Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

mot so van de thao luan mon tu tuong ho chi minh lop trung cap ly luan chinh tri hanh chinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.9 KB, 22 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ THẢO LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
Vấn đề: Nguyên tắc đại đoàn kết
Gợi ý trả lời:
Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết: Theo Hồ Chí Minh đại
đoàn kết là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai trò, nội dung, nguyên tắc, phương
pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức
mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội.
Nguyên tắc Đại đoàn kết: Dù cách mạng Việt Nam trải qua những thời kỳ lịch
sử khác nhau, song chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây
dựng, hoàn thiện và tuân theo những nguyên tắc nhất quán sau.
1- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích của
quốc gia, dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác
nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác
nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp
có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có
đoàn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như
thế nào.
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát
huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu
thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào
sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi
ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức
mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là
nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp
để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
2- Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân


Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được
Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa mác-Leenin,
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững
chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai
trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó
khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết


giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
3- Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài,
chặt chẽ
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn
đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như
vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách
mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và
tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất
về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai
cấp công nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin: ”Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững
chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng
cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội
có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của
tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập
hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng
trong khu vực và trên thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết

quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí
Minh.
4- Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê
bình, phê bình
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn
bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần
phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương
châm “cầu đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu
tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết
xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục
những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất
trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình
trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc
thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc
tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh huớng
đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta
làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và
cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
2


Liên hệ thực tiễn (tự liên hệ) Khái quát tình hình, Thực trạng (ưu, khuyết điểm
nguyên nhân), giải pháp, đề xuất)
VẤN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP ĐẠI ĐOÀN KẾT
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất
của dân tộc, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng
về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là một trong những tư tưởng có giá trị

trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và
nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.Trong
hệ thống tư tưởng ấy, đặc sắc nhất là cách thức, phương pháp mà Người thực hiện để
vận động, tập hợp, quy tụ, đoàn kết mọi người.
Theo Hồ Chí Minh đại đoàn kết là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai trò,
nội dung, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát
huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh
cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp đại đoàn kết theo Hồ Chí Minh:
- Phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục.
Tuyên truyền, vận động, giáo dục thuyết phục nhằm thức tỉnh mọi người, để họ tự
nguyện, tự giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể trong Mặt trận.
Theo Hồ Chí Minh, nội dung tuyên truyền phái vừa đáp ứng những nguyện vọng,
quyền lợi cơ bản của mỗi dân tộc, mỗi giai cấp, vừa đáp ứng yêu. cầu của thực tiễn
cách mạng. Tùy theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng,
Đảng đề ra những mục tiêu chiến lược phản ánh đúng những đòi hỏi cấp bách của lịch
sử, những khát vọng cháy bỏng của nhân dân.Đồng thời, Đảng còn phải đề ra nội
dung tuyên truyền, vận động sát hợp với từng đối tượng, từng cộng đồng xã hội.
Trước cách mạng tháng tám năm 1945, Người nêu cao mục tiêu chiến lược: ‘’Độc
lập dân tộc, người cày có ruộng’’. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Người chỉ rõ
mụctiêu chiến lược của thời kỳ này là : Độc lập hoàn toàn cho dân tộc, thống nhất
trọn vẹn cho đất nước; Người khảng định ‘’Không có gì quý hơn độc lập tự do’’.
Hồ Chí Minh cho rằng, hiệu quả của phương pháp tuyên truyền còn tày thuộc vào
việc sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động phù họp. Người yêu cầu: Viết phải
ngắn gọn, dễ hiểu, vừa trí thức, vừa bình dân, vừa sâu sắc, vừa giản dị; phải bằng ngôn
ngữ thông thường gần gũivới mọi người dân Việt Nam. Nói để ai cũng hiếu được, hiểu
được thì nhớ được, nhớ được thì làm được. Muốn quần chúng tin theo, người cán bộ
tuyên truyền phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, phải đi sâu, đi sát đồng
bào, hiểu được hoàn cảnh và nguyện vọng của đồng bào; phải là một tấm gương, một
mẫu mực từ lời nói đến việc làm, có sức lôi cuốn, thu phục quần chúng.

- Phương pháp tổ chức.
Muốn xây dựng, củng cố đại đoàn kết, theo Hồ Chí Minh cần phải có phương
pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng, củng cố, phát ừiển hệ thống
chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
3


Là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải đề ra
được đường lối đại đoàn kết đúng đắn; Đảng phải đoàn kết, thống nhất cả trong tư
tưởng lẫn hành động, từ trên xuống dưới; Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ
luật, tự giác; đảng viên là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Để Nhà nước đề ra chính sách thực hiện đại đoàn kết đáp ứng nguyện vọng của
nhân dân và phù hợp với thực tiễn, Hồ Chí Minhyêu cầu: Phải xây dựng Nhà nước
thật sự là của dân, do dân, vì dân; phải không ngừng cải cách bộ máy hành chính và
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cán bộ công chức nhà nước phải tận tụy, trung thành
phục vụ nhân dân, phải là “công bộc của dân”.
Là cái vỏ vật chất của khối đại đoàn kết, là sợi dây gắn kết Đảng với dân, Hồ Chí
Minh yêu cầu Mặt trận và các đoàn thể nhân dân: Cương lĩnh đề ra phải thiết thực,
ngắn gọn, rõ ràng; hình thức tổ chức phải phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ
nhận thức của quần chúng; cán bộ phải óc nghĩ, chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói,
tay làm; phải làm tốt công tác dân vận.
- Phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ.
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là phương pháp xử lý khoa học mối
tương quan ba chiều giữa: Cách mạng - trung gian - phản cách mạng, nhằm mở rộng
đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức thấp nhất trận tuyến thù
địch.
Đối với lực lượng cách mạng: Khai-thác, phát huy những điểm thống nhất, tương
đồng, hạn chế, khắc phục, tiến tới xóa bỏ dần những khác biệt về mục tiêu, lợi ích. Sự
đoàn kết, thống nhất của lực lượng cách mạng là điều kiện tiên quyết giúp cho cách

