Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Góp thêm cách hiểu về thể loại chức năng và nội dung của bản dịch chinh phụ ngâm khúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.15 KB, 6 trang )

Góp thêm cách hiểu về thể loại chức năng
và nội dung của bản dịch Chinh phụ ngâm
khúc
Trần Minh Thương

Sách giáo khoa (SGK) Ngữ Văn 10 (bộ cơ bản) chọn giảng 24 câu trích từ bản dịch Chinh phụ ngâm
khúc (tạm gọi ngắn là Chinh phụ ngâm) từ dòng thứ 193 đến dòng 216, bộ nâng cao chọn giảng đoạn
tríchChinh phụ ngâm 36 dòng (từ dòng 193 đến dòng 228). Sách giáo viên Ngữ Văn (cơ bản), trang 80
viết đây là loại bài trích đoạn một tác phẩm thơ (…), cần ý thức rõ Chinh phụ ngâm là thể thơ trữ tình với
chức năng thể hiện nội tâm nhân vật trữ tình. Miêu tả nội tâm phong phú, phức tạp là đặc điểm quan
trọng về mặt thể loại của ngâm khúc. Các hình thức miêu tả ngoại hình, hành động hoặc miêu tả thiên
nhiên đều nhằm mục đích diễn đạt nội tâm. Cũng cần chú ý ngâm khúc là thể loại có tính chất diễn
xướng, dùng để ngâm …
Từ thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy “đặc điểm bài học” mà sách giáo viên nêu ra không dễ đối với
người tiếp nhận văn bản, cụ thể là trình độ học sinh lớp 10 phổ thông. Để góp thêm cách hiểu, chúng tôi
khảo sát ở cấp độ các tác phẩm ngâm khúc hình thức song thất lục bát (NKHTSTLB) phổ quát, trong đó
lấy Chinh phụ ngâm làm trung tâm điểm để đưa ra khái niệm về thể loại, chức năng và nội dung của nó.
Qua việc làm ấy, hy vọng người học sẽ có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn đối với đoạn trích Tình cảnh
lẻ loi của người chinh phụ mà SGK chọn giảng trong chương trình THPT.
1. Sự hình thành và khái niệm thể loại NKHTSTLB
1.1. Cơ sở hình thành thể loại NKHTSTLB trong văn học Việt Namtrung đại
Xã hội Việt Nam đầy biến động từ khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (năm 1527) sau đó nhiều biến
cố lớn xảy ra chiến tranh Nam - Bắc triều; Trịnh - Nguyễn tranh nhau một dải san hà, rồi Tây Sơn nổi lên
quét tan các thế lực đánh đuổi ngoại bang, đến khi Gia Long lên ngôi hoàng đế (năm 1802). Ở triều Tự
Đức. nông dân khắp nơi nổi dậy chống lại triều đình, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật ở Bắc
Ninh có Cao Bá Quát (chú ruột của Ca Bá Nhạ) tham gia.
Sự biến động của triều đình phong kiến diễn ra mấy trăm năm đã kéo theo sự chuyển biến đáng kể về ý
thức hệ của nhiều tầng lớp trong xã hội, trong đó có lực lượng sáng tác, những Nho sĩ từng theo cửa
Khổng sân Trình. Văn hoá cũng có những thay đổi từ văn hoá vật chất đến văn hoá tinh thần, mà cụ thể
là thị hiếu thẩm mỹ và những quan niệm nghệ thuật về con người. Con người với cá tôi cá nhân đã mạnh
mẽ phá bỏ những giềng mối mà Nho giáo và nhà nước phong kiến áp đặt từ lâu. Ca dao - dân ca, tiếng


