Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

tín hiệu thẩm mỹ mưa trong thơ lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.54 KB, 30 trang )

Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

PHẦN MỞ ĐẦU
A.Lý do chọn đề tài
Em ở đấy đời chẳng còn đáng ngại
Em ở đấy bàn tay tin cậy
Bàn tay luôn đỏ lờn vỡ giặt giũ mỗi ngày
Đôi mắt buồn của một xứ sở có nhiều mưa
Đã quen lắm, anh vẫn còn bỡ ngỡ
Gọi tên em môi vẫn lạ lùng sao
(…Và anh tồn tại)
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ, nhà viết kịch tài năng. Ở mỗi lĩnh vực, anh
đều có những thành công riêng, ở địa hạt nào, Lưu Quang Vũ cũng tạo được bản
sắc riêng, giọng điệu riêng nhưng cốt cách của anh vẫn là cốt cách của người
làm thơ. Những vần thơ của anh bao giờ cũng nồng nàn, tha thiết, xen lẫn dư vị
ngọt ngào-cay đắng, đam mê, khát vọng cùng thất vọng, đớn đau, ào ạt mà dịu
êm. Đó là những vần thơ tình chân thật nhất từ con tim khỏt yờu, nồng cháy của
anh.
Giọng thơ của anh là giọng thơ "đắm đuối" :"Đắm đuối đó là một đặc
điểm của suốt đời Lưu Quang Vũ. Vui hay buồn, tin cậy hay hoang mang…bao
giờ anh cũng đắm đuối"(Vũ Quần Phương). Hoài Thanh cũng nhận xét thơ anh
kết tinh sự đắm đuối. Có lẽ, hai tiếng "đắm đuối" đã gọi được chất thơ, hồn thơ
trong anh.
Thơ Lưu Quang Vũ đắm đuối không chỉ ở cách nói, ở thủ pháp diễn đạt
mà còn ở cách cảm thụ đời sống bằng cảm giác. Là con người nhạy cảm, anh
nắm bắt thực tại bằng giác quan tinh tế và phong phú. Thơ anh là dòng chảy
cảm xúc ào ạt, dạt dào, đấy ắp những hình ảnh thực-ảo, thực -mộng đan kết.
Đắm đuối là bản sắc cảm xúc Lưu Quang Vũ đồng thời cũng tạo nên sức lôi
cuốn ám ảnh cho thơ anh.
1


Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Thơ Lưu Quang Vũ buồn, "một nỗi buồn thăm thẳm và canh cánh", buồn
vì tình yêu, buồn vì cuộc đời, buồn vì thất vọng trước cuộc sống… Anh thành
thực yêu cuộc đời, yêu những người đàn bà và cũng buồn thành thực khi tình
yêu ra đi, khi những người phụ nữ bỏ đi "như những dòng sông nhỏ", khi lời hẹn
thề rốt cuộc chỉ là "những cơn mưa".
Ta thường bắt gặp trở đi trở lại trong thơ Lưu quang Vũ những hình ảnh
chỉ sự vận động, không yên định mang tính chất biểu tượng như: mưa, giú,
chuụng, con thuyền, con đường…Trong phạm vi bài viết này, chựng tụi chỉ có
thể tìm hiểu về tín hiệu thẩm mỹ "mưa". Biểu tượng mưa mang nhiều ý nghĩa.
Có thể nói mưa trong thơ Lưu Quang Vũ rất gần gũi, thân thuộc với anh. Mưa là
không gian tâm trạng, là nỗi niềm riêng với nhiều trăn trở.Trong các thi sĩ đương
thời,"Vũ là người nhạy cảm với mưa, thân thuộc với mưa hơn ai hết"(Vương Trí
Nhàn).Mưa chính là một biểu tượng quen thuộc trong thơ Lưu Quang Vũ.
Chớnh bởi "mưa" rất thõn quen, gần gũi trong thơ Lưu Quang Vũ mà cũn
ít được quan tõm, xem xét. "Mưa" là một tín hiệu thẩm mỹ chuyển tải được
nhiều ý nghĩa trong thơ Lưu Quang Vũ . Chớnh vì thế, những lí do này đã khiến
chúng tôi quan tõm và muốn tỡm hiểu về tín hiệu thẩm mĩ "mưa" trong thơ Lưu
Quang Vũ .
B.Lịch sử vấn đề.
Trong thơ Lưu Quang Vũ xuất hiện rất nhiều tín hiệu thẩm mĩ: gió,
mưa, lửa, thuyền, chuông,…Những tín hiệu ấy đã tạo nên những dấu ấn đáng
nhớ trong thơ Lưu Quang Vũ .
Những tín hiệu ấy xuyên suốt, đồng hành và ám ảnh cùng với tiếng thơ
Lưu Quang Vũ. Phạm Xuõn Nguyờn đã viết về "Tâm hồn trở gió" trong thơ Lưu
Quang Vũ: "Lưu Quang Vũ khát những khoảng rộng, khát những chuyến đi.
Anh luôn luôn là người đang ở trên đường. Như con tàu luôn bồn chồn ra đi.
Thơ anh tất bật, hối hả như đời anh, suốt đời vội đi, suốt đời nóng ruột. nghe

tiếng gió chuyển, gió nổi, gió trở là anh náo nức muốn lao ra với cuộc đời bên
2
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

ngoài, muốn tung mình ra ngoài không gian". Có thể nói gió mang tõm hồn nhà
thơ, chở tõm hồn ấy đến những bến bờ xa. Bài viết của Phạm Xuõn Nguyên đã
khám phá, khai thác mọi góc độ của biểu tượng gió, khám phá tõm hồn trở gió
của nhà thơ tài năng Lưu Quang Vũ.
Nguyễn Thị Kim Chi trong "Đặc sắc thơ Lưu Quang Vũ" đã đi vào tỡm
hiểu hai biểu tượng lửa và gió trong thơ Lưu Quang Vũ. Nguyễn Thị Kim Chi
đã nhắc đến những hình ảnh mang tớnh biểu tượng trong thơ anh, trong đó có
mưa tuy nhiên lại không đi vào ý nghĩa của mưa mà chỉ nhận xét: "Thơ Lưu
Quang Vũ thường lặp đi lặp lại những hình ảnh chỉ sự vận động, cháy sáng,
không yên định… mang tớnh biểu tượng: con đường, con thuyền, con sông,
ngọn lửa, mưa…". Đõy chỉ là một nhận xét mang tớnh đánh giá khái quát.
Vương Trí Nhàn trong "Những bài thơ "viển vông, cay đắng, u buồn" viết
trong những năm chiến tranh" đã nêu lên: "Trong các thi sĩ đương thời, Vũ là
người nhạy cảm với mưa, thõn thuộc với mưa hơn ai hết. Ở anh, mưa cho thấy
sự trôi qua của thời gian mà con người bất lực, không sao níu kéo nổi". Vương
Trí Nhàn cũng mới chỉ ra một đặc điểm tổng quát về mưa ở thơ Lưu Quang Vũ.
Như vậy các bài viết của các tác giả chưa có ai đi sõu vào ý nghĩa của tín
hiệu thẩm mỹ "mưa" trong thơ Lưu Quang Vũ. Nếu có cũng mới chỉ là nhận xét
sự xuất hiện dày đặc của nó trong thơ anh hoặc mới chỉ đưa ra một ít nhận xét về
một vài ý nghĩa của tín hiệu thẩm mỹ "mưa". Với chuyên đề này, chúng tôi
muốn đi sõu tỡm hiểu các lớp ý nghĩa của tín hiệu thẩm mỹ "mưa" trong thơ
Lưu Quang Vũ.
C. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Chúng tôi nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ "mưa" trong tập "Lưu Quang Vũ
thơ và đời" do Lưu Khánh Thơ biên soạn gồm 121 bài thơ.

