Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC : CHỨC NĂNG VAI TRÒ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.23 KB, 36 trang )

PHẦN I:
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC : CHỨC NĂNG VAI
TRÒ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NÓ
I. Khái niệm và mục tiêu của NSNN:
Trong các xã hội hiện đại, Nhà nước ln có các chức năng, nhiệm vụ
nhiều mặt, như chức năng quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng
trấn áp và các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện các chức
năng nhiệm vụ đó Nhà nước cần nắm 1 lượng của cải vật chất nhất định.
Lượng của cải vật chất đó được hình thành chủ yếu từ thuế, cái mà các tổ
chức dân cư phải có nghĩa vụ nộp cho Nhà nước theo quy định bằng luật
pháp của Nhà nước. Từ các nguồn thu đó mà quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất
của Nhà nước được hình thành, nó được gọi là quỹ Ngân sách, đó là cơ sở
vật chất đảm bảo cho Nhà nước tồn tại và hoạt động.Việc sử dụng quỹ Ngân
sách để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước chính là quá trình chi tiêu
của Ngân sách. Chi tiêu Ngân sách luôn gắn liền với việc thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, và trong từng thời kỳ nhất
định.
Trong thời hiện đại nay, chức năng kinh tế của Nhà nước càng trở nên
quan trọng. Nhà nước phải can thiệp vào các quá trình kinh tế để sửa chữa
những sai lầm của thị trường, để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh
và đảm bảo tính hiệu quả, cơng bằng và ổn định của nền kinh tế. Sự can
thiệp của Nhà nước ở đây là sự can thiệp gián tiếp, thơng qua chính sách
thuế khố, chính sách chi tiêu và các luật lệ của Nhà nước. Như vậy bên
cạnh “bàn tay vơ hình” của thị trường cịn có “bàn tay hữu hình” của Nhà
nước là thuế khố, chi tiêu Chính phủ và các luật lệ của Nhà nước.
Phát triển kinh tế hiện nay đang là mục tiêu cơ bản trong chính sách
kinh tế vĩ mơ của hầu hết các Chính phủ, phát triển kinh tế không chỉ đơn
thuần là sự tăng trưởng kinh tế, mà nó cịn bao hàm nhiều vấn đề khác, như
sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, sự đơ thị hố và sự tham gia của các thành
viên trong xã hội vào qua trình phát triển đó. Để thực hiện được mục tiêu
chiến lược này, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó chính


sách Ngân sách là một trong những công cụ quan trọng nhất của Nhà nước.
Như vậy qua đây ta thấy chính sách của Nhà nước như thế nào, hay cụ thể
1


hơn là việc Nhà nước huy động thu nhập, sử dụng thu nhập vào việc gì, như
thế nào? là hồn toàn phụ thuộc vào các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước,
phụ thuộc vào các mục tiêu mà Nhà nước đặt ra trong các thời kỳ khác nhau.
Vậy Ngân sách Nhà nước là gì?
Ngân sách Nhà nước là tồn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
trong dự toán đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và
được thực hiện trong 1 năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ
của Nhà nước.
NSNN là một bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính. Đây là bộ
phận tập trung với hạt nhân là quỹ NSNN.
- Về hình thức: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu chi của Nhà nước.
- Về nội dung kinh tế : NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình phân phối sản phẩm quốc dân và các nguồn tiền tệ khác
thơng qua việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà
nước nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước.
Cùng với chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập và chính sách ngoại
thương, chính sách Ngân sách được sử dụng để tác động vào “tổng cầu” của
xã hội nhằm hướng nền kinh tế đạt tới những mục tiêu nhất định như: sản
lượng cao, tốc độ phát triển cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tỷ lệ lạm phát thấp và
cân bằng cán cân thanh toán.
II. Nguyên tắc hoạt động:
Các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực NSNN là những quan hệ kinh tế
giữa một bên là Nhà nước và một bên là các tổ chức và dân cư. Trong điều
kiện nền kinh tế mở, NSNN còn bao gồm cả các quan hệ kinh tế giữa Nhà

nước với bộ phận tài chính đối ngoại.
Trong quá trình sử dụng, NSNN được kế hoạch hố một cách chặt
chẽ, kế hoạch Ngân sách là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước. Nó
được lập cho một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Các khoản thu về
các khoản chi trong kế hoạch Ngân sách được sắp xếp theo một trật tự nhất
định, gọi là mục lục Ngân sách. Là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước,
NSNN mang tính pháp luật. Q trình lập và chấp hành Ngân sách được tiến

2


hành theo một trình tự nhất định và sau khi thông qua, NSNN trở thành một
đạo luật- nghĩa là việc thực hiện nó mang tính bắt buộc.
Q trình xây dựng NSNN phải tuân theo một số nguyên tắc nhất
định. Đó là các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Là nguyên tắc thống nhất. Nghĩa là Nhà nước chỉ có một hệ
thống Ngân sách thống nhất bao gồm Ngân sách Trung ương và Ngân sách
địa phương. Tính thống nhất của Ngân sách cịn thể hiện ở sự thống nhất về
mục lục Ngân sách, về các báo biểu, biểu mẫu tài chính,thống nhất và hệ
thống thu và các nguyên tắc chi, và cuối cùng là sự thống nhất trong việc
thực hiện các nghiệp vụ Ngân sách.
Thứ hai: Là nguyên tắc toàn bộ. Chấp hành nguyên tắc toàn bộ nghĩa là
toàn bộ các khoản thu và các khoản chi của Ngân sách phải được phản ánh
đầy đủ trong NSNN, nguyên tắc này được đưa ra nhằm tránh việc để ngoài
Ngân sách các khoản thu hoặc các khoản chi thuộc NSNN.
Thứ ba: Là nguyên tắc công khai. Theo ngun tắc này, Chính phủ phải
cơng bố cơng khai trên báo chí và các phương tiện thơng tin đại chúng về
NSNN, bao gồm nội dung, khối lượng các khoản thu và các khoản chi Ngân
sách chủ yếu.
Các nguyên tắc trên đây là các nguyên tắc chủ yếu của quá trình xây

dựng Ngân sách. Trên thực tế, mỗi nước trong từng hồn cảnh cụ thể có thể
có sự vận dụng linh hoạt hơn.
Hệ thống NSNN được thiết lập theo tổ chức hệ thống chính quyền
Nhà nước. Thơng thường Ngân sách Nhà nước bao gồm Ngân sách Trung
ương và Ngân sách địa phương trong đó Ngân sách Trung ương giữ vai trò
chủ đạo. Ngân sách Trung ương tập trung những nguồn thu quan trọng nhất
và đảm nhiệm những nhiệm vụ chi chủ yếu. Việc phân phối quản lý Ngân
sách được tiến hành thông qua việc quy định phạm vi nhiệm vụ và trách
nhiệm cụ thể của chính quyền Nhà nước, Trung ương và tỉnh, đồng thời
thông qua việc phân định các nguồn thu giữa Ngân sách Trung ương và
Ngân sách tỉnh để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ trên.
III. Chức năng của NSNN:
NSNN có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng
giám đốc.
3


* Chức năng phân phối của NSNN không dừng lại ở khâu phân phối
thu nhập (kết quả kinh doanh) mà bao gồm cả phân phối các yếu tố đầu vào,
cụ thể là phân bổ các nguồn tài chính. Đối tượng phân phối của NSNN là các
nguồn lực tài chính, thu nhập mới sáng tạo ra có liên quan đến Nhà nước,
phần do Nhà nước làm chủ sở hữu, gắn liền với khả năng thu chi, vay mượn
của Chính phủ, gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước (quỹ NSNN, quỹ dự trữ tài chính…) và có quan hệ chặt chẽ
với các chủ thể khác của nền kinh tế (doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, các
đồn thể, tổ chức phi lợi nhuận...) trong quá trình thực hiện chức năng phân
phối. Phạm vi phân phối NSNN được giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan
tới quyền chủ sở hữu và quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước thực
hiện chức năng phân phối nguồn lực tài chính khi cung cấp, tài trợ vốn cho
các doanh nghiệp (thường là các doanh nghiệp mà Nhà nước là chủ sở hữu