mạng thành công.
Đối với lực lượng trung gian : Xóa bỏ mọi thành kiến, mặt cảm, khơi gợi, cổ vũ ý
thức dân tộc, tinh thần yêu nước; chân thành hợp tác, trọng dụng những người có tài ,
có đức giúp dân, giúp nước.
VẤN ĐỀ: Phân tích chữ kiệm theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Mở bài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách
mạng. Suốt cuộc đời, Người đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là
sức mạnh, là nhân cách của người cán bộ, đảng viên. Người coi đó là cái gốc của cây,
ngọn, nguồn của sông nước. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư được xem là 8 chữ
vàng mà Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phấn đấu thực
hiện thật tốt để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiệm là một phẩm chất của đạo
đức cách mạng. Kiệm có vai trò quan trọng hình thành nên đạo đức của người cán bộ,
đặc biệt trong điều kiện đất nước đang trong thời kỳ khắc phục và xây dựng đất nước.
Thân bài
Theo Hồ Chí Minh, Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, mà những việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ
quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Tiết kiệm là tích cực. “Tiết
4


kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm
cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức
sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực,
chứ không phải là tiêu cực”.
Hồ Chí minh đã chỉ ra ba nội dung cơ bản của việc tiết kiệm:
Thứ nhất, Tiết kiệm sức lao động. Tức là phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải
nâng cao năng suất lao động.
Tổ chức sắp xếp cho khéo là có chương trình, kế hoạch rõ ràng, cụ thể; làm việc

chu đáo là phải hết sức cẩn thận, đầy đủ, tỷ mỷ. Hai mặt đó có liên quan chặt chẽ với
nhau, làm tiền đề và bổ sung cho nhau để đem lại hiệu quả cao nhất cho công việc.
Bên cạnh đó phải biết tăng năng suất lao động, người cán bộ cần phải có trí tuệ, nhạy
bén giải quyết vấn đề nhanh chóng.
Đầu năm 1941, Bác Hồ về căn cứ địa Cao Bằng để trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Công tác huấn
luyện cán bộ càng trở nên cấp bách. Nhiều học trò của Bác đã trưởng thành và được
Người giao mở các lớp huấn luyện cán bộ cho phong trào. Chương trình và kế hoạch
các lớp huấn luyện được Người chỉ ra thật ngắn gọn nhưng rất khoa học và chu đáo:
Một là, huấn luyện cho ai? Hai là, huấn luyện những gì? Ba là, huấn luyện bao lâu?
Bốn là, huấn luyện ở đâu? Năm là, lấy gì ăn mà huấn luyện?
Ngày 3-9-1945, Người chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời. Phá
bỏ những nghi thức thông thường, Người đi ngay vào nội dung cuộc họp, nêu rõ sáu
công việc cấp bách phải làm. Tất cả mọi vấn đề được Bác nêu ra chỉ trong 30 phút.
Những khó khăn chồng chất, phức tạp của chế độ thực dân phong kiến để lại suốt tám
mươi năm, những vấn đề sinh tử, cấp bách của dân tộc đã được Bác nêu ra một cách
ngắn gọn, rõ ràng cùng với những phương hướng, đôi lúc cả những biện pháp để giải
quyết.
Thứ hai, Tiết kiệm thời giờ. Bác nói: “Thời giờ tức là tiền bạc”. Tiết kiệm thời
giờ của mình và tiết kiệm thời giờ của người khác.
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện
cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: "Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu,
bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc
cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm".
Trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí cấp tướng đến làm việc với Bác
sai hẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác
bảo: Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao
nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú đã
không giành được chủ động.
Thứ ba, Tiết kiệm tiền của. Phải tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân

và của chính mình. Việc này liên quan tới tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời giờ. Bác
là Chủ tịch nước nhưng Bác vẫn mang đôi dép cao su, mặc chiếc áo Kaki, thích ở Nhà
sàn…
Theo Hồ Chí Minh, Kiệm còn là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
tức là không tiêu tốn nhiều tiền của mà không thật cần thiết hoặc chưa cần thiết. Phải
biết sắp xếp thời gian, công việc khoa học. Do đó Theo HCM phòng, chống tính xa xỉ,
hoang phí, bừa bài là làm cách mạng là dân chủ và giúp chúng ta hoàn thành đầy đủ kế
hoạch.
5