3
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

PHẦN NỘI DUNG
A. Tín hiệu thẩm mỹ
I. Tín hiệu và tín hiệu thẩm mỹ
1.Tín hiệu.
Piar-guiraud định nghĩa: "Một tín hiệu… là một kích thích mà sự tác động
của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức của một kích thích khác".
2.Tín hiệu thẩm mỹ.
2.1 Định nghĩa.
Theo Nguyễn Thị Ngõn Hoa: tất cả các tín hiệu ngôn ngữ tham gia vào
việc cấu tạo nên tác phẩm văn học đều được coi là tín hiệu thẩm mỹ.
Theo Đỗ Hữu Chõu: với tư cách là thể chất của tác phẩm văn học, ngôn
ngữ văn học có thể được xem là một hệ tín hiệu bao gồm các tín hiệu thông
thường và tín hiệu thẩm mỹ. Các tín hiệu thông thường chỉ thực hiện chức năng
tái tạo hiện thực. Tín hiệu thẩm mỹ luôn chứa đựng tư tưởng, ý nghĩa nào đó của
tác giả thông qua quá trình khái quát hoá, biểu trưng hóa nghệ thuật.
2.2 Tính chất hai mặt của tín hiệu thẩm mỹ.
- Hình thức biểu hiện (cái biểu hiện): Tín hiệu thẩm mỹ phải có phần tri
giác được, phần có thể nhận biết được bằng các giác quan. Nó là õm thanh trong
õm nhạc, màu sắc trong hội hoạ, ngôn từ trong văn học… Nghệ thuật không chỉ
phản ánh hiện thực bên ngoài những phương tiện vật chất của nó.
- Nội dung ý nghĩa (Cái được biểu hiện): Tín hiệu thẩm mỹ phải thông tin
về một cái gì đó trong đời sống hiện thực, nó mới thực hiện chức năng phản ánh
nghệ thuật của mình. "Cái gì đó" thường có khi không chỉ là và không phải là
bản thõn hiện thực, mà là nội dung tư tưởng nghệ thuật được toát lên từ hiện
thực đó. Bởi vậy, ý nghĩa của tín hiểu thẩm mỹ chớnh là ý nghĩa thẩm mỹ.
2.3 Mối quan hệ hai mặt của tín hiệu thẩm mỹ

Tín hiệu thẩm mỹ thuộc loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa hai mặt biểu
hiện và được biểu hiện là hoàn toàn có lý do. Tín hiệu thẩm mỹ tham gia vào
4
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

một hoạt động tinh thần độc đáo của con người là hoạt động sáng tạo nghệ thuật,
liên quan đến những vấn đề tinh tế của đời sống về cảm xuất, liên tưởng.
II. Tín hiệu ngôn ngư và tín hiệu thẩm mỹ.
Đối với tác phẩm văn học hình thức vật chất của tín hiệu thẩm mỹ chính
là ngôn ngữ. Cấu trúc đặc biệt của ngôn ngữ cho phép chứa đựng trong mỗi
ngôn từ tác phẩm văn học một phạm vi nào đó của đời sống hiện thực cùng
những nét thuộc tính khách quan của đời sống hiện thực được phản ánh. Với
ngôn ngữ có thể tiếp nhận từ văn học những hiện thực trực tiếp thông qua ý
nghĩa của ngôn ngữ. Chớnh vì thế, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện mà cũn là
chất liệu của văn học.
Tuy nhiên không thể đồng nhất ngôn ngữ với văn học và không thể đồng
nhất tín hiệu ngôn ngữ với tín hiệu thẩm mỹ.
Tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn học bao giờ cũng phải có hình thức
vật chất của nó, đó là hình thức ngôn ngữ. Các yếu tố hiện thực được đưa vào
tác phẩm với vai trò tín hiệu thẩm mỹ bao giờ cũng được diễn đạt bằng ngôn
ngữ tự nhiên. Nhưng ngược lại những tín hiệu của ngôn ngữ tự nhiên, ngay khi
được sử dụng vào tác phẩm văn học cũng chưa hẳn đã làm tín hiệu thẩm mỹ.
Tín hiệu thẩm mỹ phõn biệt với các tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên ở chỗ ý
nghĩa của nó không bao giờ dừng lại ở phạm vi tái tạo hiện thực mà phải là một
khái quát nghệ thuật về một tư tưởng, một ý nghĩa nào đó của người nghệ sỹ.
Trong tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên, quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được
biểu hiện có thể là vừ đoán. Nhưng trong tín hiệu thẩm mỹ nó luôn có lý do và
là lý do liên hội. Tớnh liên hội của tín hiệu thẩm mỹ trong văn học giúp cho hình
tượng nghệ thuật luôn thoát khỏi những giới hạn ngữ nghĩa thuần tuý, trở thành

những yếu tố có sức khái quát lớn về mặt nội dung tư tưởng nghệ thuật.
III. Nguồn gốc của tín hiệu thẩm mỹ
1.Nguồn gốc tự nhiên.
Xuất phát từ cơ chế tõm lý con người, con người không chỉ dừng lại ở
nhận thức giá trị thực dụng của đối tượng mà luôn hướng đến những giá trị tinh
thần được gợi ra từ những đặc điểm bản thể của đối tượng.
5
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Các cấp độ của tín hiệu thẩm mỹ:
-Cấp độ mẫu gốc(archetype): mẫu gốc là những tín hiệu thẩm mỹ đầu tiên
được con người nhận thức từ trong thời kì sơ khai của xã hội loài người và các ý
nghĩa biểu trưng của nó, là mẫu số chung trong tâm thức của cộng đồng nhân loại.
-Cấp độ biểu tượng: Các mẫu gốc khi đi vào các nền văn hoá thì sẽ chịu
sự điều biến của các yếu tố địa lý, kinh tế xã hội của từng dõn tộc và sản sinh ra
những biến thể khác nhau gọi là những biểu tượng.
-Cấp độ hình tượng nghệ thuật: Các biểu tượng văn hoá khi đi vào trong
tác phẩm nghệ thuật sẽ chịu sự điều chỉnh của yếu tố chủ thể và được hiện thực
hoá thông qua hệ thống các chất liệu khác nhau của các ngành nghệ thuật tạo ra
các hình tượng nghệ thuật.
2.Nguồn gốc thứ hai
Các tín hiệu thẩm mỹ có thể không có nguồn gốc tự nhiên mà chúng
được vay mượn từ những nền văn hoá khác.
IV.Tớnh chất và chức năng của tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm
văn học.
1.Tính chất của tín hiệu thẩm mỹ .
Tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn học là kết quả của sự chuyển hoá
các tín hiệu trong tự nhiên hay của các mẫu gốc, biểu tượng vào trong hệ thống
ngôn ngữ. Vì vậy nó vừa mang những tớnh chất của những tín hiệu thẩm mỹ

