Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.12 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Theo sự vận động của tiến trình văn học Việt Nam, giai đoạn văn học 1945 –
1975 đã giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Trong giai đoạn này, chúng ta nhận thấy
được sự cách tân mạnh mẽ về lối viết văn, cũng như quan điểm nghệ thuật của mỗi
người nghệ sĩ. Phần lớn các tác giả thời kì này đi theo con đường văn học chính
thống với nội dung hướng đến phục vụ cách mạng, cổ vũ tinh thần đấu tranh chống
giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó vẫn còn một số tác giả đi theo dòng văn học phụ lưu,
phản ánh hiện thực cuộc sống, đi sâu vào góc khuất con người, bề sâu đời sống nội
tâm. Nếu Tố Hữu là ngọn cờ đầu tiên trong phong trào cách mạng, thơ ông được biết
đến là những lí tưởng khai sáng những con người đến với con đường cách mạng bằng
tất cả nhiệt huyết của con tim; thì Lưu Quang Vũ được mọi người biết đến như một
“hiện tượng” trong thời kì này. Khuynh hướng thế sự đời tư được thể hiện vô cùng
sắc nét qua từng tác phẩm của ông, tạo nên một điểm nhấn đặc biệt trong giai đoạn
văn học 1945-1975. Tuy không được phổ biến như dòng văn học chính lưu – văn học
Cách Mạng, song dòng văn phụ lưu mang cảm hứng thế sự đời tư lại thành công
trong việc tạo nên một “ngã rẽ mới” cũng như làm phong phú thêm diện mạo mới
cho chặng đường văn học nước nhà.

1


NỘI DUNG
1. Vài nét về tác giả Lưu Quang Vũ
1.1. Cuộc đời
Lưu Quang Vũ, sinh ngày 17/4/1948 tại Thiên Cơ, Hạ Hòa, Vĩnh Phú (nay là Phú
Thọ), là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh. Tuổi thơ, ông
sống ở Phú Thọ cùng với cha mẹ, khi hòa bình lập lại (1954) gia đình ông mới chuyển
về sống tại Hà Nội.
Lúc nhỏ, ông đã ba lần đoạt giải văn Thành phố Hà Nội, một lần đoạt giải về hội
họa.
Từ 1965 đến 1970 anh nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng Phòng không –


Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ.
Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao
su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải
phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa–nô, áp–phích,...
Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu
sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ
Duy Kỳ.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Trước năm 1978, Lưu Quang Vũ chỉ sáng tác thơ và truyện ngắn là chủ yếu, thơ
ông tuy không sắc sảo và dữ dội như kịch nhưng giàu cảm xúc và trăn trở khát khao.
Các tập thơ chính của ông như:
- Hương cây – Bếp lửa (in cùng Bằng Việt, 1968).
- Mây trắng của đời tôi (NXB Tác phẩm mới, 1989).
- Bầy ong trong đêm sâu (NXB Hội nhà văn, 1993).
- Lưu Quang Vũ, thơ và đời (NXB Văn hóa thông tin, 1997).
- Gửi tới các anh (NXB Quân Đội Nhân dân, 1998).
- Những bông hoa không chết (in chung cùng phần Nhật ký, NXB Lao động,
2008).
- Nhiều bài thơ khác chưa được in thành tập.
Ngoài ra ông còn là tác giả của một số truyện ngắn:
- Thị trấn ven sông (1968).
- Mùa hè đang đến (1983).
- Người kép đóng hổ (1984).
- Một vùng mặt trận.
2


Sau năm 1978, Lưu Quang Vũ bắt đầu sáng tác kịch. Ông được xem là một hiện
tượng sân khấu kịch đặc biệt, một nhà biên soạn kịch tài năng. Một số sáng tác kịch
tiêu biểu như:

- Sống mãi tuổi mười bảy.
- Hồn Trương Ba da hàng thịt (1981).
- Nàng Sita (1982).
- Người trong cõi nhớ (1982).
- Ngọc Hân công chúa (1984).
- Tôi và chúng ta (1984).
- Lời nói dối cuối cùng.
- Bệnh sĩ (1988).
- Tin ở hoa hồng (1986).
2. Những vấn đề lý luận
2.1. Cảm hứng thế sự đời tư
Cảm hứng thế sự là cảm hứng về cuộc sống đời thường, về con người của thực
tại. Những tác phẩm mang cảm hứng thế sự thường hướng đến sinh hoạt hàng ngày
của con người. Chú ý khẳng định giá trị thẩm mĩ của cái đời thường, khám phá mọi
phức tạp, éo le và cả cái cao quý trên hành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con
người [dẫn theo 6].
2.2. Cảm hứng thế sự đời tư trong văn học 1945 – 1975
Cách mạng tháng Tám thành công, sau hơn 80 năm nô lệ, dân tộc ta đã giành
được độc lập tự do. Cả nước sục sôi trong niềm vui của những người lần đầu tiên làm
chủ đất nước. Những người được hâm mộ nhất lúc bấy giờ là những người ở chiến khu
về, là cán bộ Việt Minh, chiến sĩ giải phóng quân. Người ta thích sinh hoạt chính trị,
thích nói chính trị, thích gọi nhau là đồng bào, đồng chí,… Độc lập tự do chưa giành
được bao lâu thì giặc Pháp đã trở lại, sau đó Mỹ kéo vào. Cả nước đứng lên, sẵn sàng
chống kẻ thù. Thanh niên tình nguyện đi bộ đội, chịu mọi sự gian khổ, hi sinh vì đất
nước. Lợi ích cộng đồng, lợi ích đất nước được đặt lên hàng đầu, mọi lợi ích khác đều
tạm thời phải xếp lại, lợi ích cá nhân lại càng trở nên tầm thường, thậm chí là vô nghĩa.
Lúc đó, Đảng đề ra văn nghệ sĩ phải đứng trên lập trường kháng chiến, ra sức
tuyên truyền chính trị, cổ vũ chiến đấu. Do đó, chủ đề chính trong thơ ca 1945– 1975
là tình cả công dân, tình cảm chính trị, tình đồng chí đồng bào, tình quân dân, tình cảm
với Đảng, với Hồ chủ tịch,… Cảm hứng chính trị trở thành thi nguồn lớn mạnh nuôi