lòng của người bình dân như lúa lâu ngày chịu hạn nay gặp mưa rào, văn học dân gian phát triển phong
phú, trong đó có thể thơ song thất lục bát:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không? …
Tất cả những điều kiện ấy, đã làm cho cho thể thơ song thất lục bát góp mặt vào văn học viết
Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XVI. Đến giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII, thể thơ này bắt gặp được
những nỗi lòng, những tâm trạng đau khổ day dứt triền miên của các văn gia thi sĩ. Thế là thể loại ngâm
khúc dùng hình thức thơ song thất lục bát nhanh chóng khẳng định dấu ấn của mình trên văn đàn văn
học dân tộc. Theo Nguyễn Thái Hoà thì hiện nay với khoảng 500 bản viết về thể thơ này, trong đó có
những kiệt tác như Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều); Chinh phụ ngâm (bản dịch Nôm của Đoàn Thị
Điểm (?)), Trần tình khúc (tên gọi khác của Tự tình khúc - người viết chú thêm) (Cao Bá Nhạ); Ai tư
vãn(Lê Ngọc Hân).
1.2. Khái niệm thể loại ngâm khúc
1.2.1. Ngâm khúc dưới góc nhìn của các nhà ngôn ngữ học
Nguyễn Văn Khôn viết: Ngâm: tiếng than thở, tiếng rên. [8; 624], Khúc: bản đàn, bản nhạc, [8; 506]; theo


Lê Ngọc Trụ thì ngâm: (h - tức từ gốc Hán, người viết chú thêm): đọc, hát [12; 433], Khúc: (n - gốc Nôm,
người viết chú thêm): ca, nhạc [12; 333]. Theo Lê Văn Đức: ngâm (động từ): đọc lên với giọng lên, xuống
kéo dài [3; 1017, quyển hạ], Khúc: ca khúc, ngâm khúc [3; 744, quyển hạ], Ngâm khúc: Bài văn vần tả
cảnh với nhiều tình cảm, thường làm theo lối song thất lục bát [3; 1017, quyển hạ]
Nguyễn Như Ý cho rằng Ngâm khúc: Bài văn vần diễn tả nỗi buồn, thường theo thể song thất lục bát [13;
1187]
1.2.2. Ngâm khúc dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu văn học
Dương Quảng Hàm cho rằng: Ngâm là một bài văn tả những tình cảm ở trong lòng, thứ nhất là những
tình buồn, sầu, đau, thương. Các ngâm khúc trong văn ta thường làm theo thể song thất lục bát, thường
gọi tắt là thể song thất.[5; 152]; Phạm Thế Ngũ sau khi trình bày khá dài lai lịch của thể ngâm; gốc tích
của câu song thất, tác giả khái quát giá trị của thể ngâm như sau: thể ngâm (…) rất thích hợp để diễn tả

những tình cảm ảo não triền miên, nhịp nhàng, quấn quýt [9; 188]; Bùi Duy Tân quan niệm: “Sự phong
phú về mặt đề tài và thể loại văn học biểu hiện những xu thế mới của xã hội Đại Việt từ TK XVI nửa đầu
TK XVIII đã viết do khả năng trữ tình phong phú, điệu thơ này (tức điệu thơ song thất lục bát - người viết
chú thêm) lúc đầu được dùng để viết cả khúc ca lạc quan, hùng tráng nữa, nếu như sau này nó chủ yếu
được dùng để viết các khúc ngâm buồn thương, oán vọng” [7]; Lê Bán Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn
Khắc Phi cho rằng “Ngâm khúc: Thể thơ trữ tình dài hơi, thường được làm theo thể song thất lục bát để
ngâm nga, than vãn nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn phiền đau xót triền miên day dứt. Vì
thế ngâm khúc còn được gọi là khúc, vãn hay thán. Trong văn học Việt Nam, ngâm khúc giữ một vị trí
quan trọng và đặc biệt phát triển từ giữa TK XVIII đến giữa TK XIX”. [4; 198]; Từ điển văn học (bộ mới)
không hiểu sao không có mục thuật ngữ ngâm khúc, trang 733 - 734, Nguyễn Khắc Phi chỉ viết ở
mục khúc như sau: “Khúc còn gọi là tản khúc, một hình thức thơ ca cổ điển của Trung Quốc, gắn với âm
nhạc có nội dung trữ tình, ra đời trên cơ sở những lời ca điệu hát dân gian đời Kim (1115 - 1234) và phát
triển mạnh vào đời Nguyên (1280 - 1368). Khúc gồm có hai loại: tiểu lệnh và sáo sổ. (…). Ở
Việt Nam chữ khúc được dùng trong thuật ngữ ngâm khúc để chỉ những tác phẩm bằng thơ dài theo thể
lục bát hoặc song thất lục bát, có nội dung trữ tình (Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, …). Tuy
nhiên đó không phải là những tác phẩm mang đặc điểm của thể loại khúc Trung Quốc.
Trần Đình Sử cho rằng: ngâm khúc là một thể loại văn học trung đại ViệtNam. Tinh thần bi kịch thể hiện
ở chỗ tìm lại giá trị nhân sinh mà không được, không cam chịu mất mát giá trị mà đành bất lực và do bất
lực mà lòng bất lực càng mạnh thêm, day dứt hơn, [187; 9] và nhấn mạnh chức năng của thể loại này
như sau: “Có thể nói khúc ngâm có nhiệm vụ phơi trải lòng đau xót, sầu tủi, tiếc hận của mình” [10; 185].
Nhận xét.
Thứ nhất, các nhà ngôn ngữ chủ yếu giải thích bằng nghĩa tầm nguyên nghĩa gốc của hai thành
tố ngâm và khúc.
Thứ hai, các nhà nghiên cứu văn học nêu định nghĩa ngâm khúc căn cứ trên ba yếu tố: hình thức; vị trị
và chức năng thể loại.
Thứ ba, các nhà nghiên cứu chỉ quan tâm ngâm khúc nói chung, không đưa ra khái niệm cụ thể nào về
thể loại ngâm khúc dùng hình thơ song thất lục bát trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại.
1.2.3. Khái niệm ngâm khúc hình thức song thất lục bát
Từ những khái niệm vừa nêu, chúng tôi đưa ra khái niệm sau đây: Ngâm khúc trung đại Việt Nam là một
thể loại của văn học dân tộc. Thể loại này dùng hình thức song thất lục bát, trường thiên, bằng chữ Hán