nói chung vừa mang những tớnh chất của tín hiệu ngôn ngữ.
1.1.Tính nhân loại, tính dân tộc, tính lịch sử.
a.Tớnh nhân loại.
Các tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn học là sự chuyển hoá của các
mẫu gốc, các biểu tượng. Vì vậy các hướng nghĩa biểu trưng mà nó gợi lên là có
tớnh chất chung cho toàn nhõn loại hoặc đó là những mẫu số chung mà một tác
phẩm văn học có thể gợi lên.
b.Tớnh dân tộc.
6
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Các mẫu gốc khi đi vào những nền văn hoá khác nhau sẽ sản sinh ra
những biến thể cái biểu đạt và cái được biểu đạt do ảnh hưởng của những điều
kiện địa lý, kinh tế, tôn giáo.
c.Tớnh lịch sử.
Giá trị của một tín hiệu thẩm mỹ không phải là một hằng thể mà nó
thường xuyên biến đổi. Cùng bắt nguồn từ một nguồn gốc nhưng khi đi vào các
nền văn hoá khác nhau sẽ mang những nét nghĩa biểu trưng khác nhau.
1.2.Tính phi vật thể, phi trực quan của tín hiệu thẩm mỹ .
Các ngành nghệ thuật khác (hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc) sử dụng các
chất liệu mang tớnh phi vật thể. Đó là ngôn ngữ.
a.Tớnh phi trực quan.
Đõy không phải là tớnh chất riêng của loại hình văn học mà là tớnh chất
chung của các loại hình nghệ thuật.
Biểu tượng trực quan là những biểu tượng tõm lý, hình ảnh của sự vật,
hiện tượng cũn trong trí óc chúng ta tác khi những kích thích bên ngoài đã chấm
dứt. Biểu tượng trong nghệ thuật không bao giờ là biểu tượng trực quan mà từ
những đặc điểm bản thể của đối tượng nó có khả năng gợi lên những giá trị tinh
thần.

Các đối tượng chỉ trở thành các tín hiệu thẩm mỹ khi từ những đặc điểm
bản thể của nó người nghệ sỹ có thể gợi ra những hướng nghĩa biểu trưng,
những ý nghĩa tinh thần.
Tớnh phi trực quan là đặc tớnh của tư duy cao cấp nói chung chứ không
phải của riêng tư duy nghệ thuật.
b.Tớnh hình tuyến
Bản thõn hệ thống tín hiệu ngôn ngữ mang tớnh hình tuyến, nó chỉ có thể
thực hiện lần lượt trên trục thời gian, chỉ có thể xuất hiện các yếu tố nối tiếp
nhau chứ không thể xuất hiện đồng thời các yếu tố.
7
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Tín hiệu ngôn ngữ sẽ gặp khó khăn cho việc diễn tả những sự kiện diễn ra
đồng thời nhưng sẽ có mặt mạnh trong việc diễn tả từng yếu tố nối tiếp nhau và
đặc biệt có khả năng diễn tả thế giới nội tõm con người.
2.Đặc trưng về hệ thống của tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn học
Để xác định cấu trúc của tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn học, cần
phải xác định lại các mối quan hệ chi phối giá trị của mỗi yếu tố tín hiệu này:
2.1.Những mối quan hệ trong văn bản tác phẩm văn học
Về bản chất mỗi tác phẩm văn học là một tổ hợp những tín hiệu thẩm mỹ.
Cấu trúc một văn bản tác phẩm văn học hình thành trên mối quan hệ điều chỉnh
lẫn nhau của các tín hiệu thẩm mỹ được sử dụng trong tác phẩm. Những tín hiệu
này sau một quá trình lựa chọn trở thành những yếu tố hiện diện trong tác phẩm
và bắt đầu sống cuộc sống của nó trong văn bản, chịu những quy định trong kết
cấu văn bản: cú pháp, sự cộng hưởng ngữ nghĩa.
Tuy nhiên nếu chỉ xét tín hiệu thẩm mỹ trong mối quan hệ với các yếu tố
ngôn ngữ khác trong văn bản tác phẩm văn học thì chưa đủ giải thích quá trình
đưa một số yếu tố hiện thực vào thành tín hiệu thẩm mỹ và giá trị chõn thực của


2.2 Những mối quan hệ bên ngoài tác phẩm văn bản
Hệ thống tín hiệu trong tác phẩm văn học là hệ thống bao gồm những
nhõn tố của quy trình sáng tạo (quy trình cuộc sống- nhà văn- tác phẩm-bạn
đọc). từ đó hình thành mối liên hệ tín hiệu thẩm mỹ và các nhõn tố này.
-Tín hiệu thẩm mỹ với toàn bộ yếu tố cũn lại trong văn bản tác phẩm.
-Tín hiệu thẩm mỹ với phạm vi cuộc sống mà tác giả quan tõm, chọn vào
mục đích thẩm mỹ.
-Tín hiệu thẩm mỹ với hệ thống cảm xúc của tác giả.
-Tín hiệu thẩm mỹ với tín hiệu lĩnh hội của bạn đọc.
2.3 Các đơn vị tín hiệu thẩm mỹ.
8
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

a. Cấp độ cơ sở (tín hiệu đơn): là những tín hiệu tương đương với loại
đơn vị hai mặt nhỏ nhất của ngôn ngữ mang ý nghĩa biểu trưng nghệ thuật tương
đối hoàn chỉnh trong tương quan với những yếu tố khác cùng tham gia vào quá
trình biểu trưng nghệ thuật của toàn bộ hình tượng, toàn bộ tác phẩm.
Tín hiệu thẩm mỹ tương đương một từ có ý nghĩa thẩm mỹ trong tác
phẩm, có thể là một cụm từ với một từ trung tõm cùng những yếu tố phụ trợ.
b. Cấp độ xõy dựng (tín hiệu phức hợp): là loại tín hiệu thẩm mỹ ứng với
những sự vật, hiện tượng được xõy dựng từ những tín hiệu đơn nhưng ý nghĩa
không phải là kết quả của phép cộng đơn giản của các tín hiệu đơn. Cái biểu
hiện ở đõy có thể tương ứng với các cõu, đoạn văn, văn bản trong hệ thống các
tín hiệu ngôn ngữ.
3. Đặc trưng về chức năng của tín hiệu thẩm mỹ.
3.1. Chức năng tái hiện.
Chức năng này thể hiện ở sự trình bày lại, mô tả lại đối tượng hiện thực
được nói tới. Khác với những loại hình nghệ thuật khác, tín hiệu thẩm mỹ này
tái hiện hiện thực trong văn học, thông qua nội dung khái niệm của những tín

hiệu ngôn ngữ. Mỗi tín hiệu thẩm mỹ vì thế có thể thay thế được cho một phạm
vi, một thuộc tớnh nào đó của cuộc sống trong sự quy định ngữ nghĩa của tín
hiệu ngôn ngữ.
3.2.Chức năng thông báo
Chức năng thông báo dựa trên khả năng biểu cảm của những tín hiệu
ngôn ngữ được lựa chọn. Tớnh biểu cảm là cái mặt thứ hai của ngôn ngữ. Tín
hiệu thẩm mỹ là kết quả của sự lựa chọn có dụng ý nghệ thuật của nhà văn giữa
những yếu tố ngôn ngữ trung hoà không gõy cảm xúc với những yếu tố ngôn
ngữ có giá trị biểu cảm, quan trọng là nó có lý do chủ quan về tư tưởng, cảm xúc
của người nghệ sỹ.
3.3.Chức năng tác động.
9
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

