Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trồng rừng từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.26 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI XUÂN HIẾU

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT TRỒNG RỪNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI XUÂN HIẾU

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT TRỒNG RỪNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 838.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN

Hà Nội, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Học viên

Mai Xuân Hiếu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ...............................................8
1.1. Lý luận về tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng ..........................................8
1.2. Lý luận giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng ............................18
1.3. Lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng ........29
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRỒNG RỪNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH QUẢNG NAM ...............................................38
2.1. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng .....38
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng
rừng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam ..........................................................54
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRỒNG RỪNG VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THI HÀNHTỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM ..............................................................................................69
3.1. Về phương diện lập pháp ...................................................................................69
3.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện thông qua tòa án nhân dân để nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng. .........................................72
3.3. Về phương diện hướng dẫn thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai nói
chung và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng nói riêng ........................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được trong sản
xuất nông, lâm nghiệp, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế,
văn hóa - xã hội; an ninh, quốc phòng; là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống. Trong nền kinh tế thị trường, đất đai còn là nguồn vốn, nguồn lực to
lớn để phát triển đất nước v.v. Ngay từ xa xưa, con người đã nhận thức được tầm
quan trọng của đất đai. Nó là điều kiện vật chất không thể thiếu được cho sự tồn tại
của con người. Chính vì tầm quan trọng ấy mà trong văn học thần thoại, đất đai
được ví như người mẹ - Mẹ đất. Như một lẽ tự nhiên, cái gì càng có giá trị thì con
người càng muốn được sở hữu, chiếm giữ. Dân số ngày càng tăng; trong khi vốn đất
đai lại có hạn (Đất đai không do con người tạo ra mà do tự nhiên tạo ra, có trước
con người; cố định về vị trí địa lý, bị giới hạn bởi không gian, diện tích). Sự mâu
thuẫn này tiền ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp do ai cũng muốn chiếm giữ và sử
dụng đất (SDĐ) đai. Trong nền kinh tế (KT) thị trường, khi Nhà nước thay đổi cơ
chế quản lý đất đai và trả lại đất đai những giá trị ban đầu vốn có thì đất đai ngày
càng trở nên có giá. Đây là một trong những nguyên nhân khách quan khiến tranh
chấp đất đai không chỉ gia tăng về số lượng mà còn gia tăng về tính phức tạp, gay
gắt về nội dung. Tranh chấp đất đai phát sinh không chỉ phá vỡ sự gắn kết giữa các

thành viên trong gia đình, mối quan hệ đoàn kết trong nội bộ nhân dân mà còn tiềm
ẩn trở thành « điểm nóng » có nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Chính vì
vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật và dứt
điểm có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là giải quyết tranh chấp đất
đai theo phương thức nào và cơ chế thực hiện cụ thể ra sao lại không hề đơn giản.
Để tránh tình trạng tự giải quyết tranh chấp đất đai bằng các biện pháp bạo lực, sử
dụng « luật rừng » giữa các bên đương sự ; các quốc gia trên thế giới đã thiết lập
một cơ quan tài phán độc lập là Tòa án với chức năng làm trọng tài, giải quyết bất
đồng, mâu thuẫn trong xã hội. Hệ thống cơ quan tài phán này là một nhánh quyền
lực độc lập với các cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp nhằm đảm bảo tính độc
lập, đưa ra phán quyết công bằng, khách quan và vô tư. Với việc ra đời mô hình cơ
quan tài phán độc lập giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp đất đai nói
riêng đã chứng tỏ bước phát triển của nhân loại trong việc giải quyết hòa bình, văn
minh những bất đồng, mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội và đem lại niềm tin cho
nhân dân vào công lý, sự nghiêm minh của pháp luật. Tiếp thu sự tiến bộ của văn

1


minh nhân loại, ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được thành lập với chức năng
phán quyết, xét xử các tranh chấp nói chung và tranh chấp về đất đai nói riêng. Giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân không phải là vấn đề mới. Thời
gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này ở phạm vi và
mức độ khác nhau được công bố. Dẫu vậy, các công trình khoa học được công bố
chủ yếu nghiên cứu về khía cạnh lý luận và thực tiễn việc giải quyết tranh chấp đất
đai của Tòa án nhân dân. Xét dưới góc độ luật học, việc nghiên cứu một cách hệ
thống, đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu vấn đề giải quyết tranh chấp về quyền sử
dụng đất trồng rừng tham chiếu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh
Quảng Nam thì dường như còn ít các công trình như vậy. Hơn nữa, qua tổng kết
thực tiễn xét xử cho thấy chất lượng và hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp đất

