Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tiếp nhận và vận dụng lý luận trong nghiên cứu văn học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.28 KB, 10 trang )

Ti ếp nh ận và v ận d ụng lý lu ận trong nghiên c ứu v ăn h ọc hi ện nay
Trong bài viết này, tôi tập trung nêu một số nhận xét cụ thể:
-- mấy chục năm qua, đời sống lý luận có nhiều sôi động bởi đó là do nhu cầu xã hội đòi hỏi. Song được như thế
một phần, là nhờ dịch của nước ngoài ; về căn bản ta chỉ mang những cái học được ra áp dụng ; mà trong việc vận
dụng cũng đang có nhiều điều bất cập.
-- sự phát triển lý luận vẫn chưa có gì đáng kể ; lại đã xuất hiện tình trạng khoe mẽ, làm dáng, thói láu cá phản
khoa học.
-- Những căn bệnh này vốn có trong tư duy lý luận các thế hệ cũ nay được tái phát và trở nên trầm trọng hơn.

một ít tiền đề lịch sử

“Trong lịch sử văn học nước ta cũng có khi người ta chuyên luận về triết học, nhưng
ít thôi ; dường như đây không phải là truyền thống lớn của ông cha ta “ (1).
“ Tổ tiên ta ít làm lý luận … Sự phân công lao động xã hội không đủ mạnh, không đủ
triệt để, để hình thành một tầng lớp lao động trí óc, làm công việc xây dựng các phạm
trù và hệ thống tư tưởng “ (2)
Những nhận xét thẳng thừng nói trên là của Trần Văn Giàu và Hà Văn Tấn. Các ông
phát biểu khi bàn chung về lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Song sự khái quát của các ông cũng đúng với cả tình hình tư tưởng, tình hình lý luận
văn chương.
Và điều quan trọng, nó không phải chỉ đúng trong thời trung đại, khi sự sáng tác nằm
trong quy luật của một nghề thủ công, mà còn đúng cả khi bước sang thời hiện đại.
Nửa đầu thế kỷ XX, chứng kiến sự ra đời của lý luận phê bình như một bộ môn độc
lập của văn học Việt Nam hiện đại. Có điều manh nha ra đời chứ chưa phải phát triển như
lẽ ra nó phải có. Ai cũng nhận hai cuốn sách thành công nhất của lý luận phê bình thời
kỳ 32-45 là Thi nhân VN 1932-41 của Hoài Thanh và Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc
Phan, song nhìn vào thì một cuốn nặng về cảm thụ, một cuốn kỹ càng tỉ mỉ trong việc
bình giá tác phẩm, chứ không phải mạnh về khái quát quá trình văn học. Chưa hề có
một cuốn nghiên cứu vừa bám sát đời sống văn học, vừa mang đậm chất lý luận.
Tình trạng lom đom lệt bệt của lý luận không phải vấn đề riêng của giới cầm bút, mà
còn là vấn đề chung của xã hội lúc ấy.




Năm 1938, Việt nam văn hoá sử cương của Đào Duy Anh in ra, thì năm sau, Hoài
Thanh có bài giới thiệu trên tạp chí Tao Đàn.
Trong phần cuối bài viết này, sau khi bảo rằng đọc lịch sử văn hoá Việt Nam là một
điều cần thiết, Hoài Thanh lấy làm tiếc là dư luận đang thờ ơ lạnh lùng với quyển sách.
Theo ông,“ sách khảo cứu thì công chúng xứ ta mấy năm gần đây tuồng như không
muốn biết đến nữa. Người ta chỉ xem những thứ gì không cần phải nghiền ngẫm suy
nghĩ ; người ta chỉ xem để giết thì giờ, để giải trí không có mục đích gì khác “ (3) .
Tức là một cách sống, cách làm văn học theo kiểu trung đại vẫn đang ngự trị.
Hơn nửa thế kỷ sau, trong một cuốn sách bàn về một vấn đề lớn của văn hoá và in ra
năm 2004, có người còn viết:“Khái niệm tư duy hầu như không tồn tại trong truyền
thống tư tưởng Việt Nam “. (4).
Nghe như một câu ngẫu nhiên buột miệng, rồi vô ý viết ra mà quên không xoá bỏ, -nhưng không phải trong đó không có rất nhiều sự thực.
Những bước vận động

