Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích bài thơ tống biệt hành của thâm tâm văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.92 KB, 8 trang )

Phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm văn 11
MARCH 18, 2015 8:57 AMLƯỢT XEM : 82

Phan tich bai tho Tong biet hanh cua Tham Tam – Đề bài: Em hãy viết bài văn Phân tích
bài thơ Tống biệt hành của nhà thơ Thâm Tâm trong chương trình văn học lớp 11 tập 2.
Có biết bao nhiêu nhà thơ tài năng nhưng số phận chỉ cho họ một cuộc đời ngắn ngủi. Điều đó
đồng nghĩa với việc sự nghiệp sáng tác thơ ca của họ cũng rất ngắn ngủi cho nên nó rất ít tác
phẩm. Một trong những nhà thơ đó ta phải kể đến nhà thơ Thâm Tâm. Ông là một nhà thơ
nhưng ông cũng đồng thời là một chiến sĩ cộng sản chính vì thế trong đợt chiến Cao Bắc Lạng
ông đã hi sinh. Và đặc biệt trong những tác phẩm ít ỏi của ông phải kể đến bài thơ Tống biệt
hành.
Tống biệt hành" vào năm 1940. Bài thơ thể hiện niềm mến yêu, sự ngưỡng mộ và trân trọng đối
với người lên đường đi xa vì nghĩa lớn.
Nhan đề của bài thơ có vẻ độc đáo và rất lạ, tống biệt hành có nghĩa là tiễn người đi xa Cái chỗ
khiến cho người ta dễ hiểu lầm là do hành vừa có nghĩa là đi dời khỏi mà lại vừa có nghĩa là bài
hát. Tuy nhiên chúng ta dựa vào những câu thơ trong bài thì vẫn biết được đây là hành mang
nghĩa dời đi.

Cảnh đưa tiễn diễn ra vào một buổi chiều, không hề có bến đò, dòng sông, không diễn ra trong
khoảnh khắc hoàng hôn mà vẫn buồn:
“Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”
Đảo ngữ đưa người nhấn mạnh trạng thái hành động mà câu thơ muốn nói đến là hành động
tiễn đưa mọt người bạn. Và cái hành đông tiễn đưa ấy ta không đưa qua sông mà chỉ ngắm
nhìn từ xa, tiễn rồi mà mắt cứ trông hoài về phía người đi. Nhưng mà tại sao tác giả lại nghe
tiếng sóng ở trong lòng. Câu hỏi tu từ được cất lên mà không có ai đáp lại. Phải chăng đó chính
là sóng lòng trong chính nhân vật trữ tình?. Tiếng sóng ấy thể hiện sự buồn thương của nhà
thơ khi phải tiễn đưa người mà mình yêu quý. Buổi chia tay đưa tiễn ấy không có một ánh nắng
vàng vọt mà sao lại thấy hoàng hôn. Hình ảnh hoàng hôn ở đây gợi cho ta cảm giác chia ly


giống như một ngày tan xuống nhường cho bóng đêm ngự trị. Câu hỏi tu từ ấy một lần nữa


được cất lên sao mà tha thiết, vấn vương đến thế. Và tác giả chỉ đưa người ấy với sự tiễn biệt
giã gia đình dửng dưng.
Những câu thơ tiếp theo hình ảnh li khách đang được nhắc đến, đó là một hình ảnh con người
ôm chí lớn và quyết tâm ra đi:
“- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!”
Li khách có nghĩa khách ra đi, người ra đi. Đó là cách gọi trang trọng và thân thương. Đoạn thơ
cho ta thấy một sự cảm phục không hề nhỏ của nhà thơ dành cho người ra đi. Điệp từ “li
khách” như vang lên ca tụng ý chí của người ra đi. Con đường kia dẫu cho nhưng một khi chí
lớn chưa thành thì nhất định không trở về với hai bàn tay trắng. Ý chí ấy thể hiện rất cương
quyết nếu không thành thì không về dặn mẹ già đừng mong vì nếu chưa tròn sự nghiệp thì
chưa về. Câu thơ khiến cho người ta cảm thấy đó giống như một người con bất hiếu chỉ nghĩ
đến hoài bão của mình mà không quan tâm đến mẹ già ở nhà. Nhưng đó chỉ là cách để nhà thơ
thể hiện ý chí lớn lao ấy mà thôi.
Về phương diện tình cảm thì tác giả nói đên những người thân trong gia đình. Người đó có thể
là con là em trong gia đình ấy:
“Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay. . ”
Đó là những người chị người em của người ra đi. Họ mang đến cho ta biết bao nhiêu tình thân