đai nói chung và giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trồng rừng nói riêng
của ngành Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam vẫn chưa đáp ứng sự kỳ vọng của
xã hội. Số lượng các phán quyết, bản án của tòa án cấp dưới bị tòa án cấp trên hủy
bỏ, yêu cầu xét xử lại chiếm tỷ lệ không nhỏ. Điều này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục
nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện trên phương diện lý luận và thực tiễndưới
góc độ luật học về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng của Tòa án
nhân dân tại tỉnh Quảng Nam để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả của hoạt động này. Đặc biệt trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai
năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2017 được ban hành với nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến vị trí, vai
trò của Tòa án nhân dân nói chung và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
cơ quan này nói riêng.Với lý do đó, học viên lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp
về quyền sử dụng đất trồng rừng từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh
Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai luôn là vấn đề "nóng" thu
hút được sự quan tâm đặc biệt của người dân, các nhà quản lý và dư luận xã hội.
Trong khoa học pháp lý, tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa
án nhân dân nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, bằng chứng là vấn
đề này đã được tìm hiểu, nghiên cứu trong các công trình khoa học ở những cấp độ
khác nhau, từ khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, sách chuyên khảo hay các bài viết đăng tải trên các tạp chí
nghiên cứu pháp luật có uy tín...Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2


mang tính gợi mở có thể kể đến:
i) Nguyễn Minh Khoa (2007), “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Tòa án nhân dân theo khoản 1 Điều 136 Luật đất đai 2003” , Khóa luận tốt

nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội;
ii) Trịnh Thị Lệ Quyên (2012), “Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
của Tòa án nhân dân -thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội;
iii) Nguyễn Thị Thu Hà (2013), “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con
đường Tòa án ở Quận Hà Đông” , Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội;
iv) Hồ Xuân Hương (2004), "Giải quyết tranh chấp đất đai qua thực tiễn ở
Hà Nội", Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
v) Nguyễn Văn Luật (chủ nhiệm) (2002), “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân
dân”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Tòa án nhân dân Tối cao;
vi) Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao (2012), “Thực tiễn giải
quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền
sử dụng đất - những vướng mắc và kiến nghị”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ;
vii) Mai Thị Tú Oanh (2013), “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp
đất đai bằng Tòa án ở nước ta", Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội;
viii) Doãn Hồng Nhung (chủ biên) (2014), “Kỹ năng áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam” , Nxb Lao động, Hà Nội;
ix) Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng (2011) “Giao dịch về quyền sử
dụng đất vô hiệu, pháp luật và thực tiễn xét xử”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
x) Nguyễn Thị Dung (2004),“Về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
trong những quy định của Luật đất đai” , Tạp chí Luật học - Số chuyên đề về Luật
đất đai 2003, tháng 5;
xi) Nguyễn Quang Tuyến (2004), “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai của Tòa án”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14 - tháng 7;
xii) Lưu Quốc Thái (2006), “Hoàn thiện các quy định pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17;
xiii) Nguyễn Văn Thắng (2013), “Luật đất đai (sửa đổi) cần mở rộng thẩm
quyền của Tòa án nhân dân (TAND) trong giải quyết các tranh chấp về đất đai”,

Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21;

3


xiv) Văn phòng Quốc hội (2008), Các chuyên đề trình bày trong Hội thảo:
“Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: thực trạng và các giải pháp”
tổ chức tại Buôn Mê Thuột - Đắc Lắc, tháng 3;
xv) Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội v.v.
Các công trình khoa học trên đây nghiên cứu ở những khía cạnh, góc độ khác
nhau tạo nên một “bức tranh” tương đối đa dạng về vấn đề tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai nói chung cũng như giải quyết tranh chấp đất đai bằng con
đường Tòa án nhân dân nói riêng ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu vấn đề ở phạm vi
rộng, mang tính toàn diện có những công trình như công trình nghiên cứu khoa học
cấp Bộ của ngành Tòa án nhân dân (năm 2002, năm 2012) hay luận án tiến sĩ của
Mai Thị Tú Oanh (năm 2013); ở phạm vi hẹp tại một địa phương cụ thể có những
công trình như luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hà, Hồ Xuân Hương… Tuy
nhiên, tìm hiểu, đánh giá pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng
rừng từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam một cách có hệ
thống, đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn dựa trên sự tham chiếu với Hiến
pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014,
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì
dường như vẫn còn thiếu một công trình như vậy ở cấp độ thạc sĩ luật học. Trên cơ
sở tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan
đến đề tài đã công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu dưới góc độ pháp luật về giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại
tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đấttrồng rừng của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau đây:
- Tập hợp, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về giải
quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng
rừng thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nói riêng bằng việc phân tích