dưỡng nền thi ca Việt Nam lúc bấy giờ.
3


“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
(Tố Hữu)
“Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Sung sướng bao nhiêu, tôi là đồng đội
Của những người đi, vô tận, hôm nay”
(Chính Hữu)
Chủ tích Hồ Chí Minh nói: “Viết cho ai? – Viết cho đại đa số; công nông binh.
Viết để làm gì? – Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng”
[dẫn theo 5]. Cái tôi hòa chung và cái ta, vì vậy, giai đoạn văn học 1945 – 1975, cảm
hứng thế sự đời tư có phần lắng xuống. Văn học thời kì này hướng vào mục tiêu chiến
thắng kẻ thù xâm lược và xây dựng xã hội mới.
Tuy nhiên, bên cạnh dòng chính lưu văn học tuyên truyền cách mạng, nền văn
học Việt Nam vẫn tồn lại các dòng phụ lưu khác mang cảm hứng thế sự đời tư. Những
tác phẩm này mang hơi thở của cuộc sống thường ngày, những mất mát trong đau
thương, những trắc trở trong con đường đi tìm hạnh phúc của con người, đồng thời thể
hiện cái tôi cá nhân mạnh mẽ, mang dấu ấn cá tính riêng biệt.
2.3. Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ là thế hệ nhà thơ mang áo lính, cùng với Hoàng Nhuận Cầm,
Thanh Thảo, Bằng Việt – một học sinh, đi thẳng từ cánh cổng nhà trường vào quân
ngũ, thì chắc hẳn trong ba lô của ông mang theo rất nhiều hành trang, tư trang. Trong
đó có một tiếng chim kêu gọi mùa vải đỏ, con sông Thương, có một đêm thao thức
không ngủ trên con đường hành quân,… Tất cả tâm hồn thơ của Lưu Quang Vũ lúc
bấy giờ là một hình ảnh dân tộc, chưa được nhìn qua lăng kính đổ vỡ đời tư. Những
năm 1960, đặc biệt là năm 1968, thì ông thể hiện cái tôi công dân, quyện tình cảm cá

nhân của mình vào tình yêu đất nước. Ông viết:
“Em ơi, em là Hà Nội
Anh chưa bao giờ yêu Hà Nội như hôm nay”
Tâm hồn sáng tác của Lưu Quang Vũ rộn rã như một bản hoan ca “Anh chưa
bao giờ yêu Hà Nội như hôm nay”. Lời tự tình đó dành cho những trái tim chưa trải
qua những nghịch cảnh đời tư.
4


Đầu những năm 1970, một người nghệ sĩ trải qua một trang đời tư, những cơn dư
chấn tinh thần trong độ tuổi mới xây dựng hạnh phúc đầu đời, nhà thơ không còn
mang “ngoài bút” để tô điểm cho quê hương xứ sở. Trong khi Phạm Tiến Duật, Phan
Thị Thanh Nhàn chìm đắm trong tình yêu lý tưởng của thời chiến: “Anh lên xe trời đổ
cơn mưa/ Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ” trong trẻo, lạ thường thì chặng đó qua rất
nhanh trong Hương cây bếp lửa, để cơn địa chấn đời tư đến. Lưu Quang Vũ dám nhìn
vào dân tộc bằng ánh mắt mang bi kịch đời tư Việt Nam ơi, Đất nước đàn bầu, Giấc
mộng đêm,... Đó là điểm khác biệt của Lưu Quang Vũ so với những người bạn cùng
thời.
Lưu Quang Vũ đem đến cho người đọc cảm giác: những điều hôm qua tưởng
tuyệt vời tốt đẹp, đến nay thành không tưởng nữa rồi. Khi con người bị va đập bởi một
chấn động tình cảm đời tư thì họ nhìn quê hương không còn thanh tâm nguyên vẹn
nữa. Xã hội Việt Nam chìm trong biển máu, Lưu Quang Vũ đã nhìn sâu vào mặt trái
của chiến tranh, dám viết nên những câu thơ:
“Những áo quần rách rưới
Những hàng cây đắm mình vào bóng tối
Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu
Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ
Lèo tèo mì luộc canh rau”
(Việt Nam ơi).
3. Khuynh hướng thế sự đời tư trong thơ Lưu Quang Vũ giai đoạn 1945 – 1975

3.1. Thể hiện trong nguồn cảm hứng dân tộc, quê hương đất nước
Lưu Quang Vũ đã đi vào cuộc kháng chiến với sức mạnh của niềm tin và tuổi trẻ.
Cảm hứng về đất nước, nhân dân trong thơ ông vì mang một cảm xúc, một cá tính
sáng tạo riêng không bị hòa lẫn trong dòng thơ lúc bấy giờ.
Cảm hứng về đất nước trong thơ thường được khơi nguồn từ những con người,
sự vật thân thương, gần gũi. Mỗi con sông gắn với mỗi vùng đất, đều có nét riêng. Qua
lăng kính của Lưu Quang Vũ tên mỗi con sông cũng hiện lên chính cái hồn của nó vậy.
Qua sông Thương… vừa mềm mại, trìu mến, mộng mơ:
“Sao tên sông lại là Thương
Để cho lòng anh nhớ?”

5


Đạn bom chiến tranh không thể làm phai đi chất thơ mộng, mĩ miều của đôi dòng
nặng trĩu phù sa:
“Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng”
Cùng con người, sông cũng thao thức cùng chiến tuyến chống quân thù. Sông
vẫn thở và người vẫn hát, hát trong lửa đạn chiến tranh:
“Sông Thương ơi, đang những ngày đánh Mỹ
Nên đôi bờ nòng pháo hướng trời mây
Những cô lái đò súng khoác trên vai
Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng vui

Nghe sông gọi người đi đánh giặc
Đất nước nặng tình phù sa bát ngát”
Trong nỗi nhớ của mỗi người có ai không nhớ về những dòng sông êm đềm, thơ
mộng? Sông Thương vẫn cứ mãi êm đềm, thơ mộng như chính tự nó.

Là thi sĩ, Lưu Quang Vũ không thể không phải lòng trước vẻ đẹp Cánh đồng
vàng thu:
“Lúa xanh đã nặng hạt vàng
Đồng xa đã gặt, đường làng trải rơm.

Nỗi thương muôn vạn muôn trùng
Tìm nhau trong sắc cánh đồng vàng thu”
Mùa thu lại gắn với mùa gặt, với sắc vàng của những gánh lúa trĩu hạt của chốn
đồng quê. Mùa thu của anh giản dị, hiện đại và không quá chau chuốt nhưng chính sự
bình dị ấy đã khiến cho người đọc dễ hiểu, dễ đồng cảm và thân thuộc:
“Thu đi lạnh giục đông sang
Núi nhoà sương trắng chiều hôm mất rồi”
Cảm hứng về đất nước trong thơ Lưu Quang Vũ còn là từ truyền thống văn hóa,
lịch sử. Đánh giá cảm hứng dân tộc trong thơ Lưu Quang Vũ, Vũ Quần Phương nhận
xét: quan tâm đến vẻ đẹp đất nước, “ngợi ca tầm vóc vĩ đại và sự hi sinh cao cả
6


của người dân”. Một tuổi thơ được thở trong hơi ấm của tình thương gia đình nên tận
sâu bên trong Lưu Quang Vũ luôn dành cho mẹ những tình cảm thiêng liêng. Gửi mẹ
(1969) được viết khi đang tại ngũ là bài thơ mang xúc cảm vô cùng chân thực sâu lắng.
“Trên đời chẳng ai lo cho ta bằng mẹ
Cũng chẳng ai ta làm khổ nhiều như mẹ của ta”
Con mới chính là người làm khổ mẹ. Người lo lắng cho con nhiều nhất. Mẹ trao
con tình yêu từ những câu ru “à ơi” qua hàng bao đêm thâu, cho đến từng miếng
cơm… Với tình cảm không hề sáo rỗng, “con” ước:
“Ước mẹ trẻ hoài như buổi mới gặp cha
Ước con được sống suốt đời bên mẹ”
để mẹ luôn là người phụ nữ đẹp, để được phụng dưỡng, chăm sóc mẹ khi ốm
đau, khi trái gió, trở trời... cho tròn đạo làm con như bao người con có hiếu.