hoặc chữ Nôm để thể hiện. Chức năng của ngâm khúc nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn
phiền đau xót triền miên day dứt, đứng yên hay ít phát triển. Nội dung của nó đa dạng, phong phú phản
ánh nhiều cung bậc của đời sống tình cảm con người thời trung đại. Khúc ngâm là cách nói Việt hoá từ
cụm từ Hán - Việt của thuật ngữ này.
Ngâm khúc dùng hình thức thơ song thất lục bát trung đại Việt Nammanh nha từ thế kỷ XVI và kết thúc
vào cuối thế kỷ XIX. Đánh dấu chính thức bằng tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc [bản dịch của Đoàn Thị
Điểm (?) 1705 - 1748] và kết thúc bằng Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ (? - ?) và Thu dạ lữ hoài
ngâm của Đinh Nhật Thận (1815 - 1866).


2. Chức năng và nội dung thể loại
2.1. Các thể loại văn học có chức năng và nội dung riêng của nó
Các thể loại văn học có chức năng và nội dung riêng của nó, điều này không phải bàn cãi, nhưng không phải ai
cũng thấy rõ nó. Song với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình
thức tồn tại chỉnh thể. Nói cách khác, thể loại văn học là một cấu trúc, một cách thức tổ chức ngôn ngữ theo một
dạng thái nào đó nhằm thể hiện những tình cảm, nhận thức và suy nghĩ của con người trước các hiện tượng của
đời sống. Có thể nói thể loại nào cũng bình đẳng, cũng đều có quyền trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực.
Tuy nhiên mỗi thể loại thường có những chức năng riêng phù hợp với khả năng phản ánh của nó với đối tượng
được nhận thức, phản ánh. Chẳng hạn như các thể loại tự sự (truyện, tiểu thuyết) có chức năng trước hết là thuật,
kể, miêu tả. Các thể loại kịch có chức năng trước hết là trình bày các mâu thuẫn xung đột ở đối tượng được nhận
thức. Các thể loại thơ lại có chức năng trước hết là bộc lộ cảm xúc hay các trạng thái tư tưởng, tình cảm của chủ
thể trữ tình. Nói chức năng của thể loại văn học là nói đến khả năng, vai trò, nhiệm vụ của nó đối với việc nhận thức
và phản ánh hiện thực. Thời trung đại các thể loại văn học thường được giao đảm nhận các chức năng rõ ràng,
nhất là các thể loại văn hành chức. Tên thể loại thường gắn liền tên tác phẩm nên người đọc dễ dàng nhận diện và
phân loại chức năng thể loại. Hịch là để kêu gọi, thuyết phục. Cáo là để tổng kết một công việc hay một chủ trương
chính trị, xã hội nào đó. Chiếu là để phổ biến một mệnh lệnh nào đó của nhà vua cho thần dân biết.v.v... Còn các
loại văn có tính nghệ thuật như truyện, tiểu thuyết chương hồi, thơ, phú lại có những chức năng riêng khác
nữa. Ngâm khúc nói chung, và thể loại NKHTSTLB nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật ấy
2.2. Chức năng và nội dung của thể loại NKHTSTLB
Lục bát có khả năng lợi dụng cấu trúc của mình để có thể kéo dãn bài thơ đến vô cùng nhằm thích ứng với vai trò