4


khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân nói riêng; luận giải tính ưu việt của giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất trồng rừng thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân v.v.
- Phân tích nội dung của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất trồng rừng thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân; đánh giá thực
trạng thực thi chế định pháp luật này từ thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân tại tỉnh Quảng Nam nhằm nhận diện những ưu điểm, hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân của hạn chế, tồn tại.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng từ thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm các nội dung cụ thể sau đây:
- Các quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân.

- Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về giải quyết các vụ án dân sự.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng
rừng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam.
- Quan điểm, đường lối của Đảng về vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong
Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam.
- Các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng
dẫn thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân v.v.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trồng rừng từ thực tiễn xét
xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam” có phạm vi nghiên cứu rộng. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ luật học, luận văn giới hạn
phạm vi nghiên cứu ở một số nội dung cụ thể sau:
- Giới hạn về nội dung: Nghiên cứu các quy định của Luật đất đai năm 2013
và các văn bản hướng dẫn thi hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai nói
chung và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng nói riêng của Tòa án
nhân dân; các quy định của một số đạo luật khác có liên quan như Bộ luật tố tụng

5


dân sự năm 2015, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 v.v.
- Giới hạn về thời gian: Luận văn giới hạn nghiên cứu pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai (trong đó có giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trồng
rừng) từ năm 2003 - nay.
- Giới hạn về phạm vi: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn thi
hành pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng từ hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn giải v.v.
được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tranh chấp
quyền sử dụng đất trồng rừng và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
ii) Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp lập luận lô gic
v.v được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân
tại tỉnh Quảng Nam.
iii) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp bình luận v.v
được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
trồng rừng thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn với đề tài “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trồng rừng
từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam”có những đóng góp
nhất định. Những đóng góp này bao gồm:
- Những kết quả nghiên cứu lý luận về tranh chấp quyền sử dụng đất trồng
rừng và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng thông qua hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân của luận văn góp phần bổ sung hệ thống cơ sở lý luận của
các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai; các quy định về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân.

6


- Những kết quả nghiên cứu về đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết

tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng và thực tiễn thi hành của Toàn án nhân dân
tại tỉnh Quảng Nam cũng như các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất trồng rừng và nâng cao hiệu quả thi hành tham chiếu từ
thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Nam là tài liệu tham khảo bổ
ích cho các cơ quan xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật đất đai.
- Luận văn còn là tài liệu có giá trị phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật đất đai ở các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, danh mục các từ viết tắt, mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phần phụ lục; luận văn được kết cấu thành ba chương, cụ thể như
sau:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận chung.
- Chương 2 . Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
trồng rừng và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân thành tại tỉnh Quảng Nam.
- Chương 3 . Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất trồng rừng và nâng cao hiệu quả thi hành tại Tòa án nhân dân tại tỉnh
Quảng Nam.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Lý luận về tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ở nước ta, do đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu đất đai bằng một trong những
phương thức là giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ của tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân (goi chung là người sử dụng đất (SDĐ). Như vậy, xét mặt lý luận, ở nước ta
không có tranh chấp đất đai mà chỉ tổn tại tranh chấp QSDĐ nói chung và tranh

chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng. Tuy nhiên, trong Luật đất đai năm 2013 sử dụng
thuật ngữ tranh chấp đất đai mà không sử dụng thuật ngữ tranh chấp QSDĐ. Do đó,
xét trong phạm vi luận văn này, khái niệm tranh chấp đất đai được hiểu đồng nghĩa
với khái niệm tranh chấp QSDĐ. Vậy tranh chấp đất đai là gì?.
Theo Từ điển Giải thích Thuật ngữ Luật học: Tranh chấp phát sinh giữa các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình
quản lý và sử dụng đất đai [36].
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội: Tranh chấp
đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ
giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai [34]
Theo Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: Tranh chấp đất đai là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai [22].
Trên thực tế, tranh chấp đất đai (TCĐĐ) được hiểu là sự tranh chấp về quyền
quản lý, quyền sử dụng trên một khu đất cụ thể. Các bên tranh chấp không thể cùng
nhau tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phân
xử. Cần làm rõ TCĐĐ ở nước ta chính là tranh chấp QSDĐ hay bao gồm cả tranh
chấp QSDĐ và các tranh chấp liên quan đến QSDĐ? Về nội dung này, trong khoa
học pháp lí hiện nay còn tồn tại hai quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, TCĐĐ chỉ là tranh chấp về QSDĐ. Theo đó,
TCĐĐ không xác định được là tranh chấp tổng thể các quyền và nghĩa vụ hay chỉ là
tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ đơn lẻ của người SDĐ do pháp luật đất đai quy
định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền và nghĩa vụ mà người SDĐ có được
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Bên cạnh đó, chủ thể tranh chấp vốn
được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được xác định rõ ràng là chỉ bao gồm
8