“Nhưng xứ sở ta quân Mỹ tới rồi
Cùng bè bạn con lên đường đuổi giặc”
Đứng lên đánh giặc là trách nhiệm của mỗi trái tim khi quân thù mang dã tâm
giày xéo quê hương, đất nước thân yêu của mình. Đó là truyền thống đẹp đẽ của dân
tộc ta được hun đúc qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử.
Mẹ của tác giả trong bài thơ cũng như bao bà mẹ Việt Nam khác: chịu thương,
chịu khó, yêu chồng, thương con. Mẹ vui vẻ thực hiện thiên chức với ý thức tự
nguyện. Tình thương của mẹ bao la là vậy sao có thể nào không thường trực trong nỗi
nhớ của con. Để rồi trong một đêm ở nơi “rừng xa gió lạnh” hình ảnh mẹ lại hiện lên:
“Mẹ nghỉ chưa hay đã thức rồi
Suốt một đời chưa có lúc nghỉ ngơi”
Vì nhiều lẽ, mà có thể nhất là Tổ Quốc đang còn giặc giã. Mẹ không nghỉ ngơi là
để làm thêm nhiều việc cho gia đình, cho đất nước để chiến tranh mau kết thúc, để
sớm có ngày được gặp lại con.
Trước cuộc đời gian lao, vất vả đầy rẫy những biến cố bất ngờ phía trước, nhà
thơ nguyện sẽ vượt qua tất cả bằng nghị lực của mình, bằng tình yêu thương, sự hy
sinh lớn lao mà mẹ dành tặng cho:
“Dẫu cuộc đời là con đường dài thế
Con sẽ đi qua mọi đèo dốc chông gai
Bằng đôi chân của mẹ mẹ ơi”
7


Sau Hương cây, Lưu Quang Vũ đối mặt với những biến cố lớn trong cuộc đời:
Hôn nhân đầu đổ vỡ, rời quân ngũ,... Cùng một lúc, tâm hồn đa cảm của anh phải gánh
chịu cả nỗi đau và sự mất mát, khi đó cũng là lúc mà chiến tranh ngày càng lấy đi
xương máu của nhân dân. Tất cả mọi thứ sụp đổ dưới mắt nhìn của nhà thơ, bởi chiến
tranh luôn đem lại những vết thương không bao giờ lành.
Những chuyển đổi mạnh mẽ trong đời sống tâm hồn và tư duy nghệ thuật xuất
hiện. Biểu hiện trước tiên là từ tình cảm quê hương đất nước, anh đã bắt sâu hơn vào

cảm hứng dân tộc, nhân dân. Vào một đêm năm 1972, Lưu Quang Vũ viết một bài thơ,
mà các nhà phê bình gọi đó là nhật kí cho quê hương Việt Nam, “Ghi vội một đêm
1972”:
Nhận thức về chiến tranh trước hết là nhận thức về nỗi đau thương tột cùng mà
dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam phải gánh chịu.
“Ngực nghẹn lại không còn khóc được
Thương mọi người cơ cực mấy mươi năm”.
Càng đi sâu vào cuộc chiến, phải chứng kiến nhiều hơn những cảnh tượng giết
chóc kinh hoàng, đẫm máu, thế hệ những người lính ấy không còn đủ vô tư để ca hát:
“Bom ném lên cao những đường tàu gẫy nát
Những bàn ghế những lá thứ những cánh tay người
Mùi thịt cháy rợn mình mùi khói cay
Ta đứng lặng trong tiếng gầm báo động”
Nhận thức về chiến tranh là nhận thức về tội ác man rợ của kẻ thù. Nhưng hơn
thế, nó còn được nhận thức như một sức mạnh tàn bạo của cái ác, của sự thù hận. Nhà
thơ miêu tả chiến tranh như một cỗ máy hủy diệt kinh rợn và tất thảy, nhân tính, tình
yêu, hạnh phúc, đều bị nghiền nát trong guồng quay của nó. Để rồi hình ảnh một Việt
Nam đau thương hiện lên trong nỗi xúc động nghẹn ngào:
“Kẻ mất người thân lặng lẽ bước trên đường
Đứa trẻ nhà ai bỗng khóc thét lên”.
Cùng với những thay đổi về cách thức cảm thụ cuộc sống. Lưu Quang Vũ còn
thể hiện một cái nhìn khác về tiếng Việt của chúng ta:
“Tiếng chẳng mất khi loa thành đã mất
Nàng Mị Châu quỳ xuống lạy cha già
8


Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi”.
Với cách nhìn của mình, Lưu Quang Vũ khẳng định lòng tự tôn dân tộc là tiếng

Việt còn thì nước ta còn. Cho dù nước ta làm nô lệ thì đất nước vẫn còn nếu tiếng Việt
được giữ gìn, cất lên đòi quyền sống. Tiếng kêu ai oán nhất của xã hội Việt Nam vẫn là
tiếng kêu của dân tộc Việt. Nhờ tiếng Việt đó mà cho dù dân tộc Việt Nam bị đào thải
đi chẳng nữa thì tiếng Việt vẫn thuộc về phạm trù vĩnh cửu, tiếng Việt luôn sống trong
tâm hồn người Việt. Lưu Quang Vũ bắt được mạch đó đưa vào trong sáng tác của
mình.
Ở sáng tác của Lưu Quang Vũ còn là sự xuất hiện của “niềm tin” tôn giáo rất
đặc biệt:
“Tôi không tin
Lỗ đinh trong tay tượng Chúa
Chúa của tôi ngồi ở ven đường
Ngủ gục trên nắp hầm trú ẩn
Chúa của tôi bom thiêu cháy xém
Chúa của tôi hát xẩm trên tàu điện
Chúa của tôi bới gạch vụn tìm con
Chúa của tôi đêm nay lang thang”
Một đất nước, một dân tộc Việt Nam trước năm 1975, không thể ngưỡng vọng
hình ảnh tôn giáo. Ở đây, Lưu Quang Vũ không hề báng bổ thần thánh mà ý của ông là
ước muốn Chúa ở trên cao hãy hòa nhập vào đời sống thống khổ của nhân tình thế thái
Việt Nam, hiểu cho nỗi đau của người con mất cha, người vợ mất chồng, người mẹ
mất con. Phạm Tiến Duật từng nói:
“Tôi với bạn tôi đi trong yên lặng
Cái yên lặng bình thường đêm sau chiến tranh
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang, vòng tròn như một số không”
Ý muốn nói quân đội ông đi ngang từ bên bờ này sang bờ bên kia, ông vào bạn
ông vào đi luồng vào các thi thể, xác người thối rửa rồi nhưng không còn con đường
nào để sang bên kia cả, phải đi vào giữa xác người chết chồng chất lên nhau, nên