Liên hệ thực tiễn
Hậu Giang là tỉnh thuần nông, được thành lập từ năm 2004. Sau hơn 10 năm
hình thành và phát triển, Tỉnh đã đạt nhiều thành tích đáng ghi nhận trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục…Riêng ngành giáo dục hiện nay có
hơn 338 trường từ cấp học mầm non dến THPT, 1 trường đại học, 1 trường cao đẳng, 1
trường TCCN và 2 trường TC nghề; giáo viên đạt chuẩn các cấp trê 98%, 100% cán bộ
quản lý được học các lớp QLGD và lý luận chính trị.
Thành tựu
Trong công tác thực hành tiết kiệm toàn ngành giáo dục đã và đang có nhiều
chính sách, chủ trương phù hợp với thực tiễn như tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc
gia để lấy kết quả xét tuyển đại học tiết kiệm được nhiều tiền của của nhân dân, nhà
nước; tiết kiệm được thời gian, công sức của học sinh, phụ huynh và cán bộ, giáo viên
toàn ngành; chương trình cải cách giáo dục.
Cán bộ, viên chức chấp hành nghiêm giờ giấc làm việc ngày 8 giờ là tiết kiệm
thời gian, không lãng phí tiền lương theo chỉ thị của tỉnh.
Việc học tập, nâng cao trình độ của cán bộ, viên chức được tăng cường, có
nhiều giải pháp, sáng kiến phục vụ tốt trong công tác quản lý, đặc biệt là CNTT. Góp
phần tăng năng suất làm việc, quản lý chặt chẽ, khoa học.
Hạn chế

Bên cạnh những thành tự đạt được, vẫn còn những hạn chế như: việc lãng phí
của công nói chung, những công trình xây dựng hàng tỷ đồng không đựoc sử dụng
hoặc khai thác hiệu quả.
Riêng ngành giáo dục, việc lãng phí trong xây dựng trường không có học sinh,
những công trình trường học xây dựng chất lượng không đúng với số tiền đầu tư, dẫn
đến khi đưa vào sử dụng không lâu đã bị xuống cấp, hư hỏng; Lãng phí trong đào tạo
nghề nghiệp, nhiều sinh viên đại học, thạc sĩ tốt nghiệp ( theo số liệu mới nhất đựoc
công bố khoảng 180000 nghìn thạc sĩ, cử nhân thất nghiệp).
Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, dự án đầu tư không hiệu quả lãng phí công
sức, thời gian và cả tiền của; Một số cán, bộ viên chức lãng phí thời gian trong giờ làm
việc.
Giải pháp khắc phục
Hiểu thấu tư tưởng Hồ Chí Minh về chữ Kiệm. Mỗi cán bộ, đảng viên tiếp tục
đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực
hiên Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI.
Tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đây là con đường quan trọng hình thành và phát
triển, hoàn thiện nhân cách của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra con
đường cơ bản cho người cán bộ, đảng viên tự vươn lên hoàn thiện mình là phải học
tập, rèn luyện bền bỉ suốt đời.
Bằng hoạt động thực tiễn. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên thì việc tu dưỡng rèn
luyện phải được thực hiện bằng hoạt động thực tiễn của bản thân, mỗi cá nhân cần
thực hành tiết kiệm trong chi tiêu, không lãng phí thời gian công tác, tăng cường năng
cao năng suất lao động.
Tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân tự giác thực hành tiết kiệm.
Kết luận
6


Vấn đề : Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Gợi ý trả lời:

Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của
Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo
cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Trong phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa
khác nhau: Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với
chế độ tư bản chủ nghĩa; Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng
biệt của nó (về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…); Định nghĩa chủ
nghĩa xã hội bằng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của nó, v.v. Trong các
cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các bản chất đặc trưng, tính
ưu việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây dựng, cụ thể:
1. Về đặc trưng bản chất cũa chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân đế huy động được tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập
thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát
triển hết khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp
đỡ để tiến kịp miền xuôi. Hòa bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
2. Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội sau khi

được nhận thức để đạt tới trong quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
- Về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ. Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
7


- Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, được tạo lập trên cơ sở sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng ở thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu.
Từ nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa.
- Về văn hóa: Phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội,
thậm chí cần đi trước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp. Bởi vậy, cán bộ phải
có văn hóa làm gốc, công nhân và nông dân phải biết văn hóa.
- Về quan hệ xã hợi: Xây dựng cho được môi quan hệ tôt đẹp giữa người với
người. Hồ Chí Minh căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện công bằng xã hội là tạo ra động lực
cho chủ nghĩa xã hội. Và, để tạo động lực cho chủ nghĩa xã hội, còn cần phải sử dụng
vai trò điều chỉnh của các nhân tố về chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
3. Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc
Chủ nghĩa xã hội với những ưu việt nội tại ừên tất cả các lĩnh vực tạo ra cơ sở
bảo đảm chắc chắn và bền vững nhất cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc. Những
cơ sở đó là: Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ nguyên nhân kinh tế sâu xa của tình trạng
người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
sinh ra. Tạo ra cơ sở cơ bản này, chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng con người,
phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước phát triển chưa từng có cho dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội là thực hiện cách mạng về kinh tế,
văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Ket quả của cuộc cách mạng này là tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật cao, văn hóa phát triển của chủ nghĩa xã hội. Ket quả này là một cơ sở một nhân tố cơ bản để thực hiện củng cố, giữ vững độc lập và phát triển dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, bản chất của chủ nghĩa xã hội là xây dựng
một xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo Người, đây là chiếc chìa khóa vạn năng để
nhân dân Việt Nam xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa với sức mạnh kỳ
diệu của nhân dân là chủ và biết làm chủ xã hội. Sức mạnh kỳ diệu này là cơ sở để
nhân dân Việt Nam củng cố, giữ vững độc lập dân tộc, biết cách tự bảo vệ và phát
triển.
4. Liên hệ thực tế phải đảm bảo các nội dung sau:
- Đánh giá khái quát tình hình
- Thực trạng (ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân) – liên hệ phần có gạch dưới
- Giải pháp