kể chuyện, còn STLB lại khai thác ưu thế của mình về các yếu tố vần, điệu, nhịp cũng như tổ hợp các dòng để thể
hiện nội dung của ngâm khúc. Về điểm này nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra khá cụ thể. Đặng Thai Mai qua việc
phân tích một cách toàn diện tác phẩm Chinh phụ ngâm đã quả quyết rằng “lối STLB có những khả năng quý báu
để mô tả đời sống nội tâm”; Phạm Thế Ngũ cũng rất tâm đắc về giá trị của mỗi thể thơ trong vai trò chức năng của
chúng: “thể ngâm (tức thể STLB) rất thích hợp để diễn tả những tình cảm ảo não triền miên, nhịp nhàng quấn
quýt, … Gọi STLB là thểngâm, ấy là nói lên khả năng dồi dào nhạc chất của thể đó, thích hợp với công dụng
ngâm vịnh” [9; 188]. Trong khi đi tìm cái dân tộc và cái cổ điển làm cơ sở để phân kỳ lịch sử văn học dân tộc, Trần
Đình Hượu đã cho rằng “người dịchChinh phụ ngâm và người viết Cung oán ngâm đã phát hiện ra một cách diễn
tả những nỗi đau xót thầm kín, những nỗi buồn triền miên, thành công của họ là tấm gương cho nhiều người dùng
thể STLB hoặc để nói nỗi lòng mình… hoặc để nói nỗi lòng nhân vật”. Những người làm sách Những khúc ngâm
chọn lọccũng đã nhấn mạnh “trong các thể thơ dân tộc, không thể nào phù hợp với ngâm khúc bằng STLB” [2];
Đặng Thanh Lê, trong một bài viết về ngâm khúcđăng trên Tạp chí Văn học đã nhận định “Các tác phẩm STLB
của thế kỷ XVIII đưa thể thơ này vào chức năng phản ánh nội dung tâm trạng có tính chất bi kịch”. Phan Ngọc đã
lần lượt xem xét 70 tác phẩm STLB, trong đó, theo ông, có 35 tác phẩm có thể xem là hay nhất, rồi trên cơ sở đó
mà nêu lên bốn đặc điểm “bất biến” về nội dung của chúng: thứ nhất, đó là những bài thơ nội tâm; thứ hai,là
những bài thơ được xây dựng trên sự đối lập giữa một bên là hiện tại, với bên kia là dĩ vãng hoặc tương lai; thứ ba,
là một lời kêu gọi thôi thúc hành động; thứ tư, là tác giả đóng vai một lữ khách xem cuộc đời mình như một đoạn
đường dài và ôn lại quãng đường ấy; Trần Đình Sử, trong Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam đã
có những nhận định mà chúng tôi hết sức chú ý: “người ta thường nói hình thức của ngâm khúc là STLB. Nhưng
điều đó chưa đủ. Ngâm khúc đã phát triển đến tột độ quan niệm tự tình của thơ trữ tình trung đại. Chính việc kể lể
tình cảm mới tạo khả năng sáng tác được khúc ngâmdài mà không cần cốt truyện” [10; 185]. Tiếp đó, ông khẳng
định chức năng củangâm khúc: “có thể nói ngâm khúc có nhiệm vụ trải tấm lòng đau xót, sầu tủi, tiếc hận của
mình” [10; 185].
Từ cơ sở của Phan Ngọc và Trần Đình Sử, chúng tôi khẳng định rằng chức năng của NKHTSTLB trong
văn học Việt Nam trung đại là những tác phẩm diễn tả nội tâm với nhiệm vụ trải lòng đau xót, sầu thảm.
Nội dung chính thể loại NKHTSTLB là những tâm sự cá nhân. Chinh phụ ngâm cũng thể hiện chức
năng này.
Trong số các tác phẩm NKHTSTLB phổ biến, đứng ở góc độ xem xét chức năng và nội dung biểu hiện
của lời “tâm sự”, giọng điệu phát ngôn của nhân vật trung tâm trong tác phẩm chúng tôi tạm chia ra làm
hai nhóm:

Các tác phẩm có nhân vật trữ tình nhập vai (vừa là người trần thuật, vừa là người trong cuộc). Tiêu biểu


là các tác phẩm: Chinh phụ ngâm vàCung oán ngâm khúc, …
Các tác phẩm có nhân vật trữ tình (nhân vật là người trong cuộc). Tiêu biểu có Thu dạ lữ hoài
ngâm (Đinh Nhật Thận), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Bần nữ thán (khuyết danh), …
3. Chức năng và nội dung của bản dịch Chinh phụ ngâm
Bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành mà chúng tôi chọn làm đối tượng khảo sát dài 408 dòng. Nhân vật
trữ tình là người chinh phụ luôn mang tâm trạng cô đơn khắc khoải đợi chờ người chinh phu ngoài chiến
trận.
Theo Hà Như Chi, tình cảm của người chinh phụ được chia ra các cung bậc như sau:
- Thiết tha, gắn bó với chồng khi chia tay;
- Tình yêu rất trung thành khi chồng đi vắng;
- Thương nhớ chồng một cách tình tứ: tưởng tượng và cảm xúc rất tế nhị;
Buồn khổ nhưng không quên bổn phận: tình cảm, nhiệm vụ làm mẹ, làm vợ điều hoà với nhau làm nên
vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm rất Á Đông [1; 153].
Riêng về những trạng thái trong tâm lý người chinh phụ nhớ mong chồng, Thuần Phong đã để công phân
biệt được rất nhiều màu sắc và chứng minh như thế nào những màu sắc xuất hiện “theo một tầng thứ
hợp lý vô cùng”. Từ tiếc (câu 113 - 124) mà ra trách (câu 125 - 152), từtrách đến lo (câu 153 - 168),
từ lo đến mong (câu 169 - 176). Rồi lần lượt nào thương (câu 177 - 184), nào nhớ (câu 185 - 216),
nào tủi (câu 217 - 228), nào sầu (câu 229 - 256), nào mộng (câu 257 - 268), nào trông (câu 269 - 292),
nào than (câu 293 - 352) để rốt cuộc là nguyện (câu 353 - 372).
Ở đây, chúng tôi theo dòng suy tưởng của nhân vật chinh phụ, “dựng” lại chân dung cũng như tâm trạng
“sầu thương” của cả nàng, để tìm chức năng và nội dung biểu hiện của thể loại:
Mở đầu tác phẩm, là lúc hai nhân vật chính xuất hiện: chàng và nàng:
Trang phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên,
Rồi non sông nghiêng ngửa, xã tắc khuynh nguy chồng nàng phải xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Mối tình đang nồng đượm, giữa chừng phải chia ly, tiễn đưa chồng ra trận mà nàng dường như không
muốn rời chân:

Nhủ rồi, tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng.
Tự nghĩ giận mình không được như “chiến mã” để theo bước chân chồng ra trận:
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền.
Nàng liên tưởng đến nỗi nhọc nhằn khổ cực của chồng ngoài chiến tuyến, thấp thỏm chờ đợi tin chồng,
nghe gió đông về đã vội may áo bông để mong ấm lòng bạn gối chăn miền biên tái:
Thấy nhạn luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng.
Son phấn xưa có “hồn” còn giờ đây cũng trở nên vô tri, vô nghĩa:
Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Bao nhiêu niềm hạnh phúc nàng đều đặt trọn vào tình quân. Giờ đây, đối mặt với nỗi đơn lẻ biết cùng ai
chia ngọt xẻ bùi:


Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Nỗi giằng xé tăng lên khi nàng mượn gương soi tìm hình bóng cũ, ao ước gửi đến chồng những kỷ vật
mặn nồng tình chăn gối:
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần dấu đã soi chung
Cậy ai mà gửi tới cùng
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nỗi niềm nhớ mong luôn luôn hiện lên thường trực bởi sự tưởng tượng phong phú của nhân vật tự tình.
Dường như ánh mắt của nàng “trông thấy” chồng mình đang dấn thân vào nơi nguy hiểm gian lao:
Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao?
Ở nơi ấy, cảnh vật hiện lên với những nét hoang vu, đìu hiu, ghê gợn:
Xưa nay chiến địa dường bao

Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu!
Tâm trạng não nề luôn đè nặng, ngay cả trong công việc hàng ngày:
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Chinh phụ nhớ rõ buổi chia tay với những lời hẹn ước của chồng bao nhiêu trong ký ức thì thực tại bóng
hình chàng càng biệt chim tăm cá bấy nhiêu:
- Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm
- Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm nào thấy tiêu hao
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Nỗi lòng người hoà vào nỗi sầu của cảnh vật:
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùn mưa phun
Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô,…
Thương nhớ chồng, nàng lo tròn trách nhiệm với con, nàng vẫn là dâu thảo với mẹ chồng, để rồi đêm về
một mình chiếc bóng chỉ biết âm thầm chờ đợi trong khổ đau mõi mòn:
- Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
- Lòng này hoá đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Và hình bóng chàng hiện lên trong giấc mộng:
Tìm chàng thuở Dương đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.



Không chỉ mang chức năng biểu thị tâm trạng triền miên trong đau khổ,Chinh phụ ngâm còn có chức
năng và nội dung biểu hiện sự hoài vọng ở một ngày “trùng hoan” của chinh phụ, nàng mong đến ngày
chinh phu đắc thắng khải hoàn, nàng sẽ hạnh phúc biết bao để săn sóc cho chồng:
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng rũ lớp phong sương …
Và trong men rượu đoàn viên:
Sẽ rót vơi lần lần từng chén
Sẽ ca dần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
Cho bõ lúc xa sầu cách nhớ
Giữ gìn nhau vui thủa thanh bình …
Tóm lại
Vị trí và sức sống của những tác phẩm Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, Ai tư vãn, Tự tình khúc, Thu dạ lữ hoài
ngâm, … vẫn trường tồn cùng thời gian. Đúng như chức năng biểu hiện của nó là những tác phẩm diễn tả nội tâm
với nhiệm vụ trải lòng đau xót, sầu thảm, thể loại này chỉ phù hợp với nhiều điều kiện cả chủ quan lẫn khách quan.
Thể loại ngâm khúc do những đặc thù riêng đã tỏ ra không còn phù hợp với thời hiện đại nữa.
Ngâm khúc vắng bóng trong Thơ mới 1932 - 1945 cũng là điều dễ hiểu. Từ sau các tác phẩm khóc chồng của Tương
Phố (thập niên hai mươi của thế kỷ XX), thể loại NKHTSTLB tạm lắng lại không xuất hiện nữa, …
Học tập, tìm hiểu, nghiên cứu các thể loại NKHTSTLB trong đó có đoạn tríchChinh phụ ngâm là vấn đề khó, nhưng
đây là vấn đề thú vị, nhiều ý nghĩa, đòi hỏi công sức, tâm huyết của những người tiếp nhận. /.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Như Chi, Việt Nam thi văn giảng luận, Sách giáo khoa Tân Việt, Sài Gòn, 1951.
2. Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc, Những ngâm khúc chọn lọc, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
3. Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
4. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2007.
5. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1968.
6. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học (Bộ

mới), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2003.
7. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học Việt Nam (thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2006.
8. Nguyễn Văn Khôn, Hán Việt từ điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960.
9. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 2: Văn học lịch triều Việt văn, Nxb Đồng
Tháp, Đồng Tháp, 1997.
10. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
11. Trần Minh Thương, Thể loại ngâm khúc hình thức song thất lục báttrong văn học Việt Nam trung
đại, Luận văn thạc sĩ, Vinh, 2009.
12. Lê Ngọc Trụ, Việt ngữ chánh tả tự vị, Bộ Văn hoá Quốc gia, Sài Gòn, 1967.
13. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1999.
Trần Minh Thương
Số lần đọc: 1665



×