9



không thể có niềm tin tuyệt đối vào tôn giáo. Bởi vậy, Lưu Quang Vũ hi vọng thống
thiết Chúa hãy xuống soi xét dân tình, đó là ý của bài thơ.
Đối với bất cứ một dân tộc nào, chiến tranh là hiểm hoạ, là tổn thất nặng nề mà
mọi cố gắng bù đắp của con người chỉ có thể xoa dịu chứ không thể làm lành vết
thương khủng khiếp đó. Là một tâm hồn nhạy cảm với đau buồn, mất mát, ngay từ
giữa cuộc chiến nhà thơ hiểu ngay rằng chính nhân dân là người phải gánh chịu tất cả.
3.2. Thể hiện qua lăng kính đời tư
3.2.1. Cái tôi trữ tình đổ vỡ trong tự vấn đời tư
Lưu Quang Vũ là nhà thơ có phong cách với tư tưởng đầy triển vọng.
Cơn địa chấn đầu tiên khi Lưu Quang Vũ bước chân từ nhà trường vào con
đường quân đội bị trung đội trưởng gọi lên, bắt đốt gia tài thơ của mình và đi ra khỏi
quân đội. Bị coi là đào ngũ – chính là một trong những vết chàm đầu tiên của ông.
Sau khi kết hôn với nữ nghệ sĩ Tố Uyên với sự đổ vỡ trong hôn nhân Lưu Quang
Vũ đã rơi vào bi kịch tình yêu và không hề kêu oán một lời mà ông tự nhận về phần
mình khi tưởng trái tim và gia cảnh “ngọc vàng” nhưng ngược lại đó là “ván nát sàn
hoang”
“Anh thương em suốt đời trên sóng nước
Cướp được tàu anh tưởng có ngọc vàng
Ngờ đâu chỉ là ván nát sàn hoang
Còn trơ lại một hồn thơ tai ác quá”
Vì không chịu nổi cái nghèo “cơm, áo, gạo, tiền” nên con chim vành khuyên của
màn ảnh Việt đã để lại đứa con của mình và dứt áo ra đi. Lưu Quang Vũ từng nói với
con rằng:
“Con ơi! Con hãy tha thứ cho cha
Cha không thể sống cùng mẹ nữa
Đời cha nắng gắt
Mà mẹ con cần suối mát của đồng vuông”
Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn rất vị tha, nồng hậu. Phải chăng, khi

không còn chỗ dựa dẫm, con người trở nên tuyệt vọng, khổ đau của cửa ải ái tình, khi
đó người ta tự trấn an cuộc đời để vượt lên khổ đau. Những chấn động đời tư đã ảnh
hưởng trong thơ của ông sau này:
“Mất hạnh phúc rồi ư nhưng anh cần chi hạnh phúc
10


Hai tiếng xa vời hiểu rõ từ lâu
Ừ thì ngẩn ngơ anh đành nhận thế
Giọt lệ trong không tuổi hổ gì đâu”
(Anh đã mất chi, anh đã được gì)
Dẫu đổ vỡ hôn nhân là thế, nhưng sau đó bao giờ Lưu Quang Vũ cũng hướng đến
thềm cao của niềm tin:
“Đời sống là bờ
Giấc mơ là biển
Bờ không còn
Nếu chẳng có khơi xa”
(Giấc mơ của anh hề)
Chính điều này tạo nên phong cách của ông in đậm vào cá tính sáng tạo và sinh
thời những người bạn của Lưu Quang Vũ đã từng nhận xét rằng: “Thất vọng trong tình
yêu, đổ vỡ trong hôn nhân là vậy”. Nếu người phụ nữ nào đó đến sau, bước vào cuộc
đời lắm tổn thương, lắm cay đắng của ông, thì Lưu Quang Vũ vẫn yêu, yêu hết mình
với ngọn lửa tình yêu say đắm:
“Trước tình em đáng lẽ phải lặng yên
Nhưng hạnh phúc làm anh không níu được
Như biển cả vỗ bên mình tổ quốc”.
Và như bù đắp cho tất cả những đau thương, mất mát nơi trái tim hàng nghìn vết
thương, vết sẹo chằng chịt ấy, người phụ nữ thứ hai đã đến bên ông, thắp lại cho ông
những niềm vui, niềm hạnh phúc, sự hòa hợp, đồng điệu từ suy nghĩ đến tình yêu. Đó
chính là nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Nếu Lưu Quang Vũ ngổn ngang với sự đổ vỡ trong hôn

nhân thì mái ấm của nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng không khá hơn là mấy. Chính vì lẽ đó,
mà họ đã phải lòng nhau, yêu thương cho hoàn cảnh của nhau và khi hai tâm hồn hòa
chung nhịp đập, họ đã cùng nhau vượt qua, cùng nhau xây nên một mái nhà hạnh
phúc. Nhưng thật không may, trong chuyến đi ở bãi biển Đồ Sơn cả hai bị tai nạn, họ
ra đi trong niềm tiếc thương khôn xiết của mọi người.
3.2.2. Cái tôi trữ tình cô đơn đến tuyệt vọng
Lưu Quang Vũ từ nhỏ đã mang trái tim của người nghệ sĩ, có tình yêu nghệ thuật
nồng cháy. Ông đến với thơ như chim về với tổ, như nước về với nguồn. Thơ ông là
11


tiếng lòng nhớ nhung, là nỗi nhớ yêu thương hay phải chăng thơ ông là nỗi buồn mà
xa hơn nữa là nỗi cô đơn, đâu chỉ vậy nỗi cô đơn ấy đã đi đến cô độc.
Khi con người ta có những dư chấn trong cuộc đời thì thơ là tiếng lòng trải
nghiệm của họ:
“Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh
Thắp một ngọn đèn hồng như ánh lửa
Đêm sâu quá đêm nào biết ngủ
Chỉ con người đến ngủ giữa đêm thôi”
(Bầy ong trong đêm sâu)
Từng trải qua bao mất mát con người ta sẽ tự cảm thấy bản thân như ngày càng
bị xã hội ruồng bỏ, họ trở nên bi lụy. Đầu tiên đó là sự dằn vặt bản thân, về đêm là lúc
con người ta sống thật với bản thân mình nhất, họ suy nghĩ về bản thân. Ban ngày kìm
nén bao nhiêu thì ban đêm khi ở một mình bản thể con người bộc lộ nỗi niềm thầm kín
bấy nhiêu. Bởi trong tâm thức ấy đã quá tải và đang rên rỉ một cách nhọc nhằn. Con
người tự hòa mình vào màn đêm u uẩn “chỉ con người đến ngủ giữa đêm thôi”. Dĩ
vãng kéo ta về, tương lai gọi ta đến, nỗi buồn, sự cô đơn cứ dai dẳng xảy đến. Trong
con người Lưu Quang Vũ lúc này, nỗi buồn đã bước lên một cung bậc khác đó là nỗi
đau đớn, mệt mỏi:
“Hai ta không đi một ngã đường dài