8


Vấn đề: Phân tích chữ “Kiệm” trong phẩm chất đạo đức của cán bộ theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
Gợi ý trả lời:
Kiệm là thế nào?
Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
Theo Hồ Chí Minh Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng
xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm có lợi cho đồng bào, cho tổ quốc thì dù
bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng.
Vì sao phải tiết kiệm
- Để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc.
- Để tăng thêm tiền vốn xây dựng đất nước. Điều này càng quan trọng khi nước
ta là nước dân chủ nhân dân, không thể tích lũy vốn theo kiểu thực dân, đế quốc bằng
cách cướp bóc thuộc địa, bóc lột công nhân, nông dân, vay nợ nước ngoài...
- Để nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, hậu quả của
80 năm đô hộ, vơ vét của đế quốc Pháp rồi đến phát xít Nhật.

Nội dung tiết kiệm: Hồ Chí Minh đã chỉ ra 3 nội dung cơ bản đó là:
+ Tiết kiệm sức lao động. Tức là phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao
năng suất lao động, “1 người làm bằng 2, 3 người”;
+ Tiết kiệm thời giờ. Bác nói: “Thời giờ tức là tiền bạc”; “Một tấc bóng là một
thước vàng”. Tiết kiệm thời giờ của mình và tiết kiệm thời giờ của người khác; Muốn
tiết kiệm thời gian, bất kỳ việc gì, nghề cũng phải chăm chỉ, làm nhanh, không nên
chần chừ.
+ Tiết kiệm tiền của. Phải tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân và của
chính mình. Việc này liên quan tới tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời giờ… Khi không
nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi
cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng.
Như thế mới đúng là kiệm.
Mối quan hệ cần và kiệm:
Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người
Cần mà không kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái
thùng không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn
không.

9


Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã
không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ
thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.
Khổng Tử nói: “Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít. Làm ra mau, dùng đi
chậm thì của cải luôn luôn đầy đủ”.
Ai cần phải tiết kiệm
- Tất cả mọi người đều phải tiết kiệm. Trước hết là các cơ quan, bộ đội, các xí
nghiệp.
- Nội dung tiết kiệm phải cụ thể, thiết thực ngay trong vị trí công tác của mình.

Bộ đội, chiến sĩ thì tiết kiệm đạn, quân nhu, chiến lợi phẩm...; cán bộ cơ quan hành
chính thì tiết kiệm thời gian, giấy, mực...; cán bộ tư pháp tiết kiệm thời giờ cho dân khi
triển khai nhanh công việc...
Ý nghĩa của tiết kiệm: là biện pháp chống tham ô, lãng phí, quan liêu hiệu quả
nhất, vì tham ô, lãng phí, quan liêu là cái xấu xa của chế độ cũ cần phải loại bỏ, theo
Bác, chúng ta làm cách mạng là để tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến, xây dựng
dân chủ mới. Đó là một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính.
Cho nên phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ, để chống tham ô, lãng
phí, quan liêu.
Liên hệ thực tế (phải đảm bảo các nội dung: Khái quát tình hình, Thực trạng
(ưu, khuyết điểm nguyên nhân), giải pháp, đề xuất). Lưu ý phải liên hệ ở cả 2 nội dung
tiết kiệm trong đời thường và tiết kiệm trong công việc.

VẤN ĐỀ : NHÀ NƯỚC VÌ DÂN
Kế thừa giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của
10


nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mac – Lênin, thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí minh đã xác định cách mạng VN tiến lên CNXH là tất yếu khách
quan, phù hợp với sự phát triển của lịch sử. Đồng thời, xây dựng một kiểu Nhà nước
phù hợp với thực tế Việt Nam – Nhà nước dân chủ nhân dân. Một Nhà nước của dân –
do dân - vì dân. Trong đó, Nội dung vì dân có là mục đích quan trọng mà Đảng và
Nhà nước ta hướng tới.
Khái niệm Nhà nước Cộng hòa XHCN:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ nhân dân là nhà nước phục vụ
nhân dân, đem lại lợi ích cho dân. Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu
mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con người là mục tiêu phấn đấu lâu dài như
Hồ Chủ tịch từng nêu rõ trách nhiệm của nhà nước trước hết là nhằm thỏa mãn các
nhu cầu thiết yểu nhất của nhân dân, cụ thể là:

“Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chô ở.
Làm cho dân có học hành”1.
Nhà nước quan tâm, chăm lo cho đời sống của nhân dân bằng cách hướng dẫn
nhân dân tự chăm lo thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của mình, chứ không phải làm thay
dân.
Nhà nước vì dân, điều này phải hiểu là nhà nước tồn tại và hoạt động vì quyền
lợi của toàn thể nhân dân lao động, chứ không vì quyền lợi của một nhóm người hay
một tập đoàn xã hội nào đó như Nhà nước ở các chế độ xã hội khác.
Một nhà nước đặt lợi ích của dân lên trên hết, nhà nước đó phải có đường lối,
chủ trương và các chính sách đều phục vụ lợi ích của dân.
Công việc gì của nhà nước mà có lợi cho dân là phải làm ngay, việc có hại thì
phải tránh. Năm 1945, Người từng viết thư Gửi Úy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện
và làng để dặn dò:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”2.
Bên cạnh đem lại lợi ích cho dân, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, nhà
nước phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng
lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được mọi người dân ủng hộ, xây dựng. Và điều
đặc biệt quan trọng là để phục vụ tốt nhân dân, thì bộ máy nhà nước phải thật sự liêm
khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, V.V..
Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định rất rõ: “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật
thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe
ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm
quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm
trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”1.

Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức
thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không
chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
1

11


Thực tiễn trong ngành giáo dục tỉnh Hậu Giang
Hậu Giang là tỉnh thuần nông, được thành lập từ năm 2004. Sau hơn 10 năm
hình thành và phát triển, Tỉnh đã đạt nhiều thành tích đáng ghi nhận trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục…
Thành tựu
Kinh tế: có nhiều chính sách phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện tốt kế hoạch xây dựng nông thôn mới. Công nghiệp hóa của địa phương từng
bước phát triển, có những khu công nghiệp hình thành, nông nghiệp từng bước cơ giới
hóa, nâng suất tăng cao.
Xã hội: Thực hiện tốt xây dựng xã nông thôn mới, chính sách hỗ trợ gia đình
nghèo, xây, cất nhà tình thương, tình nghĩa, chính sách đối với người có công cách
mạng.
Giáo dục: Tỉnh có nhiều chủ trương chính sách chăm lo cho sự nghiệp giáo dục,
đặc biệt là vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc như: xóa trường tre, lá, từng bước
đầu tư xây dựng trường lớp tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh đến lớp, xây dựng
trường học dân tộc nội trú, chỉ đạo cụ thể của UBND tỉnh phân công các sở, ban,
ngành đoàn thể tỉnh, các công ty, xí nghiệp nhận đỡ đầu các đơn vị trường học, hạn
chế mức thấp nhất tình trạng học sinh bỏ học, tỷ lệ lao động qua đào tạo được tăng lên.
Y tế: Nhiều trạm y tế cấp xã, phường, thị trấn đạt chuẩn, bệnh viện tỉnh được
đầu tư xây dựng khang trang đội ngũ y, bác sĩ tăng nhanh góp phần phục vụ tốt việc

chăn sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là việc vận động, hỗ trợ nhân dân đóng và sử
dụng BHYT…
Hạn chế
Giải pháp khắc phục

Vấn đề 4: Nguyên tắc đại đoàn kết
Gợi ý trả lời:
12


Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết: Theo Hồ Chí Minh đại
đoàn kết là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai trò, nội dung, nguyên tắc, phương
pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức
mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội.
Nguyên tắc Đại đoàn kết: Dù cách mạng Việt Nam trải qua những thời kỳ lịch
sử khác nhau, song chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây
dựng, hoàn thiện và tuân theo những nguyên tắc nhất quán sau.
1- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích của
quốc gia, dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác
nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác
nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp
có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có
đoàn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như
thế nào.
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát
huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu
thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào
sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi

ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức
mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là
nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp
để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
2- Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được
Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa mác-Leenin,
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững
chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai
trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó
khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết
giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.

13


3- Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài,
chặt chẽ
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn
đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như
vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách
mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và
tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất
về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai
cấp công nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng

nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin: ”Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững
chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng
cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội
có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của
tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập
hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng
trong khu vực và trên thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết
quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí
Minh.
4- Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê
bình, phê bình
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn
bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần
phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương
châm “cầu đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu
tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết
xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục
những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất
trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình
trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc
thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc
tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh huớng
đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta
14



làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và
cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
Liên hệ thực tiễn (tự liên hệ) Khái quát tình hình, Thực trạng (ưu, khuyết điểm
nguyên nhân), giải pháp, đề xuất)
VẤN ĐỀ: QUAN NIỆM HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1. về đặc trưng bản chất cũa chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất vàtinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.Chủ
nghĩa xã hội là một chê độ do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đế huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của
nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát
triển hết khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp
đỡ để tiến kịp miền xuôi. Hòa bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
2. Về mục tiêu cùa chủ nghĩa xã hội
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội sau khi
được nhận thức để đạt tới trong quá trì nh xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
- Về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ. Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
- Về kinh 'tế:Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông

nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, được tạo lập trên cơ sở sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng ở thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu.
Từ nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa.
- Về văn hóa: Phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội,
thậm chí cần đi trước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp. Bởi vậy, cán bộ phải
có văn hóa làm gốc, công nhân và nông dân phải biết văn hóa.
- Về quan hệ xã hợi: Xây dựng cho được môi quan hệ tôt đẹp giữa người với
người. Hồ Chí Minh căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện công bằng xã hội là tạo ra động lực
cho chủ nghĩa xã hội. Và, để tạo động lực cho chủ nghĩa xã hội, còn cần phải sử dụng
15


vai trò điều chỉnh của các nhân tố về chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
3. Chủ nghĩa xã hội tạo CO’ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc
Chủ nghĩa xã hội với những ưu việt nội tại ừên tất cả các lĩnh vực tạo ra cơ sở
bảo đảm chắc chắn và bền vững nhất cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc. Những
cơ sở đó là: Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ nguyên nhân kinh tế sâu xa của tình trạng
người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
sinh ra. Tạo ra cơ sở cơ bản này, chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng con người,
phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước phát triển chưa từng có cho dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội là thực hiện cách mạng về kinh tế,
văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Ket quả của cuộc cách mạng này là tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật cao, văn hóa phát triển của chủ nghĩa xã hội. Ket quả này là một cơ sở một nhân tố cơ bản để thực hiện củng cố, giữ vững độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, bản chất của chủ nghĩa xã hội là xây dựng
một xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo Người, đây là chiếc chìa khóa vạn năng để
nhân dân Việt Nam xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa với sức mạnh kỳ
diệu của nhân dân là chủ và biết làm chủ xã hội. Sức mạnh kỳ diệu này là cơ sở để
nhân dân Việt Nam củng cố, giữ vững độc lập dân tộc, biết cách tự bảo vệ và phát
triển.