-Mặt thứ nhất của chức năng này nằm ở vai trò của mỗi tín hiệu đối với
toàn bộ hệ thống tác phẩm thông qua mối quan hệ điều chỉnh lẫn nhau giữa tín
hiệu với tất cả tín hiệu cũn lại trong tác phẩm khiến cho hệ thống tác phẩm có
thể bị tác động, điều chỉnh.
-Mặt thứ hai của chức năng này là vai trò của mỗi tín hiệu trong việc xõy
dựng nên những tín hiệu lớn hơn trong hệ thống. Mỗi tín hiệu thẩm mỹ không
thể tự nó và không thể chỉ vì nó mà cũn vì cái gì đó rộng lớn hơn…nên tín hiệu
thẩm mỹ có thể xem là vật liệu xõy dựng nên hình tượng của tác phẩm.
B.Tớn hiệu thẩm mỹ "mưa" trong thơ Lưu Quang Vũ.
I.Hướng nghĩa biểu trưng thuộc bình diện văn hoá của tín hiệu thẩm
mỹ "mưa"
1 Mưa biểu trưng cho sự sinh sản dồi dào, sự tái sinh
Mưa được coi là biểu tượng của tác động của trời mà mặt đất tiếp nhận
được. Mưa là tác nhân làm cho đất sinh sản, nhờ mưa mà đất được phì nhiêu ,
màu mỡ. Do đó có vô số nghi lễ nông nghiệp nhằm cầu mưa, phơi nắng, dùng lò

rèn để kêu gọi giụng bóo, đắp các gũ cát như ở Cămpuchia, những vũ điệu đa
dạng.Nhưng tính phì nhiờu còn được mở rộng sang những lĩnh vực khác không
thuộc về đất : thần sét Indra làm mưa cho đồng ruộng nhưng cũng làm cho phụ
nữ và các giống vật sinh đẻ. Những cái từ trên trời đi xuống mặt đất còn là sự
phong nhiêu của thần, ánh sáng và các tác động tâm linh khác.
Theo Kinh Dịch, mưa có nguồn gốc ở quẻ càn, là bản nguyên chủ động
thuộc trời, từ đó có mọi dạng hiện hữu. Sỏch Rớsõlat của ibn al-Wallia coi mưa
trời, nước thượng đẳng, là phần tử gốc của vũ trụ tương đương với tinh
khớ "Hỡi những tầng mây, hãy sa mưa xuống, hãy đổ sự công bình xuống mặt
đất!Đất hãy tự nẻ ra đặng sinh sự cứu rỗi. Trong sách "Đạo đức kinh" chữ linh
dùng chỉ tác động của trời, gần chữ (wou) là niệm chú và ba chữ khẩu là ba cái
miệng để nhận lấy mưa của trời: đó là cách diễn đạt những nghi lễ nêu trên,
10
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

nhưng tác dụng là thuộc lĩnh vực trí tuệ. Các tu sĩ phái bí truyền của đạo Hồi
nói: chúa trời sai thiên thần xuống cùng với mỗi giọt mưa.
Tượng trưng nghĩa chữ và liên hệ một điều trong giáo thuyết đạo Hindu
là: những đấng anh linh ẩn mình trong các giọt mưa để đi từ mặt trăng xuống
mặt đất. Mưa của mặt trăng mang ý nghĩa tượng trưng về khả năng sinh sản dồi
dào,về sự làm sống lại.Mưa là ơn trời,và cũng là đức hiền minh.Sư phụ Huệ
Năng: Đức Hiền Minh cao cả nhất trong bản chất của mỗi con người có thể ví
với mưa.
2.Mưa-dấu hiệu của sự hài hoà thống nhất
Hệ tượng trưng của mưa gần với hệ tượng trưng của sương nhưng ở
Trung Quốc, cú lỳc cú nột đối lập ở chỗ tác động của mưa thuộc âm, sương
thuộc dương.Tuy nhiên cả mưa và sương đều có nguồn gốc từ mặt trăng. Khi cả
hai tác động phối hợp với nhau là dấu hiệu của hài hoà vũ trụ.
Mưa từ trên trời rơi xuống làm đất sinh sôi là cho thấy ý nghĩa của huyền

thoại Hy Lạp về nàng Damae. Nàng bị cha giam cầm trong một căn phòng bằng
đồng thanh dưới mặt đất để ngăn giữ nàng khỏi sinh con. Thần Zeus đó hoỏ
mỡnh thành trận mưa vàng lọt qua khe hở trờn mỏi để xuống với nàng, và nàng
thấm vào mình nước mưa ấy. Đó là biểu tượng tính dục mưa, coi nước mưa là
tinh dịch, biểu tượng nông nghiệp về cây cỏ cần có mưa để phát triển đã hoà hợp
rất mật thiết. Huyền thoại gợi nhớ cặp biểu tượng: ỏnh sỏng-búng tối, thiên
đường-địa phủ, vàng-đồng thanh. Đây là sự thống nhất các mặt trái ngược, là
nguồn gốc của mọi sự hiện hữu và sinh sôi nảy nở dồi dào. Theo truyền thuyết
thổ dân châu Mỹ, mưa là tinh khí của thần giông tố. Trong biểu tượng hôn phối
Trời -Đất, mưa là tinh khí làm thụ thai, trong tất cả các nền văn minh nông
nghiệp, mưa đều có giá trị này.
Trong ngôn ngữ của người Maya-Quichộ, mưa và cây cỏ dùng bằng
những từ tương đương, dùng cùng một từ diễn đạt.
11
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Mưa: tinh khí hoặc hạt giống nhưng còn được coi là máu: nguồn gốc của
lễ hiến sinh con người, những nghi lễ cầu sinh sản, đặc thù nền văn minh nông
nhgiệp.
Itzanan, thần nông nghiệp trong thần hệ của người Maya phán: ta là tinh
chất của trời, sương của mây.
Trong tiếng nói của người Maya-Quichộ, từ Quic có ba nghĩa: mỏu, nhựa,
và dùng chỉ chất lỏng của con người hay con vật tiết ra, đồng hoá với mưa.
Người azteque coi thần Mưa Tlaloc cũng là thần sét và thần chớp tức mưa
ra lửa. Tlalocan là cõi trời của thần Tlaloc, là nơi ở của người bị chết đuối và sét
đánh. Hình tượng thần tlaloc quanh miệng mắt có những cỏi vũng là hai con rắn
cuộn lại, tượng trưng cho tia nước và chớp.
Đối với người Inca ở Pờru, thần sấm Illapa lấy nước từ dải ngân hà, dòng
sông lớn trên trời xuống trút nước thành mưa.

3.Mưa biểu tượng cho sự thanh tẩy, huỷ diệt
Tổ hợp tượng trưng: mặt trăng-nước-mưa đầu mựa-tẩy uế thể hiện rõ
trong các nghi lễ mà người Inca cử hành vào ngay lễ mặt trăng. Tháng này là
tháng cuối mùa khô, trước khi tiến hành các nghi lễ cầu mưa, họ đuổi hết những
người lạ, người ốm, chó ra khỏi thành phố Cuzco.
Ở Ấn Độ người phụ nữ mắn đẻ được gọi là mưa tức mang lại sự thịnh
vượng.
Mưa con của mây và giông, kết hợp các biểu tượng lửa , nước. Mưa có ý
nghĩa hai mặt: tạo sự phong nhiêu tinh thần và vật chất. Kinh Chandogya
Upanớshad diễn đạt vai trò của mưa một cách hoàn chỉnh. Mưa từ trên trời rơi
xuống, cũng là ơn của các thần linh ban cho theo hai ý nghĩa: tinh thần, vật chất.
Kinh Rig-veda thể hiện các mặt đa dạng của mưa.
II.Khảo sát, thống kê cỏc nột nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mỹ
"mưa" trong thơ Lưu Quang Vũ .
1.Số lần xuất hiện
12
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Chúng tôi khảo sát biểu tượng mưa trong thơ Lưu Quang Vũ trong tập
"Lưu Quang Vũ thơ và đời" với 121 bài thơ do Lưu Khánh Thơ biên soạn.
-Biểu tượng mưa xuất hiện ở 66 bài/121 bài thơ.
-Số lần xuất hiện:128 lần
+Xuất hiện nhiều nhất trong bài "Mưa": 8 lần
Trong bài "Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa": 7 lần
2.Các kết hợp của mưa
2.1.Từ mở đầu+mưa
Trong mưa, đêm mưa, chiều mưa, hàng mưa, cơn mưa,trận mưa, áo mưa,
ngày mưa, mùa mưa, hơi mưa, tiếng mưa, hạt mưa…
Trong đó kết hợp xuất hiện nhiều nhất là: đêm mưa, tiếng mưa (6 lần).