thương yêu của những người trong một mái nhà. Người em, người anh của họ ra đi về nghĩa
lớn vào những khoảng thời gian hôm qua và hôm nay, mùa hè và mùa thu. Tưởng chừng sự ra
đi trong hôm trước và hôm sau nó dài tựa qua đi một mùa của thiện nhiên đất trời. có thể thấy
rằng người ở lại và người ra đi đều mang trong mình một nỗi vấn vương lớn.
Đoạn thơ cuối cất lên với nhiều cách hiểu khác nhau nhưng chúng ta thấy được sự dư ba trong
chính những câu thơ ấy:
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say. . . ”
Đó là cái đi dửng dưng của người li khách về nghĩa lớn trong mình. Người ta có thể hiểu nhầm
rằng người ra đi không thương cho mẹ già em nhỏ, chị gái nhưng không phải thế. Li khách rất
thương là đằng khác nhưng mà khi đã vì nghĩa lớn thì vẫn cứ phải dứt áo ra đi.
Qua đây ta thấy Thâm tâm đã mang đến cho chúng ta một chí lớn không hề nhỏ trong bài thơ
này. Nó như dạy ta biết hi sinh vì đại nghiệp lớn. Tình cảm ca nhân,tình thương yêu của những
người thân bên gia đình ai mà không trân trọng thế nhưng vì trân trọng nên mới phải ra đi. Cái
nghiệp lớn kia phải chăng chính là cái sự nghiệp đấu tranh dành độc lập cho tổ quốc dân tộc
của nhà thơ. người li khách kia hay chính là nhà thơ. Nói tóm lại dù thế nào đi nữa ta vẫn thấy
được một tinh thần mọt ý chí lớn trong bài thơ này.


Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm
April 20, 2015 - Category: Văn mẫu lớp 11, Văn mẫu THPT - Author: admin

Đề bài: Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm
Bài làm
Thơ mới chỉ có hai cuộc tiễn đưa đặc biệt: một của Thế Lữ – “Giây phút chạnh lòng” và một nửa của Thâm Tâm – “Tống biệt hành”.
Còn thì chỉ là những cuộc biệt ly thông thường, cuộc chia tay giữa người tình với người tình, giữa người thân với người thân.
Thương nhớ chỉ quẩn quanh nơi những không gian xa cách, những mối tình phôi pha…
Anh biết em đi chẳng trở về

Dặm ngàn liễu khuất với sương khe
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.
(Thái Can – Anh biết em đi)
Tất nhiên, những khúc ly biệt ấy đều có những giá trị, những hấp dẫn. Nhưng ta càng biết quý những cuộc biệt ly của những tầm
cao nhân cách.
Đó là những khúc biệt ly mang chất thẩm mỹ bi tráng.
Thế Lữ và Thâm Tâm đã cảm hứng từ cuộc tiễn đưa con người chí lớn, con người khát vọng cái cao cả – khát vọng lý tưởng nồng
cháy:
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Anh đi vui cảnh lạ đường xa
Đem chí bình sinh giải nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ
(Giây phút chạnh lòng)


Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về, bàn tay không
Thì đừng bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
(Tống biệt hành)
Trong bi kịch, các nhân vật trữ tình này vẫn lồng lộng chất tráng ca.
Đó cũng chính là tâm hồn thời đại trong bối cảnh không khí thời đại.

Bình giảng Tống biệt hành
Thuở ấy, những thanh niên trí thức, sinh viên học sinh đã cảm nhận được cái vô nghĩa của những nhân cách an phận, nhàn du nhỏ

bé mà sau này, Chế Lan Viên viết:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn

Lương thiện đấy, nhưng không có nội dung!
Thậm chí, có những người “vô tư”
Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua lê
Lòng ta đã hóa thành rêu phong chuyện cũ.


(Chế Lan Viên)
Những con người nhỏ bé ấy đã đứng ngoài những cảm nhận về nỗi dân tộc đang trong gông xiềng nô lệ, về nỗi nhân dân đang đói
khổ, đau khổ… Kiếp người cơm vãi cơm rơi, Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi…” (Tố Hữu), về nỗi những Chí Phèo đang lâm vào
thảm trạng tha hóa, và đang bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện… (nhân vật của Nam Cao).
Có một tầng lớp thanh niên có học biết nặng lòng với đất nước, với nhân dân. Họ ưu tư, trăn trở trên đời sống chung của dân tộc.
Nhưng nhìn quanh, họ chỉ thấy những bức tường bế tắc!
Thuở ấy, không khí thời đại ảm đạm lắm.
Một lá cờ Cần Vương phất cao với bao tâm huyết. Rồi từ Bắc chí Nam, Cần Vương đi vào thất bại. Những chiến sĩ Đông Kinh
Nghĩa Thục ra quân, những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… cũng lâm vào thất bại. Vận hội may mắn của cái dân tộc điêu linh
này chưa tới? Rồi Việt Nam Quốc Dân đảng nồng nhiệt liều thân… cũng chỉ để lại một tiếng bom của Phạm Hồng Thái. Không
thành công cũng thành nhân”…
Đúng như sau này, Chế Lan Viên viết:
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng giọt thấm mưa rơi…
Trong không khí thời đại ấy, những con người có học, có tâm huyết đã buồn. Ai đã chê Thơ Mới buồn? Thậm chí, ai đã cho Thơ