người SDĐ hay là tất cả các chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người
SDĐ trong quan hệ TCĐĐ. Chính sự chung chung này đã khiến cho nội dung của

TCĐĐ nhiều lúc được mở rộng tối đa ở mức độ có thể. Trường phái này cho rằng
việc mở rộng khái niệm TCĐĐ trong điều kiện của nước ta hiện nay là chưa hợp lý;
vì xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với toàn bộ đất đai mà Nhà nước là đại
diện chủ sở hữu thì người SDĐ chỉ có quyền sử dụng đối với đất đai. Vì vậy, cái mà
họ tranh chấp khi TCĐĐ chỉ có thể là QSDĐ. Mặt khác, các thuật ngữ TCĐĐ và
tranh chấp QSDĐ đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế nhau kể từ khi có
Luật đất đai năm 1987 đến nay mà không có sự phân biệt. Hơn nữa, các tranh chấp
có liên quan đến QSDĐ của người SDĐ cũng đã từng được quy định cụ thể trong
một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến
đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến QSDĐ chứ không phải TCĐĐ một
cách chung chung [14, tr.24]. Theo đó, họ cho rằng, định nghĩa TCĐĐ theo Khoản
24, Điều 3 Luật đất đai năm 2013 do có nội hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách
hiểu không chính xác. Do đó, TCĐĐ cần được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối
với diện tích đất cụ thể giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý, SDĐ. Còn các
dạng tranh chấp khác, đều được hiểu là tranh chấp liên quan đến đất đai và được
giải quyết bởi cơ quan tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, mà không có sự ràng buộc
với những quy định về giải quyết tranh chấp trong pháp luật đất đai.
Quan điểm thứ hai, nhận định TCĐĐ bao gồm cả tranh chấp QSDĐ và các
tranh chấp liên quan đến QSDĐ; bởi lẽ, trong pháp luật đất đai, trước khi Luật đất
đai năm 2003 được thông qua và có hiệu lực thi hành thì khái niệm TCĐĐ hầu như
chưa được ai đề cập một cách chính thống và giải thích cụ thể.
Mặc dù vậy, hiện tượng TCĐĐ trong xã hội được pháp luật ghi nhận và quy
định việc giải quyết. Luật đất đai năm 2003 lần đầu tiên giải thích thuật ngữ TCĐĐ.
Kế thừa quy định này, khoản 24 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 ghi nhận: “Tranh
chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc
nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Do vậy, đối tượng tranh chấp là quyền và nghĩa
vụ của người SDĐ, bao gồm cả tranh chấp QSDĐ và các tranh chấp liên quan đến
QSDĐ. Mặt khác, xem xét ở góc độ thực tiễn xét xử, ngành tòa án ở nước ta vẫn
thống kê các tranh chấp liên quan đến QSDĐ vào mục TCĐĐ nói chung. Bên cạnh
đó, Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT -TANDTC - VKSNDTC - BTNMT ngày

03/01/2002 hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh
chấp liên quan đến QSDĐ sử dụng thuật ngữ khác là “các tranh chấp liên quan đến
quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền của Toà án. Theo đó, các tranh chấp liên
9