2.2. Mưa+từ chỉ đặc tính của mưa
a.Mưa+tớnh từ
Mưa mát mẻ, mưa rộng dài, mưa mát lành, mưa dài, mưa xám, mưa rào,
mưa dầm…
b.Mưa+cụm từ chỉ thời gian, không gian
Mưa trên đường xa, mưa trên sông, mưa trên cửa sổ tâm hồn, mưa cuối
xuân, mưa mùa đông, mưa mùa hạ, mưa chiều, mưa nỳi…
c.Mưa+động từ
Mưa rơi, mưa ướt, mưa bay, mưa rửa, mưa dầm, mưa cướp, mưa chảy,
mưa đã tạnh…
2.3.Mưa trong các so sánh
-Mưa ở đây như roi, nắng ở đây như lửa.
-Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa
-Nhưng cây gạo cành cao đỏ rực
Như mưa rụng thắm mặt đường đi
-Mưa dữ dội trên đường phố, trên mái nhà
Như thác trắng vỡ tan, như bạc , như trời lửa
13
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

-Mưa như bước chân những khát vọng vô hình
-Ngọn gió chiều hoa sở trắng như mưa
2.4.Mưa trong những kết hợp hoàn chỉnh(mưa làm chủ ngữ hay vị ngữ)
Chỉ sợ trời mưa đổi mùa theo gió, Mưa cướp đi ánh sáng của ban ngày,
Mưa loang tờ giấy mỏng, Mưa ướt lá đài bi, Mưa đổ cành tre, Mưa không mơ hồ
mà tàn nhẫn từng cơn, Mưa rơi trên những vũm lỏ rậm, Mưa đã tạnh ở trong
lòng đất thẳm, Mưa đầy trời thế kia,Nơi ấy em về mưa sẽ tạnh, Những ngả
đường nhiều mưa tháng bảy, Khi mưa đổ bất thần ngoài cửa sổ, Nghe mưa dội
ướt đầm trang sỏch…

3. Các biến thể của mưa
Bóng mây, ào ào nước mênh mông, đờm bóo, cơn giông trận bão, đẫm
bùn nhão, sa mạc khát sương mê, sa mạc khát suối lành, giông trời chớp bể, cơn
nước rạt nước rơi, gió bão, mây, đám mây, nước lũ xoáy, nước ướt đầm, suối,
sông , lũ, mây đen, trời chẳng còn xanh nữa, nắng không trong, súng dữ,thỏc ào,
nước dâng đồng bãi ngập, rêu ướt lạnh, nước trắng, ướt đầm, lũ lụt…
Nhận xét từ kết quả khảo sát:
Tín hiệu thẩm mỹ "mưa" xuất hiện trong thơ Lưu Quang Vũ theo hai
hướng:
-Dùng với nghĩa tả thực: mưa gợi nên thiên nhiên, xứ sở khắc nghiệt, tàn
bạo dữ dội. Mưa là không gian buồn của nhõn vật trữ tình xuất hiện bộc lộ tõm
trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm của mình.
-Dùng với nghĩa chuyển: mưa xuất hiện biểu trưng cho tàn phá, huỷ
diệt(mưa đen-chiến tranh, mưa bom, mưa nắng), biểu trưng cho sự tan vỡ niềm
tin, hoài nghi, thất vọng, biểu trưng cho nguồn sống-tình yêu, hạnh phúc-khát
vọng, biểu trưng cho không gian, thời gian-kí ức, kỉ niệm.
III.Cỏc nét nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mỹ "mưa" trong thơ
Lưu Quang Vũ .
1.Mưa biểu trưng cho sự tàn phá, huỷ diệt, mất niềm tin.
14
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

1.1.Mưa biểu trưng cho tàn phá, huỷ diệt.
Thơ Lưu Quang Vũ có những lúc lóng mạn, nồng nàn, mê đắm trong tình
yêu tuổi trẻ mơ mộng, viển vông nhưng phần nhiều ta thấy thơ anh đượm chất
suy tư,trầm mặc, có những vần thơ đậm buồn, "già trước tuổi". Những năm
tháng Lưu Quang Vũ sống với tuổi trẻ, buồn vui riêng của mỗi người hoà vào
tình cảm chung của đất nước. Anh đau nỗi đau chung của đất nước trong chiến
tranh tàn ác. Phải chăng những vần thơ của anh là những linh cảm đau thương

của thời cuộc? Anh lắng nghe được từng õm thanh náo động, từng rung chuyển
của cuộc chiến tranh. Cơn mưa của cuộc chiến tranh nhạt nhoà sắc cảnh, nhạt
nhoà tõm trạng con người.
-Những ngày mưa nắng đạn bom
-Bố gửi con mảnh vải dù may áo
Súng nổ dồn đuổi giặc suốt mùa mưa
(Thôn Chu Hưng)
-Mưa ướt đầm trên gạch vỡ tan hoang
(Cầu nguyện)
Chiến tranh kéo theo đau thương tang tóc. Vì thế ở đõy mưa xuất hiện
như một chứng nhõn của lịch sử, của thời đại. Mưa là không gian chia xa, là thời
gian đằng đẵng cách lỡa gia đình thương nhớ: vợ chồng, bố con "suốt mùa
mưa". Mưa kết hợp với "mưa nắng đạn bom", cơn giông trận bóo, đêm bóo…
để tàn phá tất cả "tan hoang". Tõm trạng nhà thơ bi quan, chán nản một phần vì
cuộc đời riêng nhiều cay đắng song một phần vì đứng trước nỗi đau chung của
tổ quốc, quê hương. Mưa trở thành nơi để anh gửi gắm tõm trạng thương đau,
chán ngán, buồn thảm trước hiện thực cuộc chiến tranh khốc liệt.
Trước hết mưa biểu tượng cho thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội, một xứ sở
có nhiều mưa "mưa và gió ầm ào trên mặt đất".Mưa cú lỳc nồng hậu, tươi lành,
mát mẻ nhưng cú lỳc hoang dại, gào thét:
-Mưa ở đây như roi, nắng ở đây như lửa
15
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