4. Những điểu kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chú nghĩa xã hội ở
Việt Nam
- Phải xác lập, củng cổ, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
đảng cách mệnh”1. Để giữ vững và phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của Đảng với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn chú ý và đòi hỏi Đảng phải đưa ra
được đường lối đúng, thường xuyên hoàn chỉnh đường lối của mình, phải xây dựng
Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh.
Đảng phải lãnh đạo giành lấy chính quyền về tay nhân dân, đưa Đảng thành
đảng cầm quyền, xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, đi liền với lãnh
đạo xây dựng nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân và vì dân để tổ chức quản
lý toàn dân tộc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức vững chắc làm nền tảng xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Thực chất của quan điểm này là xây dựng cho được lực lượng cách mạng lớn nhất,
rộng nhất, mạnh nhất cho suốt quá trình thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Liên minh công - nông - trí thức là gốc, là nền tảng của cách mạng Việt Nam theo
tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm này của Người có quá trình hình thành và phát
triển: Khi lãnh đạo đấu tranh giành độc lập dân tộc, Người khẳng định, liên minh đoàn
kết công - nông là gốc của cách mạng. Khi thực hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,
16


Người lại chỉ rõ, có liên minh công - nông còn phải đoàn kết với lao động trí óc để tạo
ra nền tảng của khối đoàn kết toàn dân tộc.
- Thường xuyên gắn bó cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
Là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam phải biết tranh thủ
sức mạnh của cách mạng thế giới, biết tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ về

mọi mặt của các lực lượng cách mạng ừên thế giới làm tăng sức mạnh của mình để
vượt qua khó khăn, chiến thắng kẻ thù, đưa cách mạng đến thà nh công. Hồ Chí Minh
căn dặn: ba điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội như
trên, “Đó là ba bài học lớn mà mồi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và
phát huy thêm mãi”
Vấn đề: Tác phong quần chúng
Gợi ý trả lời:
1. Tư tưởng HCM về:
- Phong cách của người cán bộ: Là một chỉnh thể bắt đầu từ suy nghĩ (phong
cách tư duy) đến hoạt động thực tiễn (phong cách làm việc, phong cách hoạt động,
phong cách ứng xử) và cuối cùng là phong cách trong sinh hoạt đời thường.
Phong cách người cán bộ quan hệ chặt chẽ với đạo đức vì thế đòi hỏi người cán
bộ phải thật sự mẫu mực từ cách nghĩ đến cách làm, đặc biệt là tác phong quần chúng phải biết dựa và dân, phát huy tốt sức mạnh của nhân dân thì mới xây dựng được một
đất nước phát triển.
- Quần chúng: Theo Hồ Chí Minh: Quần chúng được hiểu là số đông. Vì vậy,
có nhiều cách tiếp cận về quần chúng. So với cán bộ, công chức, những người ăn
lương nhà nước thì nhân dân là quần chúng. Trong mối quan hệ với cấp trên thì cấp
dưới là quần chúng. Trong mối quan hệ với cán bộ lãnh đạo, quản lý thì cán bộ, đảng
viên thường là quần chúng. So với đảng viên thì những người chưa được đứng vào
hàng ngũ của Đảng là quần chúng.
- Tác phong quần chúng: Tác phong quần chúng bắt nguồn từ những giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc Việt Nam kết hợp với sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm
của chủ nghĩa Mac – Lênin: Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng.
Phong cách quần chúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bằng phong cách
sâu sát quần chúng, vì lợi ích quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng.
2. Nội dung tác phong quần chúng
2.1- Đặt lợi ích quần chúng Nhân dân lên trên hết:
Đặc lợi ích của quần chúng Nhân dân cao hơn lợi ích của cá nhân mình, sẵn
sàng hy sinh lợi ích của cá nhân vì lợi ích của nhân dân. Phải biết chăm lo cho quần

chúng, cả về vật chất và tinh thần. Theo Bác: chăm lo cho quần chúng đối với Đảng ta,
17