Mới là bạc nhược? Hơn nữa, ai đã kết tội Thơ Mới là có lợi cho địch? Đến bây giờ, khi không khí của hai cuộc chiến tranh đã lùi xa,
khi mọi lí lẽ đã được suy ngẫm, kiểm nghiệm, chúng ta mới biết sợ những thái độ “khoa học” chưa hoàn chỉnh này.
Chất buồn của Thơ Mới là chất buồn mang tầm cao thời đại. Đó là chất buồn nhân tính.
“Tống biệt hành” là khúc trữ tình buồn ấy, là khúc bi tráng ca của một tâm hồn non nước.
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Trên bình diện nội dung công khai, đã có hai nhân vật trữ tình: người ra đi và người đưa tiễn. Rồi cả ở những đoạn thơ sau, vẫn là
hai con người ấy:
Đưa người ta chỉ đưa người ấy


… Ta biết người buồn chiều hôm trước
… Ta biết người buồn sáng hôm nay
Nhưng có thật là có hai người không? Hay chỉ là một nhân vật trữ tình ở dạng phân thân? Hai con người này có những ranh giới
nhập nhoạng mơ hồ, có khi chập vào nhau:” ”… tiếng sóng ở trong lòng” và “hoàng hôn trong mắt trong”; có khi ở trong nhau mà tự
vấn:
Người đi? ừ nhỉ, người đi thật!
Đoạn thơ đầu, bằng thể thất ngôn cổ điển, bằng nghi vấn tu từ thể điệp… Thâm Tâm đưa ta vào một không khí Đường thi trang
trọng. Ta chìm vào trong một trầm tư.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Như một hành động chọn lọc “…ta chỉ đưa người ấy” cuộc tiễn đưa bắt đầu đi vào chiều hoành tráng “một giã gia đình, một dửng
dưng”. Tính cách thời đại xuất hiện. Con người ấy có dáng dấp Kinh Kha “Ai đồng chí trong đám người tiểu kỷ, Trên kinh thành lơ
lửng một thanh gươm…” con người ấy mang phong thái chiến sĩ “Tráng sĩ một đi không trở về…”.

Cái chất lãng mạn hoành tráng này, về sau sẽ được tái diễn trong những vần thơ của Quang Dũng, Chính Hữu ở giai đoạn thơ thời
đầu kháng chiến chống Pháp (1946-1947-1948):
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Nhớ đếm ra đi đất trời bốc lửa


Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…
(Ngày về – Chính Hữu)
Cao cả trác tuvệt như vậy mà ai lại dám bảo đó là những vần thơ “buồn rớt, mộng rớt… yêng hùng…” ai lại dám bắt “lột xác, nhận
đường…”
Thâm Tâm đi bước thứ nhất, để cho Quang Dũng, Chính Hữu, đi bước thứ hai trong cảm hứng lãng mạn hoành tráng.
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Vì sao người buồn? Không phải vì cuộc ra đi bịn rịn. Người buồn vì nỗi những nhân cách ở tầm thông thường không thể hiểu
người. Đó là những “một chị, hai chị cũng như sen, khuyên nốt em trai dòng lệ sót”
Nỗi buồn ấy hiện ra trong buổi chiều.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Vì sao người buồn? Vì phải xa những tấm lòng trẻ thơ, xa những “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”. Nỗi buồn ấy lấy bối cảnh một ban
mai rực rỡ (Trời chưa mùa thu tươi lắm thay) tương ứng hài hòa với ánh sáng tinh khôi trong mắt trẻ. Đó là thẩm mỹ của cái đẹp –
buồn.
Người đi? Một dấu hỏi.

Ừ nhỉ, người đi thực!
Một trả lời trong cảm thán. Cũng có thể là một tự hỏi mình.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Nhân vật bà mẹ đến đây mới thật sư xuất hiện. Trước, trong câu: Ba năm mẹ già cũng đừng mong, chỉ là một cách nói. Bi kịch của
lòng mẹ là bi kịch của:
Lá vàng thì ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
(Ca dao)
Chị thà coi như là hạt bụi


Đó là một câu tâm lý học. Các bà chị đã tự bằng lòng mình về việc thương em (Khuyên nốt em trai dòng lệ sót); bây giờ, lòng thành
thanh thản.
Em thà coi như hơi rượu say
Thâm Tâm dành cho “em” cái ngôi kết thúc. Người tình của Dũng là nàng Loan (nhân vật của Nhất Linh), trong tiến đưa đã:
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Dưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Thế Lữ
Người tình của chàng trai chí lớn này thì, trong ly biệt, hoài niệm một chất nồng say đã được hưởng… Câu thơ không tiếc nuối, chỉ
là man mác. Nó ngân vang tạo ra dư âm chung của toàn bài…
Sau 1945, Thâm Tâm cùng với dân tộc, đi vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp. Và anh đã chết cái chết đẹp của người
chiến sĩ.
Phải chăng, bằng chính cuộc đời mình, Thâm Tâm đã thực hiện hóa cái giấc mơ của nhân vật trữ tình trong thơ mình?



×