Không chung khổ đau không cùng nhịp thở
Những gì em cần anh chẳng có
Em không màng những ngọn gió anh trao
Như dao cắt lòng anh như đổ nát
Phố ngoài kia ngột ngạt những con tàu.”
(Từ biệt)
Con người ấy cảm thấy mệt mỏi khi những gì mình có không đáp ứng được nhu
cầu của người mình yêu. Cuộc sống là bông hoa đen mà chú ong nào đó hút mãi chẳng
cho mật ngọt. Lời thơ toàn đắng cay và dường như chủ thể bị mất phương hướng
giống như tâm trạng: Đứng ở quê hương mà nhớ quê hương vậy.
Chính sự ham muốn về đời sống nội tâm trong con người Lưu Quang Vũ nhưng
không được thỏa mãn nên những vần thơ của ông lúc nào cũng quặn thắt sự cô đơn,
Có những lúc:
12


“Tôi khát khao yêu người
Mà không sao yêu được”
Rồi khi không đạt được, người nghệ sĩ cảm thấy bản thân bị lạc loài giữa hàng
vạn con người
“Tôi chỉ là cây trong nỗi buồn bão gió
Lòng tôi trắng mà mùa thu gió độc
Bao giấc mộng gió đuổi vào dĩ vãng”
Đôi lúc ông tự thân hòa nhập vào thiên nhiên, nhưng lại bế tắc quá rồi cảm thấy
mình lạc lõng. “Lòng tôi trắng mà mùa thu gió độc” là hình ảnh toát lên sự chân chính,
cái tôi vững chãi giữa cuộc đời rối ren. Trong thời cuộc này, mọi mơ ước, khát khao
không thể hiện thực hóa được mà chỉ biến nó thành giấc mộng và buồn hơn là đưa vào
dĩ vãng. Và con người sống trong xã hội ấy không thể không lạc loài, chơi vơi giữa
cuộc đời của chính họ.
Nỗi cô đơn như là điểm xuyết, như là dấu ấn riêng trong trang thơ của Lưu

Quang Vũ, dư chấn đời tư làm cho anh cô đơn đến giằng xé:“Nhớ vai em chập chờn
hoa gạo đỏ/ Nhớ vầng trăng xẻ nữa lúc xa xôi”.
Nỗi nhớ ngày càng ăn sâu vào tâm hồn của nhà thơ bởi sự cô đơn đến tuyệt vọng.
Ông hoài niệm lại những ký ức xa xưa, một nữa tình yêu của ông thật sự quan trọng
đến nhường nào. Những người cô đơn, đa cảm thường chuốc lấy nỗi buồn của đời tư,
của nhân tình thế thái, của những nỗi đau và hoài niệm. Nỗi buồn ấy đâu chỉ là ngây
dại, đâu chỉ là quay quắt, mà đó là nỗi cô độc khi con người ta tìm kiếm mãi mà không
có lối ra:
“Đêm nay tôi chẳng biết lối về
Phía nào cũng hàng rào trước mặt
Thế giới có bao nhiêu tường vách
Ngăn cản con người đến với nhau.”
(Mấy đoạn thơ)
Mảnh đất tình yêu được gieo vào hạt giống buồn thương man mác, cái tôi dỗi
hờn dường như rơi vào cõi đơn độc. Ông khắc khoải giữa tình yêu và số phận, đó là
tiếng thơ lặng lẽ thương đời:
“Anh là con ong bay giữa đời lận đận
Trời đêm dài chẳng có một ngôi sao.”
13


(Bầy ong trong đêm sâu)
Nỗi buồn ấy đôi lúc lo âu về hạnh phúc mong manh, Những ngày chưa có em:
“Mưa trên đường xa mưa trên cửa sổ tâm hồn
Ôi tuổi thanh xuân trôi qua bằng những đêm trăn trở”
Con người đôi lúc cô đơn, những lúc ấy trước mắt họ tương lai như mù tối, chuỗi
ngày trôi qua của tuổi thanh xuân được thêu dệt bằng những đêm trăn trở. Dường như
đôi mắt ấy đã in hằn những nỗi buồn, sự lo âu thấp thỏm khi phải sống mà không có
một ai để yêu thương, đâu chỉ vậy tình yêu đầu tiên rời bỏ ông đã làm cho nỗi buồn ấy
càng thấm dần vào con người đa cảm này. Hay đó là nỗi buồn về thế thái nhân tình:

“Quán cà phê chạng vạng khói bay
Mùi khói cũ cay xè con mắt
Ngồi quanh bàn giờ bao người lạ khác
Chỉ anh điên vẫn đứng sững ngoài đường
Thân tiều tụy ôm mặt cười lặng lẽ.”
(Quán cà phê ngoại ô)
Tâm trạng buồn, cô đơn được Lưu Quang Vũ khắc họa qua hình ảnh “khói bay”,
“cay xè con mắt” diễn tả một cách sâu sắc sự bơ vơ lạc loài giữa bao người xa lạ. “Mùi
khói cũ” hay phải chăng đó là nỗi buồn làm mắt ông cay xè, mọi thứ như chao đảo
trước mắt ông, như rơi vào cõi cô độc trống vắng. Như những người không còn biết gì
nữa, ông “ôm mặt cười lặng lẽ” hình ảnh ấy khiến người đọc vừa xót thương vừa đau
đớn. Nỗi buồn Có những lúc là sự chất vấn của cuộc đời:
“Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh
Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao”.
Cô đơn tuyệt vọng – ông luôn mất niềm tin vào cuộc đời, câu hỏi tu từ được ông
xoáy sâu “nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao”, ông hỏi cuộc đời hay hỏi
chính mình. Có lẽ sự chân thành khiến con người ta buồn chăng? Ở Lưu Quang Vũ ta
thấy đầy rẫy những nỗi buồn – buồn chân thành, buồn tuyệt vọng, buồn giằng xé.
Chưa dừng lại ở đó, dường như trong sự cô đơn lạc lối, Lưu Quang Vũ than thở:
“Tôi lớn lên giữa thời bạo ngược
Biết trong đợi gì biết tin tưởng vào đâu.”
(Cầu nguyện)

14


Đúng như tên bài thơ “Cầu nguyện”, hai câu thơ như là lời nguyện của chính Lưu
Quang Vũ, giá như thời mà ông sống đem lại cho ông niềm tin, sự hoài vọng thì tốt
biết bao. Khi những đứa con tinh thần của ông không được chấp nhận và cuộc tình đầu
tiên đã bỏ ông đi, như một vết sẹo lớn trong cuộc đời ông. Đúng như có người đã nói

rằng: “Nếu thế hệ nào trưởng thành cũng thấy ít nhiều bơ vơ, thì thế hệ 20 là thế hệ bơ
vơ hơn hết, lạc loài hơn hết.”
Ông thấy cô đơn trong chính con người mình cũng như ông thấy cô đơn, lạc lõng
giữa những con người trong xã hội:
“Trên bình nguyên đá và cát bỏng
Nỗi cô quạnh con người dưới nắng.”
(Di chúc tình yêu)
Mọi cung bậc cảm xúc được Lưu Quang Vũ gói trọn trong những bài thơ nồng
đượm đến say đắm, ngọt dịu đến chạnh lòng, mỗi bài thơ để lại cho ta cảm xúc khác
nhau nhưng vẫn gặp nhau bởi nỗi buồn lan tỏa trong không gian thơ đầy tình yêu dang
dở.
Lưu Quang Vũ mang trong mình nhiều nỗi đau, nhiều niềm day dứt trong lòng.
Bản thân ông là một người đa sầu, đa cảm, lại thêm những địa chấn đời tư trong quá
khứ, càng phần nào khiến ông nhạy cảm với tất cả mọi thứ xung quanh hơn, dễ tổn
thương hơn. Chính vì thế, từ những cảm xúc đời thường, cái tôi chấn thương trong ông
dễ phần dằn vặt, nhạy cảm. Ngay cả ngồi bên cạnh người thân cũng cảm thấy nỗi cô
đơn dâng trào:
“Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ
Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào
Bàn chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao”
(Mấy đoạn thơ)