toàn bộ hay bộ phận); hoặc chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bằng
nguồn vốn tập trung từ NSNN. Chức năng phân phối thu nhập của NSNN
được thực hiện khi phát sinh các nghiệp vụ thu, chi NSNN. Phân phối Nhà
nước có mặt trong các khâu phân phối lần đầu (Nhà nước tham gia vào quá
trình phân chia kết quả sản xuất, kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu vốn và
tài sản trong các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước…) và phân phối lại kết
quả sản xuất kinh doanh thông qua thuế và chi tiêu công cộng.
* Chức năng giám đốc ở đây được hiểu là việc giám sát, đôn đốc,
kiểm tra, được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, cùng với quá trình
vận động của các đối tượng phân phối của NSNN. Chức năng giám đốc của
NSNN gắn liền với chức năng phân phối NSNN, thông qua phân phối để
giám sát, kiểm tra và nhờ có kiểm tra, giám sát mà quá trình phân phối
NSNN được thực hiện đúng pháp luật, có hiệu quả. Cơng cụ giám đốc
NSNN là các nghiệp vụ thống kê, kế toán, kiểm tốn, nghiệp vụ thanh tra,
kiểm tra tài chính, chế độ cơng khai tài chính, Ngân sách và bằng các
phương tiện thông tin đại chúng. Giám đốc NSNN thực hiện cả ở tầm vĩ mô
và vi mô, trực tiếp và gián tiếp. Giám đốc NSNN cung cấp thông tin về các
cân đối thu chi NSNN, về thực tế thu chi và tổng ngân quỹ NSNN tại các
thời điểm cần thiết, về thực trạng gánh nặng nợ của Nhà nước và khả năng
thanh tốn của Chính phủ. Thơng qua chức năng giám đốc của NSNN, nhà
nước kiểm sốt tình hình tài chính vĩ mơ. Giám đốc NSNN cịn xem xét mức
độ kết quả thực hiện chế độ, hạn mức chi của NSNN tại cơ sở, xem xét việc
4


chấp hành luật pháp tài chính tại các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị
sử dụng NSNN.
Nếu thực hiện tốt chức năng này, một mặt Nhà nước sẽ được cung
cấp những hình ảnh đúng đắn, trung thực, sống động về thực trạng, về quá
trình diễn biến, về xu hướng vận động của NSNN. Mặt khác trên cơ sở kết

quả giám đốc, Nhà nước tiếp tục vững bước hoặc có những điều chỉnh cần
thiết trong điều hành NSNN, tiến tới các mục tiêu chiến lược đã xác định
một cách có hiệu quả.
IV. Vai trò của Ngân sách Nhà nước:
Trong kinh tế thị trường, vai trò của NSNN là bảo đảm nguồn tài
chính thực hiện chức năng Nhà nước cơng quyền, duy trì sự tồn tại của thể
chế chính trị, là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế
vĩ mô của Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái .
Ngân sách tiêu dùng: công cụ bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước công
quyền và bảo vệ Tổ Quốc
Nếu như đa số các học thuyết khơng có mâu thuẫn về sự cần thiết phải
duy trì Ngân sách bảo đảm tiêu dùng thường xuyên của Nhà nước (hầu như
tất cả đều thống nhất về việc phải có đủ tiềm lực tài chính, Ngân sách bảo
đảm hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước, an ninh, quốc phịng, trật tự và
an tồn xã hội) thì người ta lại khơng nhất trí với nhau khi cho rằng toàn bộ
NSNN là Ngân sách tiêu dùng hay Ngân sách tiêu dùng chỉ là một bộ phận
của NSNN ? Các nhà kinh tế học thường xuất phát từ chức năng của Nhà
nước, căn cứ vào đó để làm luận cứ xác định vai trị của NSNN.
Việc duy trì vai trị Ngân sách tiêu dùng là hồn tồn cần thiết nhưng
chưa đủ bởi có ít nhất 2 lý do: Một mặt, sự ra đời và tồn tại của NSNN thống
nhất với sự cần thiết phải có một Ngân sách đủ tiềm lực bảo đảm hoạt động
của bộ máy quản lý hành chính, cơng bằng xã hội, duy trì, cải thiện cơ sở hạ
tầng, giữ gìn an ninh, quốc phịng, trật tự và an tồn xã hội. Chính điều đó
tạo nên bộ phân Ngân sách thường xuyên (bao gồm cả chi cho cơ sở hạ tầng)
của mọi loại hình NSNN. Bộ phận Ngân sách tối thiểu đó thể hiện vai trò của
một Ngân sách tiêu dùng, nằm ở khâu sau, khâu phân khối lại thu nhập của
quá trình kinh tế, phù hợp nhất quán với chức năng phân khối lại của NSNN.
Nhưng mặt khác, thực tế cũng như lý luận về chức năng của NSNN chỉ ra
5



rằng, chức năng phân khối của NSNN không chỉ là phân phối lại kết quả sản
xuất kinh doanh mà trước khi phân phối lại kết quả kinh doanh thì NSNN đã
tham gia vào phân phối vào các yếu tố đầu vào của q trình kinh tế. Do đó,
Nhà nước khơng thể và không nên dừng lại ở việc xây dựng một Ngân sách
tiêu dùng thụ động, trung tính trước các hoạt động kinh tế. Mặc dầu, việc xây
dựng một Ngân sách tiêu dùng tối thiểu tuy có thể tạo cơ hội ngăn chặn tham
nhũng, lãng phí nhưng giữa chống tham nhũng lãng phí và việc mở rộng
NSNN ra ngồi phạm vi Ngân sách tiêu dùng hiện chưa có những phân tích
có sức thuyết phục nào chỉ ra được mối liên hệ tương thích .
Ngân sách phát triển: cơng cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển
kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Trái với quan điểm “Ngân sách tiêu dùng” hoặc “Ngân sách cai trị” có
quy mơ vừa phải, đủ đảm bảo chi thường xuyên, chi quốc phòng, an ninh là
quan điểm ủng hộ Nhà nước sử dụng Ngân sách can thiệp vào kinh tế. Nhà
nước cần phải tác động vào q trình phát triển kinh tế, dù đó là kinh tế kế
hoạch hoá tập trung hay kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính
của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo triển khai các biện pháp can thiệp kinh
tế. Quy mô thu, chi NSNN phải đủ lớn bảo đảm cho Nhà nước chủ động thực
hiện các chính sách tài khóa nới lỏng (hoặc thắt chặt), thực hiện kích cầu đầu
tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong thực tế, vai trị cơng cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định, điều tiết
kinh tế vĩ mô của một Ngân sách phát triển đã được nhận thức, vận dụng rất
khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi Nhà nước, tuỳ theo bối cảnh kinh tế
ở mỗi thời kỳ và đã trải qua nhiều thăng trầm quan trọng. Nổi bật là hiện
tượng đề cao quá mức vai trị cơng cụ điều tiết kinh tế của NSNN tại các Nhà
nước XHCN trước thập kỷ 90 và các Nhà nước TBCN trước thập kỷ 70.
Trong thực tế điều hành chính sách tài khố, Nhà nước có thể quyết
định tăng (hoặc giảm) thế, tăng (hoặc giảm) quy mô thu Ngân sách, tăng

(hoặc giảm) quy mô chi Ngân sách nhằm tác động vào nền kinh tế. Nhà nước
cũng có thể quyết định ban hành thêm, hoặc cắt bỏ, hoặc tăng, giảm mức thu
của một hoặc nhiều sắc thuế làm thay đổi kết cấu nguồn thu Ngân sách từ
thuế. Đồng thời, Nhà nước cũng hồn tồn có thể quyết định thay đổi cơ cấu
chi Ngân sách, tăng mức và tỷ trọng chi của từng khoản mục chi trong tổng
chi NSNN xác định. Cuối cùng, Nhà nước cịn có thể áp dụng chính sách tài
khố nới lỏng, có bội chi và kéo theo đó là các biện pháp bù đắp bội chi,
6


hoặc chính sách Ngân sách cân bằng, khơng có bội chi (hoặc ngược lại)…
Tất cả những điều đó thể hiện vị trí quan trọng của NSNN với tư cách một
cơng cụ tài chính vĩ mơ sắc bén và hữu hiệu nhất để Nhà nước can thiệp,
điều chỉnh nền kinh tế. Tất cả những hành động đó phản ánh việc Nhà nước
can thiệp gián tiếp và trực tiếp vào nền kinh tế. Quá trình và hiệu quả can
thiệp kinh tế của Nhà nước thơng qua NSNN đã xác lập vị trí, vai trò của
Nhà nước và Ngân sách trong nền kinh tế. Dù muốn hay không, mỗi khoản
chi Ngân sách đều có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, và do vậy,
NSNN khơng trung tính trước các hoạt động kinh tế. Do đó, Nhà nước cần
nắm chắc cơ chế tác động của chi Ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận
thức đầy đủ và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của
NSNN để phát huy vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh
tế vĩ mô của NSNN.
Ngân sách Nhà nước: công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường,
bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngày nay, thế giới hầu hết đều không phủ nhận hồn tồn vai trị của
Nhà nước đối với kinh tế nhưng cũng khơng cịn tơn sùng vai trị làm kinh tế
của Nhà nước. Đa số đều ủng hộ vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước đối với
nền kinh tế, đồng thời coi trọng quy luật kinh tế khách quan, hạn chế can
thiệp kinh tế không cần thiết, khi mà thị trường có thể làm được với cơ chế

riêng của nó, đồng thời sẽ can thiệp tích cực với mức độ hợp lý trong những
trường hợp cần thiết để bù đắp những thất bại của thị trường. Trên cơ sở đó,
vai trị Ngân sách phát triển đã được nhận thức, xây dựng và vận dụng trong
thực tiễn điều hành của các Nhà nước, cho dù có sự khác nhau về liều lượng,
thời gian và bối cảnh vận dụng.
Tóm lại, quan niệm đúng đắn về những vai trị đích thực của NSNN
trong kinh tế thị trường sẽ cho phép xác lập và sử dụng có cơ sở khoa học, có
hiệu quả cơng cụ NSNN trong điều hành kinh tế- xã hội. Mặc dù bối cảnh
kinh tế thay đổi nhưng nếu nhận thức đúng đắn và hội tụ đủ những điều kiện
cần thiết thì vẫn có thể xây dựng và triển khai các chính sách kích cầu qua
NSNN có hiệu quả; vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết kinh tế
vĩ mô của NSNN càng được phát huy tác dụng.

