cho các mặt hàng xuất khẩu phải tương xứng với
đóng góp GDP của các mặt hàng. Phần đầu tư này chủ yếu dành cho phát
triển và xây dựng cơ sở hạ tầng, nghiên cứu khoa học, phát triển y tế, giáo
dục .
Thứ hai, Tạo và khai thông các nguồn đầu tư trong dân bằng cách điều
tiết quan hệ tỷ giá giữa hàng hoá và dịch vụ đầu vào.
14


Thứ ba, thực hiện thuế xuất khẩu bằng 0% đối với sản phẩm hàng hố
nơng, lâm, thuỷ sản, cơng nghệp, ngành nghề(dệt may …)
Thứ tư, cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan để có những
biện pháp kiểm soát chặt chẽ, nghiêm khắc hơn với những doanh nghiệp vi
phạm để bảo vệ uy tín của mặt hàng xuất khẩu.

KẾT LUẬN
Có thể nói trong những năm qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam đang trên đà thắng lợi, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng,
chúng ta cần phải duy trì và phát huy nó vững mạnh hơn, tạo được tiếng
vang trên thị trường quốc tế, để lại những ấn tượng sâu đậm mỗi khi dùng
sản phẩm của mình. đất nước Việt Nam nói riêng cũng như các nước khác
trên tồn thế giới nói chung muốn tham gia hội nhập kinh tế, trở thành nước

xuất khẩu hàng đầu thế giới thì đều phải coi trọng vấn đề xuất khẩu, vì nó
góp phần rất lớn tới sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Bằng con
đường xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà nền kinh tế
nước ta tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Trải qua bao nhiêu khó
khăn và gian khổ, bị cấm vận rồi lại bị đặt hạn ngạch …chúng ta vẫn khơng
ngại khó vươn lên. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu nay chúng ta trở thành
một trong những nước lớn mạnh trong khu vực. Tình hình xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực, những thuận lợi và khó khăn đã được em phân tích ở trên đều
là nền tảng cho em sau này. Em đang là sinh viên trường quản lý kinh doanh
thì những kiến nghị trên như : qui hoạch và phát triển các mặt hàng chủ lực,
mở rộng thị trường, đa dạng hoá các hình thức và phương thức xuất khẩu,
15


đầu tư và hỗ trợ của nhà nước cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực và hồn thiện
chính sách xuất khẩu hàng chủ lực lại là một bàn đạp vững chắc càng khiến
em khẳng định hơn chỉ bằng con đường xuất khẩu thì đất nước ta mới phát
triển nhanh được.Với những vốn kiến thức phong phú được học về quản lý
và kinh doanh ở trường em tin rằng khi ra trường mình sẽ là một con người
có ích cho xã hội .

Tài liệu tham khảo :
Giáo trình Ngoại Thương Trường Đại học Quản lý Kinh doanh Hà Nội .
Xuất bản năm 1998.
Báo ngoại thương số 11 ra ngày 20/4/2003.
Thời báo kinh tế Việt Nam. Số 114 ra ngày 23/9/2002, số 64 ra ngày
29/5/2002.
Phát triển kinh tế . Xuất bản tháng 3 năm 2003.
Nghiên cứu và phát triển . Xuất bản năm 2003.


16


17



×