( Viết cho em từ cửa biển)
Mưa được so sánh độc đáo "mưa như roi", mưa quất, mưa táp mạnh mẽ
khụng chỳt kiêng dè. Sự so sánh này đã khái quát được cái dữ dằn, tàn phá, huỷ
hoại vô cùng, vô tận của mưa, thiên nhiên nhiều mưa nhiều gió lửa.
Mưa biểu tượng cho tự nhiên phá huỷ, mưa đi cùng với bom đạn chiến

tranh càng làm tăng ấn tượng nặng nề, phá tung kinh hoàng của mưa:
-Những ngày mưa nắng đạn bom
(Chưa bao giờ)
Gắn với ý nghĩa thanh tẩy, tẩy uế, làm mới, làm sạch tất cả trong ý nghĩa
của mẫu gốc văn hoá, biểu tượng mưa đi vào thơ LưuQuang Vũ cũng tiếp nối ý
nghĩa biểu tượng ấy. Mưa mang bóng dáng hoang tàn, đổ vỡ, tàn tạ, nát tan.
Mưa thường gợi buồn bã cô đơn. Chính vì thế mưa trong sự tàn phá càng buồn,
càng xoáy sâu vào nỗi lòng con người hơn nữa.
Trong mưa, dưới mưa tất cả sự vật đều bị xoá mờ, phủ kín một sắc mưa
trắng lạnh, hoang vắng, buồn thảm, tỏi tờ:
-Đồng mưa nước trắng
(Lý thương nhau)
-Mưa ướt lá đài bi
Mưa đổ cành tre
(Khúc hát)
Mưa tắm ướt, gột rửa vạn vật trong làn nước của trời. Mưa phủ kín, phủ
mờ "lá đài bi", "cành tre"…tất cả như như ngập chìm trong mưa. Mưa nhấn
chìm tất cả trong"đồng mưa nước trắng". Mưa biểu tượng cho tàn phá. Từ
những sinh vật bé nhỏ đến những không gian bao la rộng lớn đều bị nhấn trong
màn mưa dày đặc. Những đền đài, miếu mạo đều tan hoang:
-Những đền đài thưở trước đã tan hoang
Những chùa cổ chiều mưa rêu ướt lạnh
(Hoa tầm xuân)
16
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Từ những sự vật bé nhỏ như lá đài bi, cành tre đến những giá trị to lớn,
dường như vững chãi, vững bền chắc chắn, vĩnh viễn như đền đài, miếu mạo,
chùa cổ cũng "tan hoang", "ướt lạnh" dưới mưa.

Mưa không ổn định, đứng yên mà luôn vận động, chuyển di, biến đổi.
Mưa ầm ào, dữ dội "gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt" bất định. Mưa
như muốn phủ mờ lên tất cả cảnh vật, không gian, thời gian trong thế tàn phá
với những kết hợp đa dạng :Mưa rơi, mưa dầm, mưa rào rào, mưa loang, mưa
cướp đi…Bên cạnh đó là những biến thể của mưa :cơn giông trận bão, gió bão,
giông trời chớp bể, nước lũ xoáy, sóng dữ thác ào…Mưa thường đi kèm không
gian đêm. Mưa và đêm hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Mưa tạo không gian để đêm
sâu hơn, đen hơn, bí ẩn, huyền bí, đáng sợ hơn, đêm là thời gian để mưa mãnh
liệt hơn, dễ cuốn lốc, huỷ hoại, dễ biến mọi thứ thành tro tàn hơn. Mưa và đêm
đồng hành và "đồng lõa" với nhau.
Mưa núi "mịt mù", "mưa xám" cả bầu trời, mặt đất:
-Nghe mưa dội ướt đầm giá sách
Mỏi túc, chiếc áo mưa, đôi guốc gỗ
(Những ngọn nến)
Mưa tàn phá từ những sự vật gần gũi, thân quen "ướt đầm giá sách". Mưa
hiện lên ở nhiều cung bậc "mưa dội" đến "mưa dầm":
-Mưa dầm trên mặt đất
Là máu đỏ ngần, là mồ hôi mặn chát
(Mấy đoạn thơ về lửa)
Tâm hồn Lưu Quang Vũ cũng tan hoang, đổ nát, thất vọng, đớn đau trước
những đổ vỡ, hoang tàn. Trước cái nhìn hoài nghi, ám ảnh chua xót ấy, hạt mưa
trong thơ anh mang sắc đen khác thường:
-Hạt mưa đen rơi trờn ụ kớnh vỡ
(Lá thu)
17
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

"Hạt mưa đen" biểu tượng cho sắc màu chiến tranh, gợi tro tàn, loạn lạc,
ly tán, gợi cuộc chiến tranh đau thương, tàn khốc khiến sắc mưa cũng đổi màu.

Mưa là hiện thân của cuộc chiến tranh. Mưa biểu tượng cho tàn phá và
hơn nữa nó gợi buồn đau, đau đớn, xót xa :
-Dãy nhà cao đã xụp dưới mưa bom
(Thị trấn biển)
Những cơn mưa bom huỷ hoại mỗi căn nhà, dãy phố khụng chút tiếc
thương.Nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đau thương này trong niềm đớn
đau vô cùng. Mưa tàn nhẫn, lạnh lùng, không lời :
-Mưa không mơ hồ mà tàn nhẫn từng cơn
(Gửi một người bạn gái)
1.2.Mưa biểu trưng cho niềm tin tan vỡ, hoài nghi, thất vọng
Lưu Quang Vũ là người say đắm với tình yêu, chõn thành với tình yêu,
hết lòng với tình yêu nên tình yêu tan vỡ thì anh là người phải gánh chịu nhiều
thương tổn nhất trong lòng mà khó có thể hàn gắn nổi. Anh phải chịu đựng
nhiều giằng xé, mất mát nhất trong những cuộc tình. Với Lưu Quang Vũ , "trong
cuộc đời mỗi con người, tình yêu luôn là điều quan trọng nhất". Trong cuộc đời
long đong, vất vả của anh, ở giai đoạn nào anh cũng tỡm thấy một tình yêu lớn.
"Cho cái mà tình cảm đó đem lại có thể là một vết thương, một nỗi đau suốt
đời…dù tình yêu ấy có thể không ở lại cùng ta suốt đời". Những vần thơ của anh
chất chứa niềm đau, thổn thức xót xa, hành hạ anh không yên. Nỗi buồn trong
anh thành thực, nó đau đớn mệt mỏi như chớnh con người anh: "Hai ta không đi
một ngả đường dài-Khụng chung khổ đau, không cùng nhịp thở-Những gì em
cần anh chẳng cú-Em không màng những ngọn gió anh trao". Phải chăng luôn
mang tõm trạng vò xé ấy mà thơ anh cũng luôn dằn vặt, cô đơn đến cùng cực.
Lúc hạnh phúc anh tỡm đến mưa để sớt chia niềm vui ấy đồng thời lúc cô đơn
tột cùng anh cũng tỡm về với mưa để được đồng cảm, để được một mình với nỗi
18
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