Trên cái nền mạch như thế, có thể nhận ra đường dây phát triển lý luận phê bình
trong đời sống văn học từ sau 1945, về một phương diện nào đó như là có sự bùng nổ.
Có dịp giở lại tạp chí iên phong ra hồi 1945-46, hoặc tạp chí Văn nghệ ra trong kháng
chiến chống Pháp, người ta dễ dàng nhận thấy là phần sáng tác chỉ chiếm một bộ phận
nhỏ, không đến non nửa. Ví dụ mỗi số như vậy chỉ có một hai truyện ngắn, dăm bảy bài
thơ; mà phê bình theo nghĩa hẹp cũng chưa có thể viết nhiều vì chưa có tác phẩm. Phần
chính ở đây là các bài tiểu luận nêu ý kiến, thảo luận bàn bạc trao đổi về văn chương
văn hoá.
Hơn bao giờ hết, với sự thay đổi mà cách mạng mang lại, người ta cảm thấy cuộc
sống hôm nay sẽ khác hôm qua, cách làm văn nghệ cũng khác. Chí ít thì việc cầm bút
không chỉ được phép dựa vào thói quen, mà còn cần đến rất nhiều suy xét phán đoán.
Nên nhớ là vào thời điểm đó, ngay cả những người xưa nay không mấy khi dùng đến
lý tính, cũng bắt buộc phải làm quen với nó.
Trong truyện ngắn Đôi mắt viết năm 1948, Nam Cao, qua miệng nhân vật Hoàng,

từng ghi lại cái tình trạng mà trước 1945 không ai hình dung nổi :“Viết chữ quốc ngữ
sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị,
yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa,
dân chủ với cả tân dân dân chủ nữa, mới khổ thiên hạ chứ.”


Thật dễ mỉm cười khi nghe những người chỉ quen với việc đồng áng cấy cày nói vậy.
Song, trong lịch sử, cái mới bao giờ chẳng đến như là một cái gì lạ lẫm kỳ cục!
Thành thử, nếu như bảo rằng tình trạng mà Nam Cao mô tả cũng là tình trạng xảy ra ở
nhiều lĩnh vực khác trong đó có lĩnh vực văn chương, thì có gì là khó hiểu?
Phải nhận đây là những nét mới của thời đại.
Xu thế đi vào lý luận có từ văn nghệ kháng chiến như thế này lại sẽ được tiếp tục tự
nhiên từ sau hoà bình lập lại 1954. Nhu cầu của xã hội kéo đến đâu công tác nghiên
cứu khởi động và phát triển theo đến đấy. Trong khi đời sống sáng tác có những biến
chuyển thì trong các nhà trường, các chương trình lý luận được biên soạn và chí ít đã
hình thành nên cả một bộ môn học ở đại học cũng như ở các lớp viết văn cấp tốc.
Tôi nhớ vào khoảng 1973-1974, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào giai đoạn cuối,
bắt đầu có một số Việt kiều về thăm Hà Nội và có đến gặp các cán bộ đang chủ trì Hội
nhà văn Việt Nam. Người đứng đầu Hội là Nguyễn Đình Thi thường kể với bọn nhà báo
chúng tôi là trong những lần ấy, ngoài các sách sáng tác, mấy anh chị em ở xứ người trở
về thường không quên đề nghị giới thiệu cho họ biết những cuốn sách lý luận quan
trọng. Một nền văn học bộc lộ qua cái phần tự ý thức mà nền văn học đó tuyên bố, điều
đó đáng quan tâm lắm chứ !
Song, sẽ là quá sớm và có phần lạc quan tếu, nếu bảo rằng từ đấy chúng ta đã có
một nền lý luận độc lập. Hệ luận chủ yếu mà người ta có thể rút ra khi nhìn lại sinh
hoạt lý luận lúc này, đó là việc phát triển lý luận một thời gian dài, rút lại, quy vào việc
du nhập lý luận của nước ngoài. Tức là xem xem ở những nước có nền văn chương mà
chúng ta muốn học, người ta làm thế nào, thì lựa lời nói lại, rồi tìm cách làm theo. Một
cách tự nhiên, thấy diễn ra cái tình hình Hà Văn Tấn đã miêu tả. Theo ông, trong lịch sử
tư tưởng, luôn luôn xảy ra quá trình nội sinh hoá các yếu tố ngoại sinh; cũng tức là du

nhập các hệ tư tưởng từ xa tới, mài giũa chúng cho phù hợp với nhu cầu trong
nước (5).
Đã chính xác chưa?