V. Hoạt động củaNSNN:
1. Thu NSNN:
7


a- Khái niệm và phân loại:
Thu của NSNN là toàn bộ các khoản tiền thu được tập trung vào trong
tay Nhà nước để hình thành nên quỹ Ngân sách. Thu của NSNN được tập
trung từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm các khoản thu từ thuế, thu về lệ
phí và thu từ tài sản của Nhà nước. Ngoài ra thu Ngân sách còn bao gồm các
khoản thu từ việc vay của Nhà nước (bao gồm vay trong nước thông qua
việc phát hành trái phiếu và vay nước ngoài) các khoản thu do nhận viện trợ.
Trong các loại thu trên thì thuế là loại thu chủ yếu, nó tạo nên bộ phận
quan trọng và chủ yếu của quỹ Ngân sách. Nhiều nước số thu về thuế chiếm
80-90% tổng số thu của Ngân sách. Thuế bao gồm rất nhiều loại như thuế
doanh thu, thuế hàng hoá, thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi tức, thuế thu nhập cá
nhân, thuế giá trị gia tăng…

Thu về lệ phí bao gồm lệ phí giao thơng, lệ phí chứng thư, lệ phí
chuyển nhượng tài sản, lệ phí từ việc sử dụng một số hàng hố cơng cộng…
Thu về tài sản của Nhà nước bao gồm các khoản thu về bán và cho
thuê các tài sản của Nhà nước. Nhà nước có thể bán các xí nghiệp quốc
doanh cũ, hoặc xây dựng rồi cho thuê hoặc bán cho tư nhân. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, Nhà nước cũng có thể là một cổ đơng, Nhà nước tham gia
vào công việc đầu tư bằng cách mua cổ phiếu của các công ty cổ phần và dĩ
nhiên Nhà nước cũng được hưởng cổ tức từ các cổ phần của mình.
Trong quá trình quản lý Ngân sách, người ta thường phân loại thu của
Ngân sách theo nhiều tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào tính chất các loại thu có thể chia thành thu về thuế, thu
về lệ phí, thu về tài sản của Nhà nước, thu về vay nợ, viện trợ.
- Căn cứ vào mối quan hệ đối với cân đối Ngân sách có thể phân thành
hai loại là thu trong cân đối Ngân sách (bao gồm thu về thuế, thu về lệ phí và
thu từ tài sản của nhà nước) và thu để bù đắp thiếu hụt Ngân sách ( bao gồm
thu về vay nợ, viên trợ và thu về phát hành).
- Căn cứ vào nguồn hình thành có thể phân thành thu trong nước và
thu ngồi nước.
Ngồi ra cịn có thể phân loại Ngân sách theo khu vực: thu từ khu vực
kinh tế tư nhân cá thể và thu từ khu vực kinh tế của Nhà nước.
b-Tác động vĩ mô của thu NSNN:
8


Để thúc đẩy kinh tế phát triển phải tăng cường đầu tư của Nhà nước và
đặc biệt là đầu tư tư nhân. Nguồn đầu tư là tiết kiệm nên muốn tăng cường
đầu tư thì phải tăng cường tiết kiệm. Tiết kiệm của nhà nước có thể tăng
bằng cách tăng thuế hoặc giảm chi tiêu của Chính phủ. Việc tăng thuế là một
việc làm khó khăn và nó có ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân. Để tăng tiết kiệm
tư nhân, Nhà nước có thể giảm thuế. Ngồi ra việc áp dụng các biện pháp ưu

đãi về thuế cũng như trợ cấp cho các doanh nghiệp có vai trị đặc biệt quan
trọng có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc khuyến khích sử dụng đầu tư.
Để khuyến khích phát triển một lĩnh vực nào đó, Nhà nước có thể miễn giảm
về thuế cho lĩnh vực đó trong một thời gian nhất định. Trên thực tế nhiều khi
biện pháp này bị lạm dụng và các quy định ưu đãi nhiều đến mức làm cho
việc tính thuế trở nên phức tạp, gây nhiều khe hở cho việc tránh thuế, trốn
thuế. Nhà nước sử dụng các chính sách về thuế để đảm bảo thực hiện vai trị
định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Thu NSNN cịn có vai trị thực hiện cơng bằng xã hội, giảm bớt sự bất
công trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng.
Thuế thu nhập và thuế lợi tức có vai trị quan trọng nhằm điều tiết thu nhập
để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp, thúc đẩy công bằng xã
hội. Tuy nhiên đối với thuế doanh thu và thuế hàng hoá là những loại thuế
thường làm cho quá trình phân phối trở nên mất cơng bằng hơn vì nó thu
phần nhiều hơn của những người có thu nhập thấp hơn.
Như vậy chúng ta thấy thuế là một nguồn thu quan trọng và chủ yếu
của thu NSNN. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc, được quy định thành luật
của các tổ chức kinh tế và dân cư cho Nhà nước. Thuế thể hiện mối quan hệ
phân phối lại thu nhập của dân cư và các tổ chức kinh tế cho Nhà nước. Tính
bắt buộc của thuế thể hiện ở chỗ khi Nhà nước xác định mức thuế thì người
nộp thuế khơng có quyền thắc mắc, địi hỏi gì. Thuế do Nhà nước ban hành
và chỉ có Nhà nước mới có quyền thay đổi. Nộp thuế là nghĩa vụ của các tổ
chức kinh tế và dân cư. Thuế thường được thu bằng tiền, nhưng cũng có
trường hợp thu bằng hiện vật. Thuế thường đánh vào lưu thông, tiêu thụ, các
loại thu nhập và giá trị của tài sản. Đối tượng chịu thuế rất khác nhau và cách
đánh thuế trên mỗi đối tượng cũng khác nhau. Người ta phân biệt thành hai
loại thuế là thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế gián thu là thuế đánh vào
hàng hố và dịch vụ, như vậy nó chỉ đánh gián tiếp vào người mà sử dụng

9



hàng hố và dịch vụ đó. Cịn thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập
của các tổ chức kinh tế và người dân.
Các loại thuế như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế hàng hoá,
thuế xuất nhập khẩu được coi là thuế gián thu, chúng được cấu thành trong
giá bán các loại hàng hoá và nó làm cho giá bán tăng lên.Thuế doanh thu là
loại thuế đánh vào hành động lưu thông của tất cả các loại hàng hố và dịch
vụ. Nó động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng nhưng lại nằm
trong giá bán nên dễ bị che khuất và việc đánh thuế ít gây trở ngại, chống đối
từ người chịu thuế. Hơn nữa đối tượng đánh thuế là rất rộng rãi và tương đối
ổn định nên thuế doanh thu là một trong những nguồn thu quan trọng và khá
ổn định của Ngân sách.
Thuế hàng hoá thường được đánh vào các mặt hàng khơng khuyến
khích tiêu dùng và những mặt hàng xa xỉ. Những mặt hàng khơng khuyến
khích tiêu dùng là các loại hàng hố mà việc tiêu dùng chúng có ảnh hưởng
không tốt đến sức khoẻ như thuốc lá, rượu… Việc đánh thuế cao vào những
loại mặt hàng này làm giá của chúng trên thị trường tăng lên và như vậy sẽ
hạn chế tiêu dùng chúng. Tuy nhiên những hàng hoá khơng khuyến khích
tiêu dùng có hệ số biến đổi về giá và hệ số biến đổi về thu nhập thấp. Do vậy
việc áp dụng thuế suất cao đối với chúng khơng những hạn chế tiêu dùng mà
cịn có tính chất khơng tiến bộ, khơng đảm bảo tính cơng bằng trong xã hội.
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các tổ chức
kinh tế và dân cư. Thuế trực thu bao gồm thuế lợi tức và thuế thu nhập cá
nhân.. Thuế lợi tức hay còn gọi là thuế thu nhập công ty là loại thuế thu trên
tổng lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp, lợi nhuận chịu thuế là số
chênh lệch giữa tổng doanh thu của doanh nghiệp trừ đi các khoản chi phí
hợp lý mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Thuế suất thuế lợi tức ở đa số các nước là thuế suất tỷ lệ cố định, một
số nước áp dụng thuế suất luỹ tiến toàn phần, một số nước áp dụng thuế suất

luỹ tiến từng phần và có những nước áp dụng tổng hợp cả hai loại thuế suất
đó. Thuế lợi tức là loại thuế có tác động lớn tới các quyết định đầu tư của các
doanh nghiệp. Việc tăng hay giảm thuế lợi tức có thể dẫn tới sự thu hẹp hay
mở rộng quy mơ của vốn đầu tư nói chung.Việc áp dụng các quy định miễn
giảm thuế lợi tức có tác dụng khuyến khích đầu tư thực sự nhưng nó cũng
làm việc tính thuế thêm phần phức tạp gây ra những hiện tượng mất cơng
bằng và khơng đảm bảo tính chắc chắn trong các chính sách thuế.
10


Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu có tính chất luỹ tiến cao
nhất. Trong các nước phát triển thì thuế thu nhập cá nhân là loại thu quan
trọng nhất của NSNN. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế được coi là tiến bộ
nhất vì nó có vai trị giảm bớt khoảng cách giữa những người có thu nhập
cao và những người có thu nhập thấp trong xã hội. Thuế suất thuế thu nhập
cá nhân thường là thuế suất luỹ tiến, thu nhập càng cao thì tỷ lệ thu thuế
càng lớn. Nhờ có hệ thống thuế suất luỹ tiến mà thuế thu nhập cá nhân là
một trong những công cụ điều tiết tự động rất tốt: Nếu sản lượng tăng, thu
nhập tăng thì thuế cũng tăng; nếu sản lượng giảm, thu nhập giảm thì thuế
cũng giảm. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế nhạy cảm về thu nên nó có vai
trị điều tiết vĩ mơ rất quan trọng.
Như vậy với vai trò là nguồn thu quan trọng và chủ yếu của NSNN,
thuế có tác động rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy các chính sách
thuế mà mỗi quốc gia ban hành phải thận trọng để có thể thúc đẩy nền kinh
tế của quốc gia mình.
Ngồi tác dụng là thúc đẩy kinh tế phát triển và thực hiện cơng bằng
xã hội thì thu Ngân sách cịn có tác động đến sự ổn định kinh tế, ngăn ngừa
sự thụt lùi, giảm lạm phát và thất nghiệp. Các nguồn vay nợ từ trong nước và
ngoài nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên nếu để tăng
thu Ngân sách mà nhà nước dùng biện pháp phát hành thêm tiền (in tiền) thì

nó sẽ gây ra tình trạng lạm phát gia tăng. Nếu dùng biện pháp vay dân (thông
qua việc phát hành trái phiếu) sẽ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong
nền kinh tế, tạo ra sự cân đối tiền hàng và làm giảm tốc độ lạm phát. Trong
điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao thì cần phải tăng thuế và khống chế
tiêu dùng của Chính phủ. Ngược lại trong thời kỳ suy thối kinh tế, thất
nghiệp cao thì cần phải giảm thuế và mở rộng chi tiêu của Chính phủ (ở đây
thường sử dụng các loại thuế nhạy cảm về thu và các khoản trợ cấp của
Chính phủ).
Như vậy chúng ta thấy riêng thu NSNN đã có tác động rất lớn đến sự
tồn tại và phát triển của một quốc gia. Chính vì vậy nó là một vấn đề rất
được quan tâm để từ đó Nhà nước ban hành các chính sách phù hợp nhằm
thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển.
2- Chi NSNN:
a- Khái niệm và phân loại:
11


Chi NSNN là việc sử dụng thu nhập của Ngân sách để phục vụ thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Việc mở rộng các vai trò của
Nhà nước làm cho chi tiêu Ngân sách của hầu hết các quốc gia tăng liên tục.
Chi Ngân sách có nhiều loại khác nhau và dựa vào các tiêu thức khác nhau,
người ta có thể có nhiều cách phân loại chi Ngân sách.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng có thể phân loại chi
Ngân sách thành hai loại chi lớn là chi tích luỹ và chi tiêu dùng. Chi tích luỹ
là các khoản chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho lĩnh vực kinh tế, lĩnh
vực phi kinh tế và chi dự trữ. Chi tiêu dùng bao gồm tất cả các khoản ngồi
chi tích luỹ.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, chi Ngân sách có thể
phân thành chi phát triển kinh tế, chi văn hoá xã hội, chi quản lý hành chính,
chi quốc phịng và các khoản chi khác. Trong đó, chi phát triển kinh tế bao

gồm các khoản chi đầu tư xây dựng và duy trì hoạt động của các cơ sở kinh
tế của Nhà nước, chi trợ giá và trợ cấp cho các doanh nghiệp tư nhân. Chi
văn hoá xã hội bao gồm các khoản chi đầu tư và chi thường xuyên cho các tổ
chức thuộc lĩnh vực văn hoá xã hội, trợ cấp xã hội. Chi quản lý hành chính là
chi để duy trì hoạt động của các cơ quan hành chính, các cơ quan chính
quyền. Chi quốc phịng bao gồm chi để duy trì lực lượng quốc phòng. Các
khoản chi khác bao gồm chi trả nợ, viện trợ, cho vay…
Căn cứ vào nội dung của các khoản chi thì có thể phân loại chi Ngân
sách thành chi đầu tư, chi trợ cấp, chi bù giá hàng tiêu dùng, chi tiêu dùng
chung và chi trả nợ. Trong đó, chi đầu tư bao gồm chi đầu tư cho cả lĩnh vực
sản xuất, không sản xuất và dự trữ Nhà nước về đầu tư. Chi trợ cấp là các
khoản bù giá, trợ cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước, trong trường hợp đặc
biệt có thể là doanh nghiệp tư nhân khi thu nhập khơng đủ bù đắp chi phí do
giá bị khống chế, hoặc trợ cấp để khuyến khích phát triển. Chi bù giá hàng
tiêu dùng là các khoản chi của Ngân sách nhằm làm tăng thu nhập thực tế.
Nó có thể được thực hiện bằng cách bù giá vào lương hoặc trợ cấp cho các
doanh nghiệp khi họ bán hàng với giá thấp hơn giá trị của chúng. Chi tiêu
dùng chung là các khoản chi liên quan đến tiêu dùng chung của cộng đồng.
Những nhu cầu chi tiêu dùng chung không phát sinh trên cơ sở các quan hệ
thị trường mà trên cơ sở lợi ích chung. Tiêu dùng chung ít động chạm đến lợi
ích của từng cá nhân, do vậy Nhà nước phải cấp phát để duy trì chúng.

12


Ngồi ra chi Ngân sách cịn có thể phân loại thành chi thường xuyên,
chi đầu tư và chi trả nợ.
b-Tác động vĩ mơ của chi NSNN:
Chi Ngân sách có tác động lớn đến việc thực hiện các mục tiêu của
chính sách Ngân sách. Tuy nhiên mức độ tác động còn phụ thuộc vào sự

đúng đắn của các quyết định đưa ra. Thông thường chi Ngân sách được đưa
ra nhằm vào các mục tiêu như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội và ổn định kinh tế. Để thực hiện các mục tiêu đó, Nhà nước
thường sử dụng các biểu số như cấp phát cho đầu tư, trợ cấp, chi mua hàng
hố và dịch vụ cơng cộng. Tuỳ vào mục tiêu cụ thể và tình hình kinh tế xã
hội mà có thể thay đổi tổng chi.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các Nhà nước hiện
đại. Để đạt được sự phát triển thì Chính phủ phải hoạch định được chiến lược
phát triển đúng đắn, phù hợp và cần phải có vốn đầu tư của Nhà nước. Chi
đầu tư của Chính phủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế vì nó tạo điều kiện và mơi trường thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư
của các doanh nghiệp tư nhân, hay nói cách khác là đầu tư của Chính phủ tạo
ra sự khởi động ban đầu, kích thích q trình vận động vốn để hướng tới sự
tăng trưởng. Đối tượng đầu tư của Nhà nước thường là những cơng trình
thuộc kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn và những cơng trình kinh
tế mà khơng thể dựa vào đầu tư tư nhân nhưng hoạt động của chúng lại cần
thiết cho xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển là tiền đề cho sự phát triển
kinh tế nói chung, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở mang đầu tư vào
các ngành kinh tế và sự ra đời của các doanh nghiệp này sẽ kéo theo sự ra
đời của các doanh nghiệp khác. Ngược lại một hệ thống cơ sở hạ tầng kém
phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Việc xây dựng các cơng
trình thuộc cơ sở hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, thời gian dài và chúng
thường không mang lại lợi nhuận trực tiếp mà hiệu quả của chúng thể hiện ở
sự phát triển kinh tế nói chung. Các ngành cơng nghiệp non trẻ cũng cần có
vốn đầu tư của nhà nước. Sự phát triển các ngành này sẽ tạo điều kiện cho sự
phát triển của các ngành kinh tế khác.
Chi đầu tư của Ngân sách khơng chỉ có đầu tư mới mà cịn bao gồm cả
đầu tư mở rộng và đầu tư theo chiều sâu các cơ sở hoạt động. Các biện pháp
đầu tư theo chiều sâu có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển, hiệu
quả của chúng thường lớn hơn hiệu quả của đầu tư theo chiều rộng vì nhu