đối với cán bộ, đảng viên là “phải biết đem tài của dân, sức của dân để tự làm lợi cho
dân”.
“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm
Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh” (theo Hồ Chí Minh)
Hay “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho
dân có học hành” khi đó dân mới biết giá trị của độc lập, tự do
2.2- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân: Muốn vậy phải gần gũi với nhân dân,
phải đi sâu, đi sát nhân dân, chú ý tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, quan tâm đến mọi
mặt đời sống của nhân dân.
Phải luôn sâu sát, quan hệ mật thiết với quần chúng, nắm bắt sâu sắc tình hình
thực tế, nhất là thực tế đời sống, thực tế tâm lý, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, đời sống
tinh thần, phong tục tập quán… của quần chúng
Trên cơ sở nắm bắt được nhu cầu nguyện vọng của quần chúng nhân dân, để
biết cách tổ chức, biết cách giáo dục, động viên, đoàn kết quần chúng, tập hợp tổ chức
quần chúng thành sức mạnh.
Khi đọc đoạn đầu tiên của Tuyên ngôn độc lập Người đã dừng lại hỏi: “Tôi nói
đồng bào có nghe rõ không?” Đây cũng thể hiện sự gần gũi của bác với Nhân dân.
2.3- Việc gì cũng bàn với Nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ
Làm việc gì cũng cần bàn bạc với quần chúng và giải thích cho quần chúng rõ.
Trước hết là bàn với những người hăng hái trong quần chúng, những người có uy tín,
có tư tưởng tiến bộ để từng bước xây dựng nòng cốt, xây dựng lòng tin, nâng cao nhận
thức của dân chúng bằng cách “chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc,
lựa chọn lại, để nâng cao dần sự giác ngộ của dân chúng”. Tuy nhiên, không phải dân
chúng nói gì, ta cũng nhắm mắt theo. Mỗi việc làm của cán bộ, đảng viên không phải
để “mị dân” mà phải đạt cho được mục tiêu đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên
hết. “Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ

lửng giữa trời nhất định thất bại”.
2.4- Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước Nhân dân và hoan nghênh
Nhân dân phê bình mình
Mỗi cán bộ phải hiểu rằng con người không phải thánh thần, có thiện có ác trong
lòng. Đã làm việc thì không tránh khỏi khuyết điểm. Chỉ những kẻ ăn không ngồi rồi
thì mới không có khuyết điểm mà thôi. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, chỉ sợ có
khuyết điểm không dám tự phê bình. Dân độ lượng, vị tha và chúng ta làm việc vì dân.
Vì vậy có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước dân và hoan nghênh nhân
dân phê bình mình. Đó là một trong những cách tốt nhất để làm cho dân tin.
2.5- Sẵn sàng học hỏi Nhân dân:
18


Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu. Mồi người phải hiểu rằng
sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy,
ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng
viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình. Nhân dân là những người trí
tuệ, thông minh, tài giỏi. Dân chúng nhiều tai, nhiều mắt, việc gì họ cũng nghe, cũng
thấy. Làm theo cách quần chúng là việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng. Mỗi một
khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm
của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Không học hỏi dân chúng
thì không lãnh đạo được dân chúng. Có biết làm học trò dân mới làm được thầy học
của dân. Mệnh lệnh hành chính đơn thuần sẽ tạo thành bức tường tách Đảng, Chính
phủ với nhân dân.
2.6- Chống bệnh quan liêu:
Bệnh quan liêu là gì?
Tệ quan liêu biểu hiện ở phương pháp phô trương, hình thức, coi nhẹ tính hiệu
quả, nặng về giấy tờ, thói thụ động, thái độ quan cách, hách dịch, xa rời quần chúng,…
(Người cán bộ cấp dưới chỉ biết ngồi chờ mệnh lệnh cấp trên là hiện tượng thụ động.
Thói thụ động bỏ lỡ những cơ hội có thể đem lại lợi ích lớn cho Nhà nước, cho tập thể

và né tránh những vấn đề cấp bách đòi hỏi phải có nhiều cố gắng để thực hiện.)
Theo Bác Hồ, chứng bệnh quan liêu tỏ ra bằng nhiều vẻ:
“Đối với người:
Cấp trên đối với cấp dưới, cán bộ đối với nhân dân, quân quan đối với binh sĩ,
bộ đội đối với dân chúng – chỉ biết dùng mệnh lệnh. Không biết giải thích, tuyên
truyền. Không biết làm dân chúng tự giác và tự động.
Đối với việc:
Chỉ biết khai hội nghị, viết nghị quyết, ra chỉ thị. Chứ không biết điều tra,
nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra.
Đối với mình:
Việc gì cũng kềnh càng, chậm rãi, làm cho qua chuyện. Nói một đường làm một
nẻo.
Chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến nhân dân, đến đồng chí.
Một vẻ quan liêu nữa là: Chỉ biết ăn sang, diện cho kẻng; chẳng những không lo
phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình.
Tham ô, hủ hóa. Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”.
Người khẳng định: “Nếu không lo chữa, thì bệnh quan liêu sẽ đưa bệnh nhân
đến chỗ hoàn toàn bị đào thải.
19


Quan liêu và dân chủ đối lập với nhau như lửa với nước. Có cái này sẽ không
có cái kia. Cho nên, không thể tiến hành cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu mà
không dựa vào quần chúng trên cơ sở mở rộng dân chủ và công khai hóa, huy động
quần chúng tham gia mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, công khai thông tin, tạo
mọi thuận lợi để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Chủ nghĩa quan liêu không tự thủ tiêu. Nó chỉ biến dạng, thậm chí, dù có đặt ra
thể lệ, quy chế, nó cũng tìm cách làm cho mất hiệu lực, nếu không có phong trào đấu
tranh mạnh mẽ của quần chúng.
* Nguyên nhân của bệnh quan liêu đã được Bác Hồ chỉ rõ: “Xa nhân dân: Do

đó, không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân.
Khinh nhân dân: Cho là “dân ngu khu đen”, bảo sao làm vậy, không hiểu được
chính trị, lý luận cao xa như mình.
Sợ nhân dân: khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể
diện, sợ phải sửa chữa.
Không tin cậy nhân dân: Họ quên rằng không có lực lượng nhân dân, thì việc
nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to
mấy, làm cũng được.
Không hiểu biết nhân dân: Họ quên rằng nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết
thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích
toàn cuộc). Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông.
Không yêu thương nhân dân: Do đó, họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết
thực giúp đỡ nhân dân…”
* Để chống bệnh quan liêu:
– Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
– Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
– Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
– Phải làm kiểu mẫu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư./.
3. Liên hệ thực tiễn (tự liên hệ) Khái quát tình hình, Thực trạng (ưu, khuyết
điểm nguyên nhân), giải pháp, đề xuất)