Một mảng sách lớn trong văn học Việt Nam hiện đại là sách dịch thuật. Nhưng sau một
thời gian mải miết đọc, nay đã tới lúc mọi người bắt đầu nhìn nhau tự hỏi:
--Hình như hoạt động được coi là quan trọng này đang trong tình trạng bột phát ngẫu
nhiên, gặp đâu làm đấy ?


--Liệu có chắc thứ văn học mà chúng ta đã dịch là bộ mặt chân thực của văn học thế
giới nghĩa là ta đã hiểu đúng thế giới? Nếu chưa thì tại sao? Và nếu hiểu sai thì liệu có
khả năng rồi ra chúng ta sẽ hiểu đúng về kẻ khác?
Trong việc tiếp nhận những cái hay cái đẹp của người, có phải đang có những lý do cụ
thể nó hạn chế chúng ta lại ?
Đại thể đó cũng là những vấn đề của sự tiếp nhận lý luận phê bình.
Có những chuyện mà bỏ qua thì thôi không nói làm gì, nhưng khái quát lên thì quả là
những vấn đề ta phải băn khoăn. Tôi lấy một ví dụ có liên quan đến phần nguyên lý
sáng tác:
Ngay từ những năm trước 1975, có một “lời nói có cánh“ mà các nhà thơ tiền chiến
như Chế Lan Viên, Tế Hanh … vốn rất thạo tiếng Pháp và đọc nhiều lý luận về thơ
phương Tây thường dẫn ra, xem như một phương hướng mà lớp người lúc đó còn trẻ là
bọn chúng tôi phải nghe theo “Thơ nào cũng là thơ thời sự “— lúc nói điều này, các ông
dẫn nguyên văn tiếng Pháp tôi còn nhớ lõm bõm như sau “Toute poésie est poésie de
circonstance “
Câu nói cô đúc như một nắm đấm thật chặt. Người nói lại là một nhà thơ cổ điển.
Thuyết phục quá chứ gì !
Sau này chúng tôi mới biết thực ra trong câu khái quát trên, chữ circonstance có
nghĩa là trường hợp, cảnh ngộ …, poésie de circonstance có nghĩa là thơ gắn với một
tình huống, một sự việc cụ thể.

Nó có tính trung hoà, do đó khác hẳn so với hai chữ thơ thời sự vốn có cái nghĩa rất
riêng mà những ai sống với văn học trước 1975 hẳn nhớ: thơ phải bám sát các sự kiện
xã hội, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị do lãnh đạo quy định.
Từ cái việc có vẻ nhỏ bé, không đâu vào đâu này, thỉnh thoảng trong tôi không khỏi
thoáng

qua

một

thoáng

giật

mình:

Liệu những tư tưởng mới mẻ và tên tuổi xa lạ mà chúng ta được nghe giới thiệu hàng
ngày--- và nếu nghiêm túc mà xét, thì cả những tư tưởng sâu sắc mà chúng ta tiếp thụ
được từ các sách vở gọi là kinh điển ---, tất cả đã được truyền thụ chính xác?
Hay nhiều khi ngay cả những người trong nghề vẫn chưa ra thoát tình trạng của ông
cha ta ngày xưa, tức là mê man giữa những núi sách của nước ngoài, rồi phỏng đoán,
hiểu lệch, chép vội chépvàng và lo truyền thụ cho nhau theo kiểu ếch cõng nhái, cốt
học cho nhanh, và đành chấp nhận là đã tạo ra không ít sai lạc.


Rồi lại còn những trường hợp cố tình lái ý người ta theo cái chủ đích rất chân thành
rất có thiện chí của mình, nhưng hoá ra lại đưa nguyên ý đi rất xa so với chính nó !
Tại hội nghị phê bình diễn ra ở Tam Đảo, tháng 8-2003, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Dân đã có một bài tham luận, trong đó nhấn mạnh khi tiếp thụ lý luận nước ngoài, cần
phải có quan điểm phê phán. Ai cũng thấy nói thế là đúng, xưa nay mọi người vẫn nói

thế,

nhưng

đôi

lúc

tôi

vẫn

muốn

đặt

thêm

vào

đây

vài

câu

hỏi:

--trước khi phê phán người, liệu ta có bảo đảm chắc chắn là đọc đúng hiểu đúng người?
-- và nếu không tiếp thụ chính xác thì việc phê phán còn có ý nghĩa gì nữa?