13


cầu vốn đầu tư nhỏ hơn, thời gian đầu tư ngắn hơn và thời gian thu hồi vốn
cũng ngắn hơn. Tuy nhiên không phải tất cả các khoản đầu tư của Chính phủ
đều góp phần cho sự nghiệp tăng trưởng. Vấn đề là ở chỗ phải biết lựa chọn
đối tượng đầu tư cho đúng. Thực tế ở nhiều nước cho thấy tác hại của việc
lựa chọn đối tượng đầu tư không phù hợp là rất lớn như vốn NSNN bị sử
dụng lãng phí, các cơng trình xây dựng khơng mang lại hiệu quả kinh tế và
tình trạng căng thẳng triền miên về cân đối Ngân sách. Những hậu quả đó lại
có tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế.
Chính sách chi cũng có tác động nhất định đến việc thực hiện các mục
tiêu ổn định kinh tế. Trong trường hợp chi vượt thu quá nhiều sẽ dẫn đến lạm
phát. Vì vậy để kìm hãm lạm phát phải khống chế tiêu dùng của Chính phủ,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi lạm phát thường ở mức cao
trong khi các chi tiêu của Ngân sách rất lãng phí và kém hiệu quả. Trong
những trường hợp bình thường, việc tiết kiệm chi tiêu dùng của Chính phủ
góp phần làm tăng tiết kiệm và từ đó có thể mở rộng đầu tư, thúc đẩy kinh tế
phát triển.
Như vậy ta thấy chi NSNN cho lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng đối với sự phát triển, nó khơng chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển
mà còn khuyến khích, định lượng sự phát triển tác động vào việc tạo ra cơ
cấu kinh tế hợp lý.
Một trong những mục tiêu của chính sách Ngân sách là thực hiện
cơng bằng xã hội. Ta thấy chính sách thu có những tác động nhất định đến
việc thực hiện mục tiêu đó nhưng những hạn chế của chính sách thu cho thấy
rằng nếu nguồn Ngân sách nhằm thực hiện việc phân phối lại thì phải nhấn
mạnh chính sách chi. Cơ chế thị trường tạo ra sự phân hố lớn giữa những
người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp trong xã hội. Để làm
giảm khoảng cách đó, Nhà nước sử dụng hình thức trợ cấp từ NSNN. Các

khoản trợ cấp đó có ý nghĩa lớn đối với các tầng lớp có thu nhập thấp, chúng
làm tăng đáng kể thu nhập của họ. Trong những trường hợp đặc biệt, trợ cấp
từ Ngân sách là nguồn thu nhập chính của một bộ phận dân cư. Các khoản
trợ cấp cho giáo dục cơ sở, trợ cấp cho y tế có ý nghĩa lớn đối với việc nâng
cao dân trí và bảo đảm sức khoẻ cho dân cư. Tất nhiên không phải tất cả các
khoản chi đều nhằm vào mục tiêu thực hiện công bằng xã hội vì đó khơng
phải là mục tiêu duy nhất của chính sách Ngân sách. Để tăng cường tác động

14


của chính sách chi đối với việc giảm bớt bất công trong phân phối thu nhập
phải lưu ý đặc biệt đến cơ cấu chi, tránh chi dàn trải, có tính chất bình qn.
Chi văn hố xã hội bao gồm các khoản chi của Ngân sách cho các nhu
cầu của xã hội về đào tạo, giáo dục, y tế, sức khoẻ, phúc lợi xã hội và trợ cấp
xã hội. Quy mô chi của Ngân sách của lĩnh vực này phụ thuộc vào khả năng
của Ngân sách và của chính sách xã hội. Chi văn hoá xã hội là khoản chi cần
thiết khơng thể thiếu đối với xã hội vì nó liên quan trực tiếp đến việc nâng
cao dân trí và đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân. tất cả các nước đều ý thức
được tầm quan trọng của vấn đề này nên đã và đang dành một bộ phận chi
đáng kể cho lĩnh vực văn hoá xã hội, đặc biệt là chi cho giáo dục. Chi văn
hố xã hội cịn là phương tiện để Nhà nước thực hiện quá trình phân phối lại
thu nhập nhằm mục tiêu công bằng xã hội. Các khoản trợ cấp cho giáo dục
phổ thông, cho các chương trình dinh dưỡng, trợ cấp xã hội là những khoản
chi có vai trị đặc biệt trong việc chuyển giao thu nhập cho tầng lớp nhân dân
có thu nhập thấp.
Chi quản lý hành chính là khoản chi khơng liên quan trực tiếp đến sản
xuất nhưng rất cần thiết cho xã hội. Nó đảm bảo kinh phí hoạt động cho các
cơ quan hành chính và các cơ quan chính quyền Nhà nước. Chi quản lý hành
chính bao gồm các khoản chi về lương, phụ cấp cho các viên chức Nhà nước,

chi mua sắm, bảo dưỡng trang thiết bị, đồ dùng làm việc, chi phí văn phịng,
chi phí nghiệp vụ, trong đó chi mua sắm, bảo dưỡng trang thiết bị và chi
lương là các khoản chi chủ yếu. Chi Ngân sách cho quản lý chiếm một tỷ
trọng không nhỏ trong tổng chi Ngân sách song thường vẫn không đáp ứng
nhu cầu chi do bộ máy quản lý hành chính thường rất cồng kềnh, kém hiệu
quả, lương của viên chức Nhà nước thường bị khống chế ở mức thấp nên
khó duy trì và khó thu hút được tầng lớp các nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật
giỏi để đảm bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Chi quốc phòng bao gồm chi đầu tư xây dựng các cơng trình quốc
phịng, chi mua sắm, bảo dưỡng các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động quốc phòng, chi trang bị cho qn đội, chi lương, chi ni qn và các
chi phí khác. Chi quốc phòng lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào tình hình chính trị
và an ninh quốc phịng của mỗi nước trong từng thời kỳ. Chi quốc phòng
thường được gọi là tiêu dùng đặc biệt và nó thường là gánh nặng của Ngân
sách.

15


Tuy nhiên chỉ nên duy trì một mức chi cần thiết vì nếu chi cho quốc
phịng q cao thì các khoản chi khác sẽ bị ảnh hưởng.
Tóm lại, hoạt động thu và chi của NSNN có vai trị điều tiết vĩ mô hết
sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Các hoạt động này có thể khuyến
khích, thúc đẩy nhưng cũng có thể kìm hãm sự phát triển của quốc gia đó. Vì
vậy mỗi quốc gia phải hết sức thận trọng trong việc quản lý nguồn NSNN
của quốc gia mình.

PHẦN II:
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRỊ ĐIỀU TIẾT
VĨ MƠ NỀN KINH TẾ CỦA NSNN VIỆT NAM.