3.3. Thể hiện sự bận tâm đến những thân phận nhỏ bé
Lưu Quang Vũ tin rằng, “khi một tiếng gọi cất lên thì bao giờ cũng có tiếng
thưa, không tiếng gọi nào lại rơi vào im lặng đáng sợ cả” [dẫn theo 4]. Chính vì quan
niệm sống ấy đã khiến cho nhà thơ cứ mãi trăn trở với thực tại, buộc phải nói lên tiếng

15



lòng của mình để cùng biết đau, biết san sẻ cùng nhau – nhất là những tháng ngày
cùng cực, sống trong lửa đạn.
Giống như một số các nhà văn, nhà thơ cùng thời, Lưu Quang Vũ đã từng hi
vọng, từng nghĩ đến một ngày mai tươi sáng, hòa bình. Nhưng ngày mai ấy thật xa xôi,
với tay muốn chạm đến cũng chẳng được. Ông dường như thừa sức hiểu thấu được
điều này nhưng ông vẫn cứ đắm chìm, bộc lộ chất tự sự trong con người ông:
“Những tuổi thơ không có tuổi thơ
Những đôi mắt tráo trơ mà tội nghiệp
Chúng ăn cắp, đánh nhau, chửi tục
Lang thang hè đường, tàu điện quán bia
Những bông hoa chưa nở đã tàn đi
Những cành cây chưa xanh đã cỗi”
...
“Sao mọi người có thể dửng dưng
Nhìn em đi trên đường tối
Mọi người đều có tội
Trước tuổi thơ đã chết của em”.
(Những tuổi thơ)
Cái nhìn của Lưu Quang Vũ là cái nhìn đa chiều, thực tế. Ông mượn nhiều hình
ảnh gần gũi với đời sống sinh hoạt hằng ngày để bày tỏ tâm tư của mình trước cuộc
sống. Và hơn bao giờ hết, vần thơ của ông gieo ra thường ẩn chứa sự nấc nghẹn bên
trong, tự vấn cao:
“Em gái mười lăm đã không còn thiếu nữ
Dưới mái tóc quăn trơ bụi vai gầy
Em đi đâu đêm nay
Để lòng tôi se lại
Em lăn lóc trong bùn lội
Mà tôi chẳng biết làm gì
Lặng đứng nhìn em đi
Cổ tôi chừng nghẹn đắng”

...
“Đôi môi em không trong vắt nụ cười
16


Em chẳng biết yêu đương mà mơ ước
Không được đọc những trang sách đẹp
Không biết tin vào những bài ca”.
(Những tuổi thơ)
Sở dĩ Lưu Quang Vũ “ăn không ngon, ngủ không yên” là bởi ông cảm giác như
mình bất lực trước thời đại. Chặng đường ông trải qua và chiêm nghiệm là hành trình
đã cho, lấy của ông rất nhiều, đó là một trong những lí do giải thích vì sao thơ của ông
có những “cái khác” nhưng vẫn đảm bảo được sự rung cảm từ thơ mang lại. Những
điều trông thấy này đã làm kết đọng trong lòng Lưu Quang Vũ một nỗi buồn ám ảnh,
không dễ dàng nguôi ngoai. Liên tưởng của anh, càng đắp thêm vào những cái “bi
thương” hơn nữa, có lúc Lưu Quang Vũ đã rơi vào tâm thế bế tắc:
“Có những lúc tâm hồn tôi rách nát
Như một chiếc lá khô, như một chồng gạch vụn
Một tấm gương chẳng biết soi gì
Một đáy giếng cạn không một hốc mắt đen sì
Trời chật chội như chiếc lồng trống rỗng
Thành phố đầy bụi bặm
Những mặt người lì nhẵn chen nhau”
(Có những lúc).
Lưu Quang Vũ luôn luôn băn khoăn một câu hỏi giữa con người với con người,
con người là gì đối với nhau, có nên tin vào đôi mắt của mình không hay chỉ tin theo
niềm tin có sẵn, cái niềm tin đã được định trước, vạch sẵn. Có khá nhiều nhà thơ sống
trong những năm kháng chiến ấy đã chọn cách thứ hai, tiện và lợi đi đôi nhưng cũng
không ít những nhà thơ đã chọn cách thứ nhấ: Đau trong tâm hồn hơn, và có khi còn
khổ cả thân xác. Ở một góc độ nào đấy, có thể cảm nhận được sự bi lụy trong thơ ông,

nhưng nếu đặt đúng vị trí ban đầu thì thơ ông đã dám thoát ly và nói lên được nỗi lòng
của một con người đang “chơi vơi” giữa thời đại. Và trên tất cả, để công bằng mà nói
thơ của ông truyền cảm hứng và lay động tâm hồn độc giả một cách chiều sâu – cảm
xúc đến từ từ, không vội vã nhưng da diết, cào xé tâm can:
“Em biết chăng ngọn cỏ thơm kia
Con ghé ăn vào bỗng nhiên nhớ mẹ
Quẫy sóng trên sông là con cá mè
17


Hay đậu theo bầy là con chim dẽ
Con tép nhỏ thường kho với khế
Con bồ nông trên cát ướt lao xao...
Chuyện xóm chuyện nhà em chưa biết đâu
Trên bến sông này có một chiều năm ấy
Mẹ đã tiễn cha đi bộ đội...”
(Chuyện nhỏ bên sông).
Ý thức về quan niệm nghệ thuật của Lưu Quang Vũ rất rõ ràng, ở ông – “sự vận
động con người quần chúng đến con người đặt mình trong mối quan hệ cộng đồng,
đại diện cho những số phận của thế hệ, của dân tộc” [1]. Ông hiểu được cuộc sống chỉ
đẹp khi những giá trị mà thơ ông mang lại xuất thân từ sự thật, việc thật và chỉ khi nào
đạt đến nghệ thuật khi được độc giả rung cảm, đồng sáng tạo để khám phá nên những
mạch cảm giác riêng, xây dựng xứ sở riêng cho mình.
Thơ Lưu Quang Vũ tham dự sâu rộng đến đời sống ở mọi tầng lớp của xã hội,
hợp thời với xu thế chung của văn học Việt Nam hiện đại – “văn học đã không thể và
không muốn đứng ra, riêng trị, trước bối cảnh chuyển đổi nhanh chóng của cả đời
sống vật chất và tinh thần xã hội. Mỗi một ứng xử với văn chương, đồng thời là một
ứng xử với chính mình, và trong cùng một lúc ấy, cũng là một cách ứng xử với cuộc
đời” [2,tr.346], Lưu Quang Vũ là một trong số đó.
3.4. Thể hiện trên địa hạt tình yêu