Từ những hạn chế trong tiếp nhận …

Trong Lời nói đầu của cuốn Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, sau đoạn mà
phần trên chúng tôi đã dẫn, Trần Văn Giàu còn nói thêm :“Ông cha chúng ta ít viết về lý
luận, trừ việc giải thích hay bình kinh điển, cũng ít trình bày những vấn đề lý luận một
cách có hệ thống và chi tiết, dường như ngầm hiểu rằng thánh hiền đã nói hết rồi chỉ
cần học và làm theo“ .(6)
Nói nôm na, tức các cụ xưa chỉ làm lý luận cho phải phép, và chỉ giải thích kinh điển
chứ không ai tính chuyện phát triển kinh điển.
Sau đây là một nhận xét đáng lưu tâm, chúng tôi đọc được trong một bài viết về sự
tiếp nhận Phật giáo ở Việt Nam.
Theo Như Hạnh Nguyễn Tử Cường, khi tìm hiểu Phật giáo, các nhà nho xưa ở ta không
hiểu nhiều lắm về những văn bản gốc của Ấn Độ và thường tuỳ tiện mang cho nó một
màu sắc bản địa.
Thứ nữa, ở nhiều người, thấy có sự mê hoặc văn chương, hơn là một phát triển tôn
giáo. Chỉ thích tìm về những danh tác nhằm thoả mãn cái thú yêu thích thơ văn. Trong
nhận thức luận, thích đề cao sự ngộ, tức là hiểu biết có tính chất đột khởi, bừng tỉnh,
bỗng dưng nắm được chân lý, mà không thích nói tới công phu học hỏi chắc thiệt lâu
dài (7).
Chớ nên quên rằng một đặc điểm nữa của việc tiếp thụ lý luận vốn có từ thời trung
đại là sách vở kinh điển thường được đưa vào theo lối thu gọn, tóm tắt.Trong khi ở
bênTàu người ta làm ra những bộ đại toàn, đại hệ, thìở ta chỉ có những bộ toát ước. Các
cụ xưa muốn nhiều thứ quá, mà lại không có điều kiện, nên đành bằng lòng với việc lướt
qua chobiết mà không dừng lại ở cái gì thật kỹ càng.


Lối tiếp nhận ấy đến nay vẫn còn tồn tại. Trong chỗ riêng tư, và đôi khi ngay tại các
hội nghị từ 1986 về trước, tôi nhớ các nhà lý luận mà tôi có quen đã có lúc nói thẳng là
chúng ta thường lấy việc trở về với kinh điển là đủ, trong khi đáng lẽ phải xuất phát từ
kinh điển để đi tiếp.

Thông tin thì có, nhưng may lắm chỉ thấy nói người nọ người kia vừa đọc được một ít
cái mới, chứ gần như chưa có ai đáng gọi là người đẩy được lý luận tới những giới hạn
mới. Đến khi cần truyền thụ lại cho nhau thì sách vở được biên soạn theo lối chụp giật,
đi

đường

tắt,

dùng

những

trung

gian

chưa

hẳn

đã

đáng

tin

cậy.

Cách làm ăn như thế đã thành một thứ học phong, tức một tác phong làm việc không

dễ

từ

bỏ.

Đến lượt nó, một sự du nhập lý luận cẩu thả, tuỳ tiện… chắc chắn thành mầm gây
bệnh. Sự rập khuôn tầm thường xen lẫn với lối ăn sống nuốt tươi thô bạo đều đã xuất
hiện. Và một khi những con đường lặp đi lặp lại mòn mỏi tự nó đã hình thành thì người
ta kẻ trước người sau sẽ cứ mải miết mà đi, công việc cuốn người ta đi, lý luận chỉ còn
là một thứ trang sức cần thiết chứ mấy ai còn muốn nghĩ về nó một cách nghiêm túc ?