I. Tổ chức hệ thống ngân sách và phân cấp ngân sách ở Việt Nam:
Hệ thống NSNN Việt Nam được tổ chức thành bốn cấp là Ngân sách
Trung ương; Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Ngân sách
huyện; Ngân sách xã.
Việt Nam trong giai đoạn bắt đầu hình thành hệ thống Ngân sách (giai
đoạn 1967- 1983) đã thực hiện chế độ phân cấp Ngân sánước. Tuy nhiên khi
chiến tranh kết thúc thì nó có nhược điểm là các cấp Ngân sách khch với nội
dung quản lý chặt chẽ từng cấp Ngân sách theo hướng tập trung chủ yếu vào
Ngân sách Trung ương với mục đích thực hiện tập trung mọi nguồn lực của
quốc gia vào việc thống nhất đất ơng có sự sáng tạo, thụ động, phụ thuộc vào
Ngân sách Trung ương và vì vậy nên khơng khai thác triệt để các cấp Ngân
sách.
Giai đoạn 1983- 1989, chế độ phân cấp Ngân sách thực hiện theo nội
dung quy định rõ khoản thu chi nào do Trung ương thực hiện, khoản nào do
địa phương thực hiện. Với việc phân cấp như vậy, chúng ta đã bắt đầu khơi
dậy tính chủ động, sáng tạo của từng cấp Ngân sách. Tuy nhiên trong quá
trình thực hiện ở giai đoạn này thì vẫn cịn nhược điểm là chưa tạo ra sự cân
đối giữa các cấp Ngân sách cùng cấp.
16


Giai đoạn từ năm 1989 đến nay chúng ta quản lý phân cấp theo hướng
đảm bảo tập trung dân chủ, đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính và xác
định rõ trách nhiệm của từng cấp trong quản lý tài chính. Cụ thể:
- Chi Ngân sách: căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cấp Ngân
sách mà hệ thống Ngân sách được phân cấp: NSTW thực hiện các khoản chi
liên quan đến quốc phòng, ngoại giao, chi bộ máy quản lý Nhà nước nói
chung và chi trả nợ Chính phủ. Cịn Ngân sách địa phương thực hiện các
khoản chi nhằm xây dựng các cơng trình kinh tế, văn hoá, xã hội của địa
phương và chi các khoản cho bộ máy quản lý địa phương.

- Về thu Ngân sách: quy định rõ các khoản thu cố định và thu điều tiết
cho từng cấp Ngân sách địa phương. Trong đó thu cố định là khoản thu mà
Ngân sách địa phương được giữ lại 100% như thu từ việc trồng rừng, học
phí, viện phí từ trường học, bệnh viện địa phương, thu từ sổ xố… Thu điều
tiết là khoản thu tuỳ theo tỷ lệ điều tiết của từng địa phương mà địa phương
đó được giữ lại một phần nhất định. Thu điều tiết bao gồm thu từ doanh
nghiệp Nhà nước nằm trên địa bàn (thu khấu hao cơ bản, thanh lý tài sản) thu
từ các đơn vị hạch toán kinh tế độc lập toàn ngành (bưu điện, ngân hàng, bảo
hiểm, giao thơng…) thu từ thuế, lệ phí từ các đơn vị kinh doanh trên địa bàn,
trừ thuế môn bài và thuế trước bạ.
Cơng khai tài chính là một biện pháp khơng thể thiếu của hoạt động
NSNN nhằm tạo điều kiện cho việc kiểm tra giám sát của các cơ quan đoàn
thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong phân bổ và sử dụng NSNN các cấp,
góp phần thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí, phát hiện và ngăn
ngừa kịp thời các hành vi vi phạm chế độ quản lý tài chính. Để thực hiện
việc này, thời gian qua chúng ta đã từng bước thực hiện quy chế công khai
công tác quản lý NSNN các cấp một cách rộng khắp.
Cho đến năm 2001, sau ba năm thực hiện, nhìn chung quy chế đã được
thực hiện một cách nghiêm túc theo đúng các quy định của quy chế và các
thơng tư hướng dẫn của Bộ tài chính, bước đầu đã phát huy tác dụng và được
các tầng lớp nhân dân ủng hộ, các tổ chức quốc tế và các nhà tài trợ đánh giá
cao.
II. Thu, chi ngân sách và vai trị điều tiết vĩ mơ của NSNN Việt Nam:
1. Tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam 1990- 2000:

17


Trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, do khối Đơng
Âu sụp đổ nên tình hình kinh tế xã hội nước ta rất khó khăn, nền kinh tế sau

chiến tranh chưa phục hồi, các nguồn viện trợ bị cắt giảm, hoạt động xuất
nhập khẩu và giao lưu quốc tế khơng có do bị Mĩ cấm vận. Đây là thời kỳ
hết sức khó khăn của nước ta, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ có 5,1%. Trong
những năm tiếp theo do sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta dần khôi phục và đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Đặc biệt là từ năm 1994, Mĩ xoá bỏ lệnh
cấm vận với nước ta nên chúng ta ngày càng mở rộng quan hệ quốc tế, hoạt
động xuất nhập khẩu ngày càng tăng, sản xuất trong nước phát triển hơn.
Hàng năm chúng ta thực hiện xuất khẩu các mặt hàng như thuỷ hải sản, may
mặc, giày dép… đặc biệt nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ
3 trên thế giới. Hoạt động sản xuất kinh doanh rất phát triển, sản xuất hàng
hoá đa dạng về chủng loại cũng như mẫu mã, nhiều loại hình dịch vụ mới
được cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của dân cư trong nước.
Nhiều loại hình doanh nghiệp mới ra đời trong đó ngồi loại hình doanh
nghiệp Nhà nước ra cịn có doanh nghiệp tư nhân và liên doanh với nước
ngoài làm cho nền kinh tế phát triển và dần ổn định.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 1990-2000
Năm
GDP
(%)

90

91

92

93

94


95

96

97

98

99

2000

5,1

6,0

8,6

8,1

8,8

9,5

9,3

8,2

5,8


4,8

6,7

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, tốc độ đô thị hoá ngày càng tăng, cơ
sở hạ tầng được ưu tiên phát triển, tập trung xây dựng các ngành công nghiệp
mũi nhọn, tiến hành CNH-HĐH. Các trường học, bệnh viện, các cơng trình
văn hố dần dần được xây dựng.
Tuy đạt được nhiều thành tựu như vậy nhưng nước ta vẫn cịn nghèo
và chậm phát triển so với thế giới. Vì vậy trong những năm tiếp theo chúng
ta cần tiếp tục có những định hướng đúng đắn để tiếp tục phát triển, đuổi kịp
sự phát triển của thế giới.
2. Thu NSNN:
Theo luật Ngân sách các khoản thu trong dự toán Ngân sách phải được
xác định trên cơ sở tăng trưởng kinh tế và các quy định của pháp luật về thu
Ngân sách.Trong giai đoạn 1991-2000, hoạt động của NSNN có nhiều
chuyển biến tích cực. Thu Ngân sách tăng từ 13,1% mức huy động trong
18


GDP vào năm 1991 lên 23,3% vào năm 1995. Từ năm 1996 đến 2000 thu
trong nước tăng nhanh, chiếm khoảng 97% tổng thu NSNN. Tổng thu từ
thuế, phí và lệ phí chiếm trên 90% tổng thu Ngân sách, trong đó khu vực
cơng nghiệp và dịch vụ có tỷ trọng GDP tập trung vào NSNN cao nhất và
ngày càng tăng (tỷ lệ động viên GDP của khu vực công nghiệp vào Ngân
sách là 30%, dịch vụ khoảng 33% tổng thu Ngân sách).
Riêng năm 2001, tổng thu NSNN vượt 13% dự toán được Quốc hội
phê chuẩn (tăng 7,4% so với thực hiện năm 2000) đạt khoảng 19,9% GDP,
cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong đó:
- Thu từ DNNN vượt 12,4%.

- Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi vượt 13,4%.
- 100% tỉnh, thành phố đều đạt và vượt dự tốn được giao.
- 37 địa phương có mức tăng trưởng nguồn thu cao hơn so với năm
2000, trong đó có 12 tỉnh, thành phố tăng trên 10%, đặc biệt là thành phố
HCM có số thu lớn nhất, đạt mức tăng 11,7%.
Theo Bộ tài chính, tổng thu NSNN hai tháng đầu năm 2002 ước đạt
được 15,7% dự toán cả năm, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó
thu từ khu vực kinh tế Nhà nước đạt 15,1% dự toán cả năm (tăng 32,8%) thu
từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 17,7% dự toán cả năm (tăng 40,8%)
Tổng thu Ngân sách Nhà nước
Đơn vị: Tỷ đồng.
Quyết toán
Dự toán
1997
1998
1999
2001
Tổng thu
NSNN

65352

72965

78489

86275

Như chúng ta đã biết nguồn thu chủ yếu của NSNN là thuế (chiếm
khoảng 90%) nên thuế có vai trị rất quan trọng. Chuyển từ nền kinh tế kế

hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, kể từ năm 1986, nhà nước đã xúc tiến ngay việc cải cách hệ thống
chính sách thuế, mở đầu bằng việc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu vào năm 1987. Sau một thời gian tích cực nghiên cứu soạn thảo, từ năm
1990, Quốc hội đã ban hành một loạt các sắc thuế mới như thuế doanh thu,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế tài nguyên, thuế thu nhập cá nhân.
Năm 1991, Quốc hội ban hành luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu mới, năm
19