Có thể nói thơ tình của Lưu Quang Vũ dậy sóng từ khoảng năm 1970. Đó là
những trang thơ đời thường mang đậm khát khao bình dị về tình yêu, những trăn trở
suy tư của cảm xúc cá nhân,… tất cả mọi thứ như đã ăn sâu vào máu thịt, nhịp thở và
tâm hồn của con người ấy.
Tình yêu là thứ tình cảm mà con người luôn muốn chinh phục và khám phá. Bởi
lẽ, nó mang lại cho ta nhiều cung bậc cảm xúc:
“Ngực anh thở gắn liền với đất
Có nhiều đêm anh khát những chùm sao”.
(Đất)
Thời 1945 – 1975, tình yêu đôi lứa phải đặt sau tình yêu Tổ quốc, con người yêu
nước phải tôn tình yêu tổ quốc thành mối thờ thiêng liêng. Nhưng cơn địa chấn đời tư
18


đã làm cho những vần thơ của Lưu Quang Vũ trở nên “lạc điệu”, “nhầm đường rẽ lối”.
Tuy nhiên, có mấy ai can đảm viết lên tiếng lòng như Lưu Quang Vũ trong giai đoạn
này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào thơ sự giằng xé, đau khổ trong tình yêu, mà sau này Vi
Thùy Linh gọi đó là “đơn độc trong sáng tạo”.
Bất hạnh tình yêu đón đợi nhà thơ quá sớm, ngay từ lúc bắt đầu xây dựng gia
đình riêng. Trong Nửa đêm đến thành phố lạ gặp mưa, nhà thơ tự chất vấn tình yêu
“Có lẽ nào em lìa anh lần nữa”
Hay trong Mấy đoạn thơ:
“Tôi còn gì mà đau khổ nữa”
Mất niềm tin vào tình yêu, Lưu Quang Vũ thể hiện sự đau khổ đến tột cùng,
giằng xé. Nhà thơ trải mình đến tự trào:
“Anh như thằng bờm
Chẳng thiết trâu bò, chẳng thiết lim
Chỉ nhận nắm xôi người ngặt nghẽo”
(Ngã thư tháng Chạp)
Lưu Quang Vũ nhại lại thằng Bờm để nói về sự bất cần của mình. Con người ta

rơi vào bất cần khi không còn bám víu.
“Mất hạnh phúc rồi ư nhưng anh cần chi hạnh phúc
Hai tiếng mơ hồ hiểu rõ nghĩa từ lâu
Ừ thì ngẩn ngơ anh đành nhận thế
Giọt lệ trong không tủi hổ gì đâu”
(Anh đã mất chi, anh đã được gì)
Tuy buông lời bất cần, nhưng Lưu Quang Vũ thật sự rất thèm khát hạnh phúc.
Sau đổ vỡ, ông luôn tìm đến thềm cao của niềm tin, chính chân lý sống này đã làm
động lực sống cho Lưu Quang Vũ. Trong thơ Lưu Quang Vũ ta nhận thấy một hồn thơ
luôn khắc khoải về tình yêu. Bởi lẽ những sự đổ vỡ trong cuộc sống đã khiến ông suy
tư, băn khoăn hơn về cuộc sống thực tại, mà đặc biệt là trong tình yêu của ông. Cái tôi
luôn kiếm tìm tình yêu của mình trong niềm say mê hoang lạc:
Em ở đâu em ở phương trời nào
Môi em thở những điều gì khe khẽ?
Em, em gần hay em xa thế nhỉ
Đến bất ngờ lóa nắng giữa lòng đau
19


(Bầy ong trong đêm sâu)
Lưu Quang Vũ luôn khao khát yêu hết mình, yêu cháy bỏng, muốn bù đắp cho
những người mình yêu:
“Trời xanh và cánh rộng
Anh hôn từng ngón tay
Anh hôn làn tóc xoã
Trên trán buồn âm u
Anh hôn lên đôi mắt
Môi chạm vào bao la”
(Thơ tình viết về một người đàn bà không tên II)
“Môi chạm vào bao la” nghĩa là nụ hôn rơi vào khoảng không, tất cả chỉ là ảo

ảnh bởi vì một lần mất đi hạnh phúc, người ta sẽ luôn phấp phỏm, lo âu. Nhưng mỗi
người phụ nữ đi qua đời ông, ông đều dành cho họ một tình yêu chân thành. Đối với
“người đàn bà không tên” ấy, Lưu Quang Vũ chia sẻ:
“Là mây trắng của một đời cay cực
Vượt lên trên những mái nhà chật hẹp
Em em là mấy trắng của đời tôi”
(Thơ tình viết về một người đàn bà không tên III)
Những vần thơ của ông không trách móc, không oán hận, nhà thơ nhớ về những
ngày tháng tình yêu vẫn đương còn nồng ấm, nhớ lại những kỉ niệm trong tình yêu lứa
đôi. Và rồi theo dòng cảm xúc từ những nỗi nhớ hạnh phúc nhất cuộc đời của nhà thơ
cho đến nhớ đến cảnh “vầng trăng xẻ nửa lúc xa xôi”. Nỗi đau vẫn đang còn đó, giằng
xé bản thân của nhà thơ qua từng tháng ngày và giằng xé luôn một tâm hồn vốn dĩ
nhạy cảm, một hồn thơ trăn trở, thổn thức với thời gian. Con người ai cũng sẽ gặp
những cú sốc trong cuộc đời, nhưng đối với Lưu Quang Vũ, cú sốc tình yên đến một
cách chóng vánh khiến cho nhà thơ đau đớn, khắc khoải, day dứt với tình yêu và số
phận con người của mình.
“Nhớ vai em chập chờn hoa gạo đỏ
Nhớ vừng trăng xẻ nửa lúc xa xôi.”
(Từ Biệt)
Trong sự lẩn quẩn tự vấn, Lưu Quang Vũ lo sợ một nỗi lo về tình yêu và hạnh
phúc. Một lần đã trải qua những nỗi đau của sự đổ vỡ con người ta lại mất lòng tin vào
20


cuộc sống, huống hồ Lưu Quang Vũ là một hồn thơ nhạy cảm trong cuộc sống xã hội
và đặc biệt là trong tình yêu hôn nhân. Những sự hoài nghi, tự vấn là một điều dễ hiểu,
ông không thể nào yên phận được mà luôn luôn lo lắng, nghi ngờ đến “giọt sương
rơi”. Nhưng những lúc cô đơn, tuyệt vọng trong ông vẫn không nguội tắt lòng yêu:
“Ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em”. Và trong suốt cuộc đời lắm khổ đau, ông
vẫn không nguôi khát vọng về một tình yêu đẹp, tình yêu dành cho “người đàn bà