đến những sai lệch trong vận dụng

Còn nhớ, có lần Vũ Trọng Phụng đã tung ra một truyện ngắn khái quát óc tư duy của
dân mình bộc lộ qua đám người có học, và hay lý sự.
Nó có cái tên hơi trừu tượng:Từ lý thuyết đến thực hành.(8)
Đại thể đây là câu chuyện một người ra sức bênh vực cho các quan niệm Âu hoá, cụ
thể là chấp nhận cho phụ nữ có quyền ngoại tình, ấy vậy mà đến khi bị vợ cho cắm sừng
thì anh ta lại buồn thiu.
Thông thường nhiều người cho rằng mục đích của tác giả là chế giễu hiện tượng nói
một đằng làm một nẻo.
Song theo tôi, ý nghĩa thiên truyện nằm ở đoạn cuối, khi tác giả trực tiếp trình bày
cái cảm tưởng còn lại trong tâm trí mình “…Bỗng đâu tôi cũng chán đời. Và hoài nghi.
Thật thế, tôi tin rằng đất Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng ở
đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là thành thối nát. Tôi không tin
dân An Nam ta lại có nổi một điều tín ngưỡng nào một quan niệm chắc chắn gì. “
Cố nhiên rồi mai đây, mọi việc sẽ khác đi, và sẽ tới lúc người ta làm được những điều

tốt đẹp, đủ để xem như bằng chứng bác bỏ một cách thuyết phục cái cảm tưởng hoài
nghi nói trên của Vũ Trọng Phụng.


Nhưng cái ngày đó chưa đến, và tới hôm nay có vẻ như Vũ Trọng Phụng vẫn đúng.
Xin được bắt đầu bằng một dẫn chứng đã cũ:
Không chịu dừng lại ở công việc cảm thụ, từ trước 1945, một số người làm nghiên
cứu phê bình đã tìm cách đưa những lý luận mới vào nghiên cứu văn học. Nguyễn Bách
Khoa tức Trương Tửu từng nổi tiếng với việc áp dụng cả những luận điểm mác-xít lẫn
phân tâm học để lý giải Truyện Kiều. Sức làm việc hơn người nơi ông được bổ sung một
sự nhạy cảm hiếm có với cái mới. Trong khi nhiều đồng nghiệp khác thiên về cảm tính
thì ông nổi lên như một nhà khoa học uyên bác.
Thế nhưng đọc lại những cuốn Nguyễn Bách Khoa viết về Truyện Kiều, thấy ông
không ra khỏi cách áp dụng gượng gạo, thậm chí có chút gì đó như là cưỡng bức lý luận
phải

khuôn

theo

ý

mình.

Ông bảo Nguyễn Du là một người mắc bệnh thần kinh , Kiều là một con bệnh uỷ
hoàng và u uất (Nguyễn Du và Truyện Kiều) (9).

Rồi, nương theo một vài ý kiến đọc được đây đó, ông nói theo lối hàm hồ rằng chất
thơ là một chất quý tộc, yếu tố nền móng của chất thơ là cuộc đời ký sinh, biến thái
cuối cùng của chất thơ là một trạng thái bại hoại về thần kinh hệ ( Văn chương


Truyện Kiều) (10).
Những nhận xét tuỳ tiện này không ngẫu nhiên có mặt trong các trang sách, mà tồn
tại như một hệ thống lập luận nhất quán, và tác giả tỏ ra rất hài lòng về những phát
hiện của mình.
Trong thuở ban đầu mới làm quen với tính khoa học, mọi chuyện ở ta hiện ra như thế
đấy ! Đọc sách, người ta không khỏi ngán ngẩm cho số phận cái mới vào Việt Nam, thật
nó dễ bị dày vò và bị làm hỏng đến như thế nào.
Điều đáng nói là ở chỗ căn bệnh trên không phải của riêng Nguyễn Bách Khoa và
những người cùng thời. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, song trong giới ưa nói lý luận hôm
nay, cái việc làm theo kiểu Nguyễn Bách Khoa chẳng những không tuyệt nọc mà lại có
những

diễn

biến

mới.

Có thể bệnh không quá đáng không sống sượng như người đi trước, mà chỉ bộc lộ ở
những dạng thức đơn giản hơn, người ta dễ bỏ qua hơn hoặc nói chung là dễ tha thứ, dễ
chấp nhận hơn. Nhưng nhờ vậy mà ở anh ở tôi, ở mỗi chúng ta, nó tồn tại một cách dai
dẳng, mỗi người đều có dây dưa ít nhiều, và có vẻ như mọi người đã ngầm thoả thuận
với nhau rằng quên đi cho xong, chứ lấy đâu ra thời gian và sức lực để ngồi tính sổ
một cách sòng phẳng ?!