VẤN ĐỀ: TÁC PHONG QUẦN CHÚNG HỒ CHÍ MINH
Theo Hồ Chí Minh: Quần chúng được hiểu là số đông. Vì vậy, có nhiều cách tiếp
cận về quần chúng. So với cán bộ, công chức, những người ăn lương nhà nước thì
20


nhân dân là quần chúng. Trong mối quan hệ với cấp trên thì cấp dưới là quần chúng.
Trong mối quan hệ với cán bộ lãnh đạo, quản lý thì cán bộ, đảng viên thường là quần
chúng. So với đảng viên thì những người chưa được đứng vào hàng ngũ của Đảng là

quần chúng.
Cán bộ, đảng viên tu dưỡng rèn luyện theo phong cách quần chúng của Hồ Chí
Minh là phải theo đúng đường lối nhân dân với các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, phải đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên trên hết. Điều này thể hiện
ở chỗ việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy cũng hết sức làm; việc gì hại cho dân dù nhỏ
mấy cũng phải tránh. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu suốt lời dạy của Bác: Chúng ta
tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng
không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no,
mặc đủ.
Thứ hai, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Hồ Chí Minh là lãnh tụ rất gần gũi, sâu sát
nhân dân. Theo một thống kê chưa đầy đủ, trong 10 năm (1955-1965), Hồ Chí Minh
đã có khoảng 700 cuộc đi về các địa phương, xuống với bộ đội, công nhân, nông dân,
trí thức và các tầng lớp nhân dânmiền ngược cũng như miền xuôi. Học Hồ Chí Minh
là cán bộ, đảng viên phải chịu khó đi về cơ sở để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý.
Xuống cơ sở không phải theo kiểu “nhiệt liệt chào mừng đồng chí về thăm, làm việc”
mà phải nắm tình hình, đưa ra được các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho địa phương,
cho các ngành. Phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những
người “không quan trọng”, cả những ý kiến “nghịch”.
Thứ ba, việc gỉ cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. vấn đề gốc
rễ ở đây là cán bộ, đảng viên phải hiểu “đối ai mà làm? Đối ai phụ trách?”. Hồ Chí
Minh nêu vấn đề: “Neu chúng ta hỏi cán bộ: “Việc đó làm cho ai? Đối với ai phụ
trách?”, chắc số đông cán bộ sẽ trả lời: “Làm cho Chính phủ hoặc Đảng, phụ trách
trước cấp trên”. Câu trả lời đó chỉ đúng một nửa. Neu chúng ta lại hỏi: “Chính phủ và
Đảng vì ai mà làm việc đó? Và phụ trách với ai?” thì e nhiều cán bộ không trả lời
được.
Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng
vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”1.
Trên cơ sở nhận thức đó, mỗi cán bộ khi gặp công việc phải biết tìm đủ cách giải
thích cho dân hiểu, cả những việc trực tiếp có lợi cho dân. Cán bộ không được làm
theo cách hạ lệnh, cưỡng bức, vì như vậy dân không hiếu, dân oán. Theo Hồ Chí

Minh, dân đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hi sinh mấy họ cũng
không sợ.
Thứ tư, có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh
nhân dân phê bình mình. Mỗi cán bộ phải hiểu rằng con người không phải thánh thần,
có thiện có ác trong lòng. Đã làm việc thì không tránh khỏi khuyết điểm. Chỉ những
kẻ ăn không ngồi rồi thì mới không có khuyết điểm mà thôi. Chúng ta không sợ có
khuyết điểm, chỉ sợ có khuyết điểm không dám tự phê bình. Dân độ lượng, vị tha và
chúng ta làm việc vì dân. Vì vậy có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước
dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Đó là một trong những cách tốt nhất để
làm cho dân tin.
Thứ năm, sẵn sàng học hỏi nhân dân. Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên
hiểu thấu. Mồi người phải hiểu rằng sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa
21


đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn
phải dùng kinh nghiệm củađảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của
mình. Nhân dân là những người trí tuệ, thông minh, tài giỏi. Dân chúng nhiều tai,
nhiều mắt, việc gìhọ cũng nghe, cũng thấy. Làm theo cách quần chúng là việc gì cũng
phải hỏi ý kiến dân chúng. Mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách
phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của
dân chúng. Không học hỏi dân chúng thì không lãnh đạo được dân chúng. Có biết làm
học trò dân mới làm được thầy học của dân. Mệnh lệnh hành chính đơn thuần sẽ tạo
thành bức tường tách Đảng, Chính phủ với nhân dân.
Thứ sáu, chống bệnh quan liêu. Tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách quần chúng
Hồ Chí Minh, ở một góc tiếp cận khác chính là phải “từ trong quần chúng ra, trở lại
nơi quần chúng”. Thực hiện phong cách quần chúng đồng thời chống cách quan liêu
với các biểu hiện xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân,
không hiểu biết nhân dân, không thương yêu nhân dân. Quan liêu là gốc rễ, cội nguồn
đẻ ra tham ô, lãng phí. Làm theo cách quan liêu là hỏng việc, là thất bại.


22



×