đau. Mưa trở thành cừi đi về của niềm đau trên tõm hồn nhiều cay đắng Lưu

Quang Vũ .
Mưa bao giờ cũng mênh mông, ngập tràn, bao phủ không gian đối lập với
con người bé nhỏ, cô đơn, cô độc. Trong cơn mưa, con người càng thấy mình lẻ
loi, mất mát, bơ vơ, đánh mất hy vọng và niềm tin :
-Mưa trên đường xa, mưa trên cửa sổ tâm hồn
Mưa vào thơ Lưu Quang Vũ gắn liền với ý nghĩa xoá tan, xoá nhoà mọi
kí ức, kỉ niệm, mọi lời hứa, mọi niềm vui, tin yêu hạnh phúc đã từng tồn tại,
hiện hữu :
-Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
Xoá nhoà hết những điều em hứa
(Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa)
-Cơn mưa rào nối trận mưa ngâu
Xoá cả dấu chân em về buổi ấy
( Mưa)
Mưa mang trong mình dự cảm bất an về tương lai xa xôi. Nhà thơ luôn
luôn phấp phỏng, lo âu tan vỡ tỡnh yêu, tất cả đều " mỏng mảnh" như cánh
chuồn trong giụng bóo. Mưa xoá đi niềm tin vốn mong manh, dễ vỡ vụn. Mưa
mơ hồ như lòng người ý thức về sự cô đơn, hồ nghi hết thảy, không biết nương
tựa vào đâu. Nhà thơ khao khát yêu người mà không yêu được, muốn nương tựa
vào tình yêu thì tình yêu tan vỡ :
-Mưa cướp đi ánh sáng của ban ngày
(Không đề)
-Chỉ sợ trời mưa đổi mùa theo gió
(Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa)
Theo Vương Trí Nhàn, Lưu Quang Vũ là người "nhạy cảm với mưa, thân
thuộc với mưa hơn ai hết ". Ở anh, mưa cho thấy sự trôi qua của thời gian mà
con người bất lực không sao níu kéo nổi. Mưa làm cho hiện tại trở nên mờ mịt,
19
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn


tương lai trở nên lờ mờ không xác định. Vũ nói nhiều đến mưa bởi trong anh
mang tâm trạng chán nản, thất vọng, ngán ngẩm mất niềm tin vào cuộc đời,
không định hướng được đường đi cho cuộc đời mình.
Mưa là chốn để nhà thơ chìm vào triền miên thất vọng "viển vông, cay
đắng, u buồn". Tuổi hai mươi không tươi sáng, rực rỡ, tràn đầy niềm tin nhiệt
huyết vào tương lai phía trước mà trái ngược hoàn toàn :
-Tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi
Tuổi tai ương dằng dặc trận mưa dài
Mưa cướp đi tất cả hoài vọng, tin tưởng,mưa để đong đếm thời gian trôi
đi trong vô vọng "dằng dặc".Mưa biểu tượng cho một tương lai mờ mịt, xa xôi,
ảm đạm không đoán định được điều gì ở phía trước. Phải chăng tâm trạng u uất,
chán nản đánh mất tin tương ở cuộc sống trong nhà thơ đã phủ lên mưa một
gương mặt thật buồn :
-Chỉ e nữa lòng em rồi cũng nhạt
Quên hoa vàng ở lại những đêm mưa
(Hoa vàng ở lại)
Lưu Quang Vũ nhạy cảm, tinh tế, luôn lo âu, phấp phỏng, hoảng hốt trước
những điều có thể đánh mất. Tình yêu đang trong tầm tay, hạnh phúc đang hiện
hữu nhưng tất cả có thể vụt biến mất. Chữ "e" gợi bao dự cảm, thảng thốt, khắc
khoải.Tỏc giả lo sợ tình em nhạt phai, chỉ để quên hoa vàng trong mưa, trong
đêm mưa cô đơn. Những hoài nghi tan vỡ ấy được hiện thực trong biểu tượng
mưa:
-Hạnh phúc con người mong manh mưa sa
-Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa
Hạnh phúc mong manh, dễ vỡ như mưa sa. Em là hiện thân của hạnh phúc
ngọt ngào, tươi lành, mát dịu của cuộc đời anh nhưng em cũng như cầu vồng
bảy sắc sau cơn mưa lung linh, mê đắm diệu kì song nhanh chóng tan để lai
20
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B

Ngữ văn

khoảng trống hụt hẫng, để lại cho anh những bất hạnh và cả sự cam chịu về
mình.
Mưa biểu tượng cho những gì đánh mất, đánh mất mặc lòng không thể níu
giữ:
-Anh đã mất cả mây qua lòng giếng
Cả tiếng gà, hẻm núi, cả cơn mưa
(Anh đã mất chi, anh đã được gì)
Mưa cô đơn vỡ lũng anh hoang vắng, giá lạnh vô cùng trong những đêm
mưa. Mưa cuốn trôi tất cả, cũng như anh mất đi những gì thiêng liêng gắn bó,
gần gũi nhất : tiếng gà, hẻm núi, bóng mây, và cả điều sau cùng còn lại thân
thương nhất trong anh là cơn mưa cũng lặng lẽ rời xa anh. Thất vọng, hoài nghi
xâm chiếm tâm hồn anh. Em gắn với tình yêu, khát khao hạnh phúc nhưng cú
lỳc em bỏ quên, đánh mất, cuốn đi mọi tin tưởng khát khao trong anh. Em ra đi
nhạt phai với kỉ niệm xưa để lại nỗi cô độc :
-Mưa đã tạnh ở trong lòng đất thẳm
(Bài hát ấy vẫn còn là dang dở)
"Nắng đã tắt","chiều đã xẩm màu","đường đã hết", "tay đó buụng"," giú
đó dừng" và "mưa đã tạnh" có nghĩa là mọi điều đã mất hết. Mưa thân thuộc
nhất, yêu thương nhất giờ cũng bỏ đi hay anh đã mất tất cả…
Cuộc tình đầu tan vỡ thực sự đã để lại khoảng trống vô bờ trong lòng Lưu
Quang Vũ. Trái tim tuổi trẻ sôi nổi yêu đương dường như lắng lại. Anh vẫn khát
khao tình yêu, vẫn không ngừng mải miết đi tỡm hạnh phúc nhưng tình yêu đó
giờ đã mang những nốt trầm bình lặng. Tuy vậy, Lưu Quang Vũ hiểu rằng chỉ có
tình yêu mới bù đắp được cho tình yêu đã mất, "băng bó" cho vết thương tình
yêu. Những bài thơ của anh là những thể nghiệm mất mát:
-Tìm trong mắt em náo động những chân trời
Ngõ phố dài hôm ấy mưa rơi
Đã xa vắng trên mặt đường ướt lạnh

21
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Tình yêu-thất vọng và mưa như đồng hành cùng nhau. Mưa dừi theo bước
chõn nhà thơ qua mọi bước đường yêu thương, xót xa, khổ đau, thất vọng. Mưa
vẫn mói rơi trên ngừ phố dài như khóc cho một cuộc tình lại ly tan, mưa buồn
giăng giăng lòng người…
2.Mưa biểu trưng cho nguồn sống dạt dào, hạnh phúc, niềm tin và khát
vọng
2.1.Mưa biểu trưng cho nguồn sống dạt dào, tình yêu, hạnh phúc.
Lưu Quang Vũ vốn là một người đàn ông tài hoa, đa cảm nên tình yêu và
thơ ca dường như luôn luôn là một cứu cánh cũn lại trong đời anh. Và đối với
mỗi nhà thơ, có lẽ bao giờ những vần thơ tình cũng lắng kết được nhiều nhất,
bởi đó là tõm tư, tình cảm, tõm trạng, xúc động, là giận hờn, yêu thương , nhung
nhớ lớn nhất trong mỗi người. Hình ảnh những người con gái, người tình trong
thơ anh thường rất đẹp. "Có thể là hạnh phúc hay đau khổ, nước mắt hay nụ cười
nhưng bao giờ anh cũng nói về họ bằng những lời nồng nàn, say đắm nhất" (Lưu
Khánh Thơ).
-Em như sụng yờn ả một dòng
(Viết cho em từ cửa biển)
-Em về mưa ướt vai
(Ngày hè trở rét)
Lưu Quang Vũ luôn mơ ước về một vẻ đẹp hoàn thiện của người tình lý
tưởng. Em- là bến bờ tình yêu "như sông yên ả một dòng", để anh bình yên tỡm
về khi cuộc đời, lòng người đầy giông bóo, bất an. Em của anh đẹp mong manh,
hư ảo, xa xăm, diệu kì khó nắm bắt. Em đẹp hơn trong mưa dịu nhẹ:"Em gầy đi
đấy đôi vai nhỏ-Lẫn với bờ cây, lẫn với thuyền". Mưa rộng dài mà em thì bé nhỏ
nhưng mưa-em vẫn tưới mát cuộc đời anh sau bao bụi bặm, lăn lộn trên đời.
Anh thanh thản, bình yên nhất trong cơn mưa tõm hồn em.