Có thể cắt nghĩa cái sự sống sượng nói trên bằng những thói quen tâm lý đã hình
thành ở một số nhà nghiên cứu háo danh. Sự có mặt của tính vụ lợi ở họ không có cách
nào che giấu. Mà biểu hiện của nó thì thật muôn hình muôn vẻ. Chung quanh những

cái đang trở thành thời thượng, tức được xem như mới mẻ nhất tiên tiến nhất của nước
ngoài, người ta chạy đua để tìm cách chụp giật, nhận vơ về mình, làm như chính mình
nghĩ ra, hoặc làm như chỉ nhắc đến tên của những lý luận ấy đã đủ là hơn người rồi.
Ngược lại, nghe ngóng rằng những tư tưởng nào đó có vấn đề thì chưa biết nếp tẻ ra sao
cũng lao vào đánh hôi. Có thể đoán thoạt đầu, đây chẳng qua chỉ là một cách để tự đề
cao. Song suy đến cùng thì bên trong thấy ẩn giấu cả một chút loè bịp, cơ hội.
Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận thêm một sự thực rằng việc vận dụng lý luận vốn là
một loại tài năng và có thể nói là chúng ta thường chưa biết sợ, chưa nhận thức hết cái
khó

của

nó.

Trong đời sống khi so sánh một người chỉ có chiếc xe đạp, nhưng bon bon trên đường,
với người có một chiếc xe máy loại sang trọng, nhưng đi đứng xẹo xọ, lái không vững,
chạy không đều, đổ ngã lúc nào không biết … thông thường mối thiện cảm của chúng
ta



dành

cho

người

thứ

nhất


chứ

không

phải

người

thứ

hai.

Trong nghiên cứu khoa học đáng lẽ cũng phải cũng vậy, nhưng hiện có tâm lý nghe ai
nói được vài câu lý luận mới, chưa biết nếp tẻ sao mọi người đã phục lăn, còn người ngồi
nghiên cứu cho thành thục những lý luận cũ để áp dụng cho thấu đáo bị coi thường, kết
quả là kiểu làm lý luận theo lối chạy xô có cơ ngày càng phát triển.
Một ít tâm sự

Tôi có cảm tưởng nhiều bạn trẻ đang tập tành thành nhà nghiên cứu hiện nay muốn
đi vào lý luận. Trong khi đó thì cái vốn văn học sử mà các bạn đó có được còn rất mỏng
mảnh.
Các bạn hình như không biết, hoặc không được ai giảng cho biết, để rồi cố không
muốn biết, rằng mọi thứ lý luận đều bắt nguồn từ sự phát triển của văn học, tương tự
như

mỗi

giống


cây

lớn

lên

từ

một

mảnh

đất

cụ

thể.

Chẳng hạn, muốn hiểu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa—kể cả hiểu để từ chối
nó và phê phán nó — thì trước tiên phải nắm rất vững văn học xô viết và văn học các
nước

Đông

Âu

trước

1989.


Hoặc muốn hiểu Bakhtin và thi pháp thì phải đọc cho nát cả ông Đốt lẫn các sách vở


viết về Đốt, cũng như có những hiểu biết chính xác về tình trạng của khoa nghiên cứu
văn học ở Nga những năm 1930.
Gần đây, một thứ lý luận mà hồi trước bị cấm đoán nay trở thành mốt, là mảng lý
luận phương Tây hiện đại.
Có lần tôi được đọc một công trình nghiên cứu của một bạn trẻ muốn đi vào khảo
sát sự hình thành văn xuôi Việt nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Trong phần giáo đầu,
tác giả trình ra những tư tưởng mà mình dựa vào để làm việc. Người sính cái mới có thể
hào hứng vì thấy dẫn ra toàn là lý luận của những tên tuổi lớn trong khoa nghiên cứu
văn học thế giới:T.Todorov và R.Jakobson, Ch.Caudwell và G. Genette….
Nhưng riêng tôi cứ thấy những nguyên lý lý luận kia vốn xuất phát từ văn học Tây Âu
hiện đại, tốt hơn hết là để áp dụng cho các nơi mà ảnh hưởng văn học phương Tây đã
đến độ chín. Chứ đối với một số tác phẩm xuất hiện trong giai đoạn tập tành của nền
văn xuôi hiện đại vừa mới xuất hiện như văn học Việt Nam thời Tố Tâm trở về trước,
thấy nó không hợp. Cố ép mà vận dụng nó, nào khác kẻ học làm sang.Trong trường hợp
này, tôi nghĩ những lý thuyết về sự giao thoa, tiếp biến văn hoá, và quá trình hiện đại
hoá các nền văn học trung đại, nếu được vận dụng sẽ có lý hơn.
Lại như việc gần đây nhân các lý thuyết hậu hiện đại bắt đầu được dịch in, có người
muốn tỏ ra thức thời đã mau mắn hô lên rằng những tìm tòi kiểu này cũng đang xảy ra ở
ta, ngụ ý ta đây chẳng kém gì người, ta đang nhịp bước cùng thế giới.
Trong khi ấy, theo sự tìm hiểu của một số chuyên gia chín chắn, ta đang ở vào một
giai đoạn khác hẳn.
Lối áp dụng khiên cưỡng nói trên vốn xuất phát từ sự non yếu trong trình độ:Ta biết ít
quá,