1992 ban hành Pháp lệnh thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, năm
1994 ban hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Việc ban hành một hệ
thống các sắc thuế trong bối cảnh tình hình và thời gian như nói trên thuộc
phạm trù cải cách thuế bước I. Có thể nói đặc trưng cơ bản của cải cách thuế
bước I này là đã chuyển từ cơ chế không phải là thuế sang cơ chế thuế là chủ
yếu trong điều kiện chưa có ngay một cơ chế thị trường như mong đợi. Đặc
trưng đó được thể hiện trước hết là ở trong nội dung của hệ thống chính sách
thuế vẫn còn phải kế thừa những quy định trước đây về mức động viên, về
cơ cấu các thuế suất, về cách tính thuế… Chẳng hạn như thuế doanh thu, lúc
đầu có 30 thuế suất từ 0,5% đến 40%, đến tháng 7/1993 thì điều chỉnh xuống
cịn 17 thuế suất và đến năm 1995 thì điều chỉnh xuống cịn 11 thuế suất.
Thuế lợi tức vẫn còn phân biệt theo ngành nghề kinh doanh: thuế suất đối
với công nghiệp nặng, vận tải, xây dựng là 30%; công nghiệp nhẹ, công
nghiệp thực phẩm là 40%; thương nghiệp và dịch vụ là 50% (đến tháng
7/1993 thì điều chỉnh xuống cịn 25%, 35%, 45%). Tuy nhiên hệ thống thuế
chính sách thuế này có điểm khác trước là nó được áp dụng chung cho các
thành phần kinh tế và hình thức thu mang tính chất ép buộc, cưỡng chế nhiều
hơn. Chính điều này đã làm cho cơng cụ thuế có hiệu lực và hiệu quả hơn
trong việc thực hiện chức năng của mình, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và tăng thu cho NSNN.

Cải cách thuế bước I sau 5 năm thực hiện (1991-1995) đã mang lại kết
quả cả về tăng thu Ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Số thu về thuế
đã bắt đầu trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN, bù đắp kịp thời và có
hiệu quả các nguồn cắt giảm chi viện từ bên ngoài trong những năm đầu thập
kỷ 90. Tốc độ tăng thu luôn lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tác
động của thuế lúc này là rất tích cực: kinh tế xã hội vẫn tiếp tục tăng trưởng
và phát triển, lạm phát được kiểm soát và đẩy lùi, đời sống nhân dân được
cải thiện hơn trước rõ rệt. Số thu thuế năm 1995 tăng hơn 5 lần so với số thu
thuế năm 1991 là một thành công hết sức lớn trong cải cách thuế bước I.
Tại đại hội lần thứ VIII (1996) trên cơ sở đánh giá kết quả công cuộc
đổi mới đã đạt được đến năm 1995, Đảng ta dẫ quyết định đưa nền kinh tế
đất nước sang một thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập
kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Những tiền đề kinh tế xã
hội đã đặt ra những yêu cầu khách quan tiến tới cải cách hệ thống thuế bước
II. Việc cải cách thuế bước II là nhằm tiếp tục hồn thiện hệ thống chính
20


sách thuế, làm cho hệ thống chính sách thuế phù hợp với nền kinh tế thị
trường đang từng bước hình thành trên thực tế. Theo yêu cầu đó, Đảng và
Nhà nước ta đã quyết định tiếp tục cải cách thuế bước II từ năm 1996, bắt
đầu bằng việc trình quốc hội ban hành hai Luật thuế mới là Thuế giá trị gia
tăng (thay cho Luật thuế doanh thu) và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
(thay cho Luật thuế lợi tức). Hai luật thuế mới này có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/1999. Tiếp theo đó Quốc hội đã đề ra chương trình xây dựng pháp
luật trong nhiệm kỳ khố X là tiếp tục hoàn thiện Luật thuế giá trị gia tăng và
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới
và nhiệm vụ mới; nghiên cứu ban hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
và Pháp lệnh thuế nhà đất; nghiên cứu ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân
để thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Tiếp

tục hoàn thiện một cách đồng bộ các Luật thuế như Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Pháp lệnh thuế tài nguyên, Luật
thuế chuyển quyền sử dụng đất, nghiên cứu ban hành Luật thuế tài sản.
Với việc ban hành và triển khai thực hiện hai Luật thuế mới là thuế giá
trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, cho đến năm 2001, việc triển khai
thực hiện hệ thống chính sách thuế trong cải cách bước II tiếp tục đạt dược
những kết quả tích cực. Số thu NSNN từ thuế, phí và lệ phí tiếp tục tăng qua
các năm và chiếm phần chủ yếu trong NSNN. Số thu thuế năm 2000 bằng 10
lần số thu năm 1990; số thu thuế năm 2001 tăng hơn 10% so với năm 2000.
Giá cả thị trường tiếp tục ổn định, kinh tế có bước tăng trưởng khá, đời sống
người dân trong nước được nâng cao hơn trước, thiên tai xảy ra cũng được
khắc phục kịp thời và có hiệu quả, tình hình quốc phịng an ninh ln được
ổn định.
Với việc ban hành các chính sách thuế trong những năm qua đã làm
tăng nguồn thu rất đáng kể cho NSNN. Ngồi ra các chính sách thuế cịn có
vai trị trong việc làm tăng tính cơng bằng trong xã hội thông qua việc phân
phối lại thu nhập, làm giảm bớt khoảng cách giữa những người có thu nhập
cao với những người có thu nhập thấp (như việc ban hành thuế thu nhập cá
nhân) hay việc tăng thuế suất đối với những hàng hoá cao cấp, xa xỉ. Đồng
thời các chính sách thuế cũng là một cơng cụ để bảo hộ sản xuất trong nước
thông qua việc tăng thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu mà có hại đến sức
khoẻ hay những mặt hàng có thể sản xuất trong nước như thuốc lá, rượu
ngoại, xe máy… hay đánh thuế tiêu thụ đặc biệt vào một số mặt hàng. Mặt
21


khác thuế cũng khuyến khích xuất khẩu thơng qua việc miễn hoặc giảm thuế
cho một số mặt hàng xuất khẩu hay khuyến khích đầu tư phát triển bằng cách
có thể giảm thuế cho một số doanh nghiệp để tăng nguồn vốn đầu tư. Có thể
nói nguồn thu Ngân sách này có vai trị rất lớn khơng những đối với NSNN

mà còn đối với mọi hoạt động kinh tế xã hội. Vì vậy chúng ta phải tính tốn
và ra những quyết định phù hợp thì mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát
triển vững mạnh lâu dài.
Một nguồn thu khác của NSNN là vay trong nước thông qua việc phát
hành trái phiếu. Nguồn thu này ngồi vai trị là một nguồn thu của Ngân
sách, nó cịn tác động đến việc ổn định lưu thơng tiền tệ và kiểm sốt lạm
phát. Khi Ngân sách bị thâm hụt, Chính phủ phát hành trái phiếu để vay tiền
của dân. Trong một chừng mực nhất định thì việc phát hành trái phiếu này đã
làm giảm lượng tiền trong tay công chúng dẫn đến giảm sút tương đối của
lượng tín dụng, giảm lượng tiền trong lưu thông, tỷ lệ lạm phát giảm và như
vậy là Chính phủ đã kiểm sốt được phần nào hoạt động tín dụng và lưu
thơng tiền tệ. Trong thời gian qua Chính phủ cũng đã phát hành các đợt trái
phiếu như việc phát hành trái phiếu kho bạc loại kỳ hạn 1 năm, lãi suất
21%/năm được áp dụng vào 01/04/1995 trên địa bàn 53 tỉnh và thành phố
trên cả nước, khoản thu về đợt phát hành trái phiếu này được tập trung về
NSTW; phát hành 50 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ theo phương thức bảo
lãnh vào ngày 24/10/2001; phát hành 16 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ đợt
I/2002 loại kỳ hạn 5 năm, lãi suất 7,4% vào ngày 24/01/2002; phát hành trái
phiếu đợt III/2002, khối lượng trái phiếu trị giá 200 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm
vào ngày 25/03/2002.
3. Chi Ngân sách:
Chi Ngân sách trong dự toán Ngân sách hàng năm phải được xác định
trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mục tiêu quản lý Nhà nước và
đảm bảo an ninh quốc phịng.
Theo Bộ tài chính, tổng chi hai tháng đầu năm 2002 ước đạt 13,7%
dự toán cả năm, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chi cho đầu tư
phát triển đạt 14,8% dự toán cả năm (tăng 36,9%). Bội chi hai tháng là 6,9%
dự toán bội chi cả năm, đã được Quốc hội cho phép và bù đắp bằng nguồn
vay trong nước.