không tên”:
“Người ta bảo rằng em đã chết,
Người ta bảo quên đi đừng phí sức,
Em làm gì có thật mà mong...
Tôi làm sao có thể nguôi yên
Khi biết ở nơi nào em vẫn sống
Em sẽ đến như ngày rồi sẽ nắng
Tôi sống bằng khoảng rộng ở nơi em.”
Với hiện thực đầy éo le, ngang trái: “Người ta bảo rằng em đã chết”, “em làm gì
có thật mà mong” và chân lí của lí trí đặt ra là anh phải quên đi, quên bẵng đi vì mọi
công chỉ là phí sức. Nhưng lí trí sao có thể ngăn được trái tim dậy sóng kia, nó không
thể ngồi yên, không thể ngừng yêu thương. Trong tâm trí vẫn hoài mong, hi vọng và
thèm khát rằng em vẫn sống, vẫn ở đây, và mang nắng đến đời anh, chiếu soi trái tim
hiu quạnh này. Khát khao thế thôi, niềm tin ít ỏi ấy thôi đã nuôi sống được chủ thể trữ
tình bao nhiêu rồi! Lưu Quang Vũ sống trên niềm hi vọng ấy, trong “khoảng rộng ở
nơi em”.
Và đọng lại cuối đời ông là nữ sĩ Xuân Quỳnh – người phụ nữ sinh ra để yêu và
làm thơ. Lưu Quang Vũ đã tặng cho người phụ nữ yêu dấu ấy bài thơ Nhà chật thể
hiện tình yêu mạnh liệt của hai người trong ngôi nhà nhỏ bé:
“Nhà chỉ mấy thước vuổng, sách vở xếp cạnh nồi
Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm thùng gạo”.
Nếu không có tình yêu mạnh mẽ, có lẽ Xuân Quỳnh cũng đã rời Lưu Quang Vũ
ra đi như “những người đàn bà không tên” kia. Nhưng không may, họ đã từ bỏ “cõi
tạm” của cuộc sống này để đi về thế giới “vĩnh hằng”.
Tóm lại, cảm hứng thế sự đời tư thể hiện trong cung đàn tình yêu của Lưu Quang
Vũ., một tấm lòng yêu mãnh liệt, một con người đa cảm. Thơ tình yêu của ông có một
21


sự nhất quán, cái tôi yêu đương luôn đắm đuối mặn nồng, dù có đau khổ tột cùng, thì

sau đó nhà thơ vẫn tiếp tục hành trình tìm đến thềm cao của niềm tin.

22


KẾT LUẬN
Xuôi dòng văn học Việt Nam hiện đại, văn học thời 1945 – 1975 không quên
nhiệm vụ hòa chung vào không khí chiến đấu chống giặc ngoại xâm, nơi tinh thần dân
tộc được đẩy lên cao. Nếu Phạm Tiến Duật say sưa trong tiếng hát của những chiến sĩ
đầy sự lạc quan, yêu đời, tình yêu trong họ như một cơn gió nhẹ dịu lướt qua, Lâm Thị
Mỹ Dạ với những khúc ca đầy tin yêu về những cô gái tuổi đôi mươi mang trong mình
nhiều khát khao và hi vọng… thì Lưu Quang Vũ lại mang hơi thở mới lạ, độc đáo,
không trộn lẫn với bất kì ai trong nền văn chương lúc bấy giờ. Khuynh hướng thế sự
đời tư trong sáng tác của Lưu Quang Vũ, không chỉ đơn thuần là khai thác cái tôi cá
nhân trong mạch cảm xúc thời đại, mà còn là những trang viết giàu tính chiêm nghiệm,
triết lí, hiện sinh. Chất văn xuôi trong thơ ông, cũng như giọng điệu đa thanh đa cảm
trong từng tác phẩm, ta mới thấy hết được tài năng của ông. Các sáng tác của ông
trong giai đoạn 1945-1975 tuy không được đón nhận nồng nhiệt ở thời điểm đó, song
cho đến hôm nay lại vô cùng giàu giá trị, tạo tiền đề cho một làn gió mới trong xu
hướng hiện đại hóa văn học và đóng góp không nhỏ cho dòng chảy văn học Việt Nam.
Người nghệ sĩ chân chính, tài năng là người dám sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật bằng
chính tư duy, xúc cảm của bản thân mình và thổi vào đó sự tinh tế, chân thành. Chính
vì lẽ đó, Lưu Quang Vũ đã vô cùng thành công với những sáng tác mang hơi thở thế
sự - đời tư, mà cho đến nay không ai có thể vượt qua ông. Với sự khác biệt ấy, cảm
hứng thế sự đời tư ẩn chứa trong suy nghĩ của một người đàn ông đa sầu, đa cảm cùng
những dư chấn đời tư in đậm vào tâm thức của chính mình, Lưu Quang Vũ đã hoàn tất
quá trình sáng tạo cái tôi từ mạch thanh trong dịu nhẹ ở các sáng tác đầu tay đến sự
nhận thức sâu sắc, nhuần chín khi hồn thơ đong đầy gió bão:
“Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh
Thắp một ngọn đèn hồng như ánh lửa

Đêm sâu quá đêm nào biết ngủ
Chỉ con người đến ngủ giữa đêm thôi.”

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách:
1. Bùi Bích Hạnh, (2014), Thơ trẻ Việt Nam 1965 -1975 khuôn mặt cái tôi trữ tình,
NXB Văn học.
2. Đỗ Lai Thúy (Chủ biên), (2016), Những cạnh khía của lịch sử Văn học, NXB
Hội nhà văn.
3. Lưu Quang Vũ, (2016), Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội nhà
văn.
Tài liệu Internet:
4. Blogtho.wordpress.com,

(2009),

Thơ

Lưu

Quang

Vũ,

nguồn:

ngày truy cập: 13/03/2017.

5. Nguyễn Đăng Mạnh, (2013), Đặc điểm cơ bản của nền văn học mới Việt Nam
giai đoạn 1945-1975, nguồn: ngày truy cập: 11/03/2017.
6. Nguyễn Văn Nở, (2012), Cảm hứng thế sự - điểm gặp gỡ và khác biệt giữa tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh với tiểu thuyết của một số tác giả miền Bắc cùng thời,
nguồn:

/>
option=com_content&view=article&id=39:cm-hng-th-s-im-gp-g-va-khac-bitgia-tiu-thuyt-h-biu-chanh-vi-tiu-thuyt-ca-mt-s-tac-gi-min-bc-cungthi&catid=26:vn-hc-hin-i, ngày truy cập: 11/03/2017.
7. Thivien.net,

(2008),

Lưu

Quang Vũ,

nguồn:

/>
%C6%B0u-Quang-V%C5%A9/author-WpRofb64NUUZVCwLGK-ucg,

ngày

truy cập: 12/03/2017.
8. Lý Hoài Thu, (2017), Thơ Lưu Quang Vũ – gió và tình yêu thổi trên đất nước
tôi, nguồn: />12/03/2017.

24

ngày


truy

cập:


MỤC LỤC

25


×