thấy


cái



cũng

hay

cũng

đẹp,

cũng

nên

học

theo.

Song chắc cũng không sai nếu bảo ta chưa thoát khỏi những thói quen có tự nhiều
đời truyền lại, tức là học lỏm và nhận liều.
Trước khi áp dụng lý luận vào thực tế, cần nhớ động cơ không đủ biện minh cho
hành động và tâm huyết không làm nên hiệu quả. Và nếu không sợ làm nản lòng nhau,
phải nói những điều chúng ta hay mang ra khoe --- cái sự tha thiết hết mình của chủ
quan nhà nghiên cứu -- chỉ có một ý nghĩa rất nhỏ.
Ngay cả khi đã có mong muốn chân thành và thái độ nghiêm túc, nếu không có định
hướng đúng, người ta vẫn có thể lao mình vào những công việc không mấy triển vọng,
hoặc đơn giản hơn là không đáng đặt nhiều kỳ vọng đến thế.



Câu chuyện của tôi là để dành cho các bạn trẻ muốn nghiên cứu văn học thực sự, có
tham vọng muốn cắt nghĩa nền văn học dân tộc cả trong quá khứ lẫn hiện tại, từ đó
đóng góp vào sự vận động của văn học và xã hội trong thời gian tới. Còn theo chỗ tôi
biết, khuynh hướng làm lý luận vì lý luận, làm lý luận để chứng tỏ sự sang trọng và năng
lực hội nhập mạnh mẽ của nghiên cứu văn học ở ta – khuynh hướng đó đang được nhà
nước hiện nay khuyến khích. Người đi theo khuynh hướng này sẽ dễ dàng trở thành giáo
sư tiến sĩ, tức có địa vị và được dư luận trọng nể.
Với số bạn đọc loại này – mà tôi biết là chiếm đa số trong giới nghiên cứu trẻ -- bài viết
trên và lời tâm sự cuối cùng của tôi chắc không thích hợp. Nếu các bạn loại đó đã chót
vui chân theo tôi đến những dòng cuối cùng, tôi xin có lời xin lỗi. Hẳn có những giáo sư
sẽ bảo với các bạn là đừng nghe tôi xui dại.

Nguyên là bài tham luận trong một cuộc hội thảo
tại Viện văn học, 2004.
Đã in trong Vương Trí Nhàn--Phê bình và tiểu luận 2009.
Riêng đoạn cuối mới được viết lại 7-2014

Chú thích
(1) Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
1973, tr. 10
(2) Hà Văn Tấn, Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt Nam và tư tưởng Việt Nam, in trong Một số vấn đề
lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Hà Nội,1984, tr. 29-30
(3) In lại trong Hoài Thanh, Bình luận văn chương 1934-1943, NXB Giáo dục Hà Nội, 1998,
tr.184
(4) Huỳnh Khái Vinh Nguyễn Thanh Tuấn, Bàn về khoan dung trong văn hoá, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004, tr 230
(5) Hà Văn Tấn Sđd, tr.33
(6) Trần Văn Giàu Sđd, tr.11

(7) Hồn Việt **, NXB Văn học, Hà Nội 2004, tr. 47-48
(8) Tao đàn 1939,sưu tập trọn bộ hai tập, t. II, tr.803
(9) Nguyễn Bách Khoa Nguyễn Du và Truyện Kiều, 1942, NXB Hàn Thuyên Hà Nội tr. 20. Dẫn
lại theo Đinh Gia Trinh Hoài vọng của lý trí, NXB Văn học, Hà Nội, 1996, tr. 276


(10)In lại trong Nguyễn Bách Khoa Khoa học văn chương, NXB Văn hoá thông tin Hà
Nội,2003, tr.462



×