22


Chi cho đầu tư phát triển thường chiếm phần lớn trong các khoản chi
của Ngân sách. Chi đầu tư phát triển của năm 1998 tăng 8,8% so với năm
1997, trong đó đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm một phần rất lớn, đặc biệt là trong
những năm gần đây. Năm 1992 là 48,7%; năm 1993 là 44,6%; năm 1997
tăng vọt lên 96,6%; năm 1998 là 97%; bình quân trong giai đoạn 1996- 2000
chiếm 91% trong tổng chi xây dựng cơ bản của Ngân sách.
Nguồn tài trợ chính cho chi tiêu y tế từ NSNN chưa lớn, chỉ chiếm
20% tổng số chi trả, cịn lại 80% do các hộ gia đình tự chi trả. Giai đoạn
1991- 1998, chi tiêu công cộng từ NSNN cho chữa bệnh chiếm 66%- 74%,
trong khi chi cho phòng bệnh chỉ chiếm từ 11%- 19%. Hiện nay chi cho y tế
được phân bổ chủ yếu theo số giường bệnh (đối với các cơ sở chữa bệnh do
các bộ ngành quản lý) và theo số dân của từng địa phương (đối với chi cho
phòng bệnh và chữa bệnh của các địa phương). Nhìn chung định suất chi cho
chữa bệnh là 21750đ/người/năm và cho phòng bệnh là 7800đ/người/năm.
Chi cho giáo dục đào tạo tăng từ 10,4% vào năm 1996 lên 15% vào
năm 2000, đảm bảo 98% số xã trong cả nước có trường tiểu học, trên 90%
người lớn biết chữ, tiến tới xoá hẳn nạn mù chữ trong cả nước.
Ngồi ra Chính phủ cịn thực hiện chi cho các chương trình mục tiêu
quốc gia về xố đói giảm nghèo. Trong hai năm 1999- 2000, Chính phủ đã
chi 3000 tỷ đồng để thực hiện chương trình này và kết quả là đã giảm tỷ lệ
hộ đói nghèo xuống cịn 11%.
Trong những năm gần đây do tình hình thời tiết có nhiều biến động,
xảy ra nhiều thiên tai nên Ngân sách phải thực hiện các khoản chi để trợ cấp
cho các vùng và các gia đình bị thiệt hại như vào tháng 10/ 2000 tỉnh Bình
Định trợ cấp cho những gia đình có người chết do đợt mưa lũ với mức 1 triệu
đồng/ người, các gia đình bị lũ cuốn trơi lương thực thực phẩm được hỗ trợ 3
tháng lương thực, mỗi nhân khẩu nhận 10 kg/ tháng; Đà Nẵng thực hiện cứu

trợ đột xuất các gia đình bị thiên tai trong năm 2000 là 2 triệu đồng/ người
đối với gia đình có người chết, mất tích, đối với nhà ở bị sụt lở, hư hỏng
nặng là 500000 đến 1 triệu đồng/ nhà…
Như vậy ta có thể thấy Nhà nước hàng năm phải thực hiện rất nhiều
các khoản chi tiêu. Các khoản chi này chủ yếu nhằm vào các mục tiêu về
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phịng. Nhờ có các khoản chi này mà làm cho
không những các vấn đề về kinh tế, xã hội được ổn định và phát triển mà còn
23


làm cho đời sống nhân dân được quan tâm và cải thiện rất nhiều, làm tăng
lòng tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Tuy
nhiên do có rất nhiều khoản chi nên tình trạng bội chi đã và đang là tình
trạng phổ biến và khá nan giải cho NSNN. Vì vậy chúng ta cần phải có
những giải pháp để có thể cân đối thu chi NSNN.
4. Những hạn chế và nguyên nhân:
Mặc dù việc thực hiện hoạt động Ngân sách trong những năm qua ở
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu song nó vẫn còn tồn tại một số hạn chế
như sau:
Thu Ngân sách chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình
trạng thất thu cịn lớn, nhiều lĩnh vực cịn tiềm năng thu nhưng chưa có cơ
chế có hiệu lực để khai thác tăng thu. Ngồi các khoản thu khơng tăng theo
tốc độ tăng trưởng kinh tế như thuế môn bài, thuế nhà đất, phí giao thơng,
thuế sử dụng đất nơng nghiệp… thì một bộ phận đáng kể các khoản thu có
mức tăng thấp xa so với tốc độ tăng GDP, nhất là thu từ khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi (giá trị sản
xuất cơng nghiệp ngồi quốc doanh năm 1999 tăng 8,8% so với năm1998
nhưng thu ngân sách trong khu vực này chỉ tăng 0,76% so với số thực hiện
năm 1998. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước
ngồi năm 1999 tăng 19% nhưng thu Ngân sách lại giảm 8,6% so với số

thực hiện năm 1998). Ngồi ra tình trạng bn lậu, gian lận thương mại, trốn
thuế diễn ra dưới nhiều hình thức, hàng nhập lậu, hàng trốn thuế với giá cả
thấp nhất (như thuốc lá, rượu, xe đạp, xe máy, đồ điện tử, quần áo may
sẵn...) không chỉ làm thất thu NSNN mà cịn gây ra khó khăn rất lớn đối với
sản xuất trong nước. Mặt khác công tác quản lý các nguồn thu chưa chặt chẽ
nên nhiều khoản thu lớn phát sinh ngồi dự tốn. Tình trạng trốn lậu thuế,
thu để ngoài ngân sách xảy ra ở nhiều đơn vị với số lượng lớn, tình trạng nợ
đọng tiền thuế trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước cịn nhiều, có những
khoản nợ đọng kéo dài qua nhiều năm. Nguyên nhân của tình trạng này là do
việc quản lý về thu Ngân sách cũng như quản lý về thuế, hải quan còn nhiều
sơ hở, khơng chặt chẽ và cịn tồn tại nhiều tiêu cực.
Đối với việc thực hiện miễn giảm thuế thì chưa có sự nhất qn về các
chính sách trong hệ thống pháp luật, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành
mở rộng hơn diện ưu đãi và thời hạn ưu đãi so với các văn bản pháp luật về
thuế, hệ thống chính sách thuế cịn chứa nhiều yếu tố của chính sách xã hội
24


nên chưa bao quát được hết diện và đối tượng thu. Một số văn bản pháp luật
như Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài đã quy định thời gian miễn giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp quá với khung quy định của Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp; Luật khoa học công nghệ đã mở rộng thêm diện miễn thuế so
với quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp…Nguyên nhân của tình
trạng này là do chưa có sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ với nhau khi ban
hành các văn bản luật.
Một hạn chế có thể nói là khá phổ biến ở nước ta đó là tình trạng lãng
phí, làm việc không tiết kiệm và chưa hiệu quả. Cụ thể và rõ nét nhất là tình
trạng sử dụng lãng phí, thất thốt vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nhiều cơng
trình vừa thi cơng, vừa điều chỉnh dự tốn, đưa vào những khoản chi khơng
đúng chế độ, tình trạng chi quản lý hành chính Nhà nước vượt dự tốn lớn

diễn ra trong nhiều năm qua (năm 1996 vượt 38,6%; năm 1997 vượt 39,7%;
năm 1998 vượt 31,7%; năm 1999 vượt 40,6%). Sở dĩ tình trạng lãng phí này
xảy ra là do ảnh hưởng một phần của cơ chế bao cấp cũ, thiếu tác phong
cơng nghiệp trong q trình làm việc và do tư tưởng tư lợi cá nhân làm cho
mọi người nghĩ về lợi ích cá nhân mình hơn là lợi ích chung.
Hệ thống Ngân sách hiện nay quy định là 4 cấp nhưng quản lý phân
tán, chưa phản ánh được đặc điểm của từng loại đơn vị hành chính, nhất là
các đơ thị. Hiện nay nước ta có 61 đơn vị Ngân sách cấp tỉnh; 623 đơn vị
Ngân sách cấp huyện và 10511 đơn vị Ngân sách cấp xã. Theo quy định của
luật NSNN thì hệ thống NSNN bao gồm NSTW và Ngân sách các cấp chính
quyền địa phương phù hợp với hệ thống tổ chức hành chính nhà nước 4 cấp
nhưng do có nhiều đầu mối, tầng, nấc dẫn đến thời gian, quy trình lập dự
tốn NSNN bị kéo dài, qua nhiều bước tổ chức trung gian, tổ chức bộ máy
quản lý Ngân sách cồng kềnh, chất lượng dự toán Ngân sách thấp, hiệu lực
quản lý Ngân sách chưa cao.
Thẩm quyền quyết định dự toán, xét duyệt và phê chuẩn quyết tốn
của Quốc hội và HĐND các cấp cịn trùng lắp. Theo luật NSNN hiện hành,
Quốc hội quyết định dự toán Ngân sách, phân bổ NSNN theo từng loại thu,
từng lĩnh vực chi; UBTVQH quyết định phương án phân bổ NSTW cho từng
bộ, cơ quan Trung ương và mức bổ sung từ NSTW cho Ngân sách từng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ tướng chính phủ quyết định giao dự
toán thu, chi Ngân sách cho từng bộ, cơ quan Trung ương và cho từng tỉnh,
thành phố. Trên cơ sở dự tốn đã được Thủ tướng chính phủ hoặc UBND
25


×