Những cơn mưa gắn với hình tượng em trong thơ Lưu Quang Vũ. Em
tượng trưng cho tình yêu, em là ngọt ngào và cả những cay đắng khôn nguôi.
22
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

đồng thời em cung mang đến cho anh niềm tin yêu vào cuộc đời, vào sức sống
mới mẻ. Em tái sinh cuộc đời anh, đưa anh thoát khỏi bao khổ đau, muộn
phiền.Em tưới mát cuộc đời anh như cơn mưa rào, cơn mưa đầu mùa dịu ngọt,
mát lành. Tình yêu Lưu Quang Vũ dành cho những người phụ nữ trong cuộc đời
anh bao giờ cũng tha thiết, mặn nồng, đắm say. Anh đã cụ thể hóa những giây
phút ngọt ngào bên người tình bằng hình ảnh cơn mưa :
-Nơi vũm lỏ rì rào xao động cơn mưa
Quả chín ngọt khi mùa ve lại đến
(Vườn trong phố)
-Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa
(Vườn trong phố)
Mưa mang đến nguồn tái sinh sự sống cho vạn vật như em là nguồn ánh
sáng tái sinh cuộc đời nhiều đớn đau, thất vọng, chán nản não nề trong tăm tối
cuộc đời anh. Cầu vồng sau mưa thoắt hiện và thoắt tan nhưng cầu vồng sau
mưa lung linh, diệu kì cũng đem đến cho anh nhưng phút hạnh phúc tuyệt vời có
em. Mưa tưới mát, hơi mưa mùa hạ xao động cả không gian, thời gian, xao động
cả tâm hồn nhạy cảm của anh, bừng tỉnh niềm khát khao hạnh phúc đến ngỡ
ngàng.
Mưa là chứng nhân cho cuộc tình của anh và em, cho tình yêu và những
giờ phút hạnh phúc viên mãn nhất. Mưa xoá tan nét buồn trong khoé mắt những
người yêu nhau, đưa họ đến gần nhau. Mưa là dấu hiệu thời gian đồng thời là
dấu hiệu không gian, xoá tan hết mọi cách trở xa xôi đưa hai người vượt khoảng
xa tìm đến với nhau:
-Khi đàn chim bay tới rợp trời trưa

Cồn mây về mang cơn mưa đầu hạ
(Hơi ấm bàn tay)
23
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Cơn mưa đầu hạ xoa dịu cái nắng mùa hè hay tình em làm mát lành trái
tim đang cồn lên nóng bỏng, rạo rực trong anh. Cơn mưa đưa hai trái tim yêu
đương vượt khoảng xa "tìm đến nơi này âu yếm nắm tay ta".
Mưa mang nhiều tâm trạng, trăn trở, nghĩ suy, buồn lo. Mưa đơn giản
nhưng diệu kì biết mấy. Mưa là nhân chứng cho tình yêu:
-Chưa kịp lời tình tự
Trời đã oà cơn mưa
(Mưa)
Mưa thổn thức trong niềm hạnh phúc đơn sơ, bình dị mà quý giá vô ngần.
Mưa là cõi mộng, là xứ sở, là không gian tình tự tỏ tình lãng mạn, tinh khiết
nguyên sơ của đôi lứa yêu nhau.
Lưu Quang Vũ đó tỡm cho mưa những tính từ mới lạ đi kèm: "Mưa rộng
dài", "Mưa mát lành", "Mưa mát mẻ", …Những tính từ chỉ đặc tính của mưa đã
gọi lên được những tác động mà mưa đem đến cho con người. Mưa không chỉ
nối liền những lằn ranh khoảng cách xa xôi mà hơn hết mưa xúa mờ mọi muộn
phiền, buồn lo :
-Mưa rộng dài xoá những nỗi lo riêng
(Mưa)
Với tình yêu điều quan trọng là sự thấu hiểu cùng nhau, thấu hiểu cho
nhau. Có những giây phút lặng im không lời nhưng phút giây ấy đã là vĩnh viễn,
mãi mãi thấu hiểu đến tận cùng cho nhau. Mưa đã gắn bó cuộc đời anh và em.
Giây phút trong mưa, dưới tiếng mưa, chỉ cần lắng nghe tiếng mưa rơi lòng em
đã hiểu hết những lời anh chưa nói, hiểu hết hạnh phúc đang kề bên rất gần, rất
khẽ :

-Em hiểu điều gì đã gắn bó đôi ta
Em hiểu điều gỡ…ễi tiếng mưa, tiếng mưa…
(Mưa)
2.2.Mưa biểu trưng cho khát vọng, niềm tin.
24
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Bùi Thị Hồi - K54B
Ngữ văn

Thơ Lưu Quang Vũ cũng như những cung bậc cuộc đời anh có lúc
cùng cực cay đắng, tột cùng thất vọng, mất hết tin yêu vào tương lai. Thơ anh
buồn bởi lòng anh đau đớn, tan nát tuy nhiên sau khổ đau anh lại đi tỡm, tỡm
tình yêu, tỡm một trái tim đồng điệu đập cùng một nhịp với anh. Xuõn Quỳnh
đến với anh như một sự bù đắp cho những khắc khoải, xa xót của một chặng
đường tình của anh. Với chị, anh thực sự tỡm được tình yêu, cảm thông, niềm
tin, khát vọng phớa trước. Những vần thơ anh dành cho chị thật trỡu mến, ngọt
ngào. Đó là những vần thơ sõu sắc, từng trải, đầy sự biết ơn: "Cảm ơn em, em từ
miền giú cỏt- Về với anh bông cúc nhỏ hoa vàng".
Mưa không chỉ biểu tượng cho sự tan hoang, đổ nát mà ngược lại,
mưa còn thắp sáng niềm tin, tái sinh sức sống mới trong cuộc đời. Mưa gắn liền
với sức sống mới trẻ trung, căng tràn nhựa sống :
-Bụng lúa vàng hạt mẩy quẩy trong mưa
-Như nhãn thơm thấm mát giọt mưa đầu
(Thức với quê hương)
Nhà thơ nhìn thấy dưới làn mưa, cỏ cây, vạn vật đang trỗi dậy mạnh mẽ
như hứng chờ từng giọt tinh tuý dạt dào của trời đất. Cỏ cây hân hoan niềm vui
được gội rửa trong màn mưa mát, thức tỉnh sức xuân ứ tràn nhựa sống.
Cơn mưa đến thanh tẩy mọi bụi bặm, lo toan, nhọc nhằn cuộc sống.Cơn
mưa chỉ thoảng qua cũng đã kịp mang hơi mưa mát mẻ dịu ngọt tưới tắm trần
gian :
-Vũm lá ướt sớm nay

Sau mưa càng óng mượt
(Ngày hè trở rét)
-Cơn mưa vừa thoảng qua
Hơi mưa dìu dịu mát
(Chiều)
-Cũng trận mưa rào thơm ngọn cỏ non
25

×