quan đến QSDĐ thuộc thẩm quyền của Toà án bao gồm:
- Tranh chấp về việc ai là người có QSDĐ;
- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại
QSDĐ và thế chấp, góp vốn bằng QSDĐ;
- Thừa kế QSDĐ;
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc SDĐ.
Vậy, thuật ngữ “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” là một
thuật ngữ có nội hàm rất rộng, bao gồm cả tranh chấp về QSDĐ và tài sản gắn liền
với đất. Theo suy luận logic thì tranh chấp về QSDĐ sẽ bao gồm ba loại: tranh chấp
về việc ai là người có QSDĐ (thực chất là tranh chấp QSDĐ hay cụ thể hơn là kiện
đòi đất đang bị người khác chiếm giữ, tranh chấp mốc giới); tranh chấp hợp đồng
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại QSDĐ và thế chấp, góp vốn bằng
QSDĐ; tranh chấp thừa kế QSDĐ.
Không thể phủ nhận rằng, mỗi quan điểm trên đây đều được lập luận dựa
trên những căn cứ nhất định. Song thiết nghĩ, việc hiểu và vận dụng “TCĐĐ” bao
gồm cả tranh chấp QSDĐ và tranh chấp liên quan đến QSDĐ là hợp lý cả về vấn đề
logic ngôn ngữ và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự, nên bên cạnh
những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, TCĐĐ còn mang những đặc
trưng riêng khác với tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh chấp kinh doanh,
thương mại… Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chủ thể TCĐĐ chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý và QSDĐ,
mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai; bởi lẽ, đất đai ở nước ta thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, Nhà nước trao QSDĐ cho người

SDĐ thông qua việc giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Do đó, QSDĐ của
các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của Nhà nước
hoặc Nhà nước cho phép nhận QSDĐ hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng.
Như vậy, chủ thể của TCĐĐ là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư
cách là người quản lý hoặc người SDĐ.
Thứ hai, nội dung của TCĐĐ rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động quản lý và
SDĐ trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú với việc SDĐ vào
nhiều mục đích khác nhau với diện tích, nhu cầu sử dụng khác nhau. Trong nền
kinh tế thị trường, việc quản lý và SDĐ không đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử
dụng một tư liệu sản xuất. Đất đai đã trở thành một loại hàng hoá đặc biệt, có giá trị
thương mại. Giá đất lại có biến động theo quy luật cung cầu trên thị trường. Vì vậy,
10


việc quản lý và sử dụng nó không đơn thuần chỉ là việc khai thác giá trị sử dụng, mà
còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất thông qua các hành vi kinh doanh QSDĐ.
Tất nhiên, khi nội dung quản lý, SDĐ phong phú, phức tạp hơn thì những mâu
thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và SDĐ đai cũng trở nên gay gắt và trầm
trọng hơn.
Thứ ba, TCĐĐ phát sinh gây hậu quả xấu về nhiều mặt như có thể gây mất
ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết nội bộ nhân dân,
phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất, gây mất an ninh trật tự tại địa
phương, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh
chấp, mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, đối tượng của TCĐĐ là quyền quản lý và QSDĐ. Đất đai là loại tài
sản đặc biệt, không thuộc quyền sở hữu các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu
của toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu …
1.1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
Tranh chấp QSDĐ trồng rừng là một dạng cụ thể của tranh chấp đất đai phát
sinh trong thực tế quản lý và SDĐ trồng rừng ở nước ta. Tranh chấp QSDĐ trồng

rừng là một thuật ngữ được sử dụng trong các văn bản pháp luật đất đai nhưng lại
không được giải thích chính thức trong Luật đất đai năm 2013. Trên cơ sở khái
niệm chung về TCĐĐ, tác giả cho rằng khái niệm tranh chấp QSDĐ được hiểu như
sau: Tranh chấp về quyền sử dụng đất trồng rừng là tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất trồng rừng.
Bên cạnh các đặc điểm của tranh chấp đất đai nói chung, tranh chấp QSDĐ
trồng rừng còn có một số đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Một là, về phạm vi. Tranh chấp QSDĐ trồng rừng có phạm vi hẹp hơn tranh
chấp đất đai. Điều này có nghĩa là tranh chấp QSDĐ trồng rừng là một dạng cụ thể
của tranh chấp đất đai hay nói cách khác tranh châp đất đai bao gồm tranh chấp
QSDĐ trồng rừng và các loại tranh chấp đất đai khác.
Hai là, đối tượng của tranh chấp QSDĐ trồng rừng là tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất trồng rừng. Điều này có nghĩa là tranh chấp QSDĐ
trồng rừng là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích trồng rừng, công
nhận QSDĐ trồng rừng.
Ba là, loại đất liên quan đến tranh chấp QSDĐ trồng rừng là đất được Nhà
nước giao, cho thuê để trồng rừng (bao gồm trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng).
11


Bốn là, chủ thể tranh chấp QSDĐ trồng rừng là các bên trong quan hệ đất
trồng rừng bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất sử dụng vào mục đích trồng rừng (gọi chung là người SDĐ trồng rừng).
Năm là, do rừng được trồng ở các tỉnh ven biển để chắn gió, chắn cát bay,
chống xói lở, bảo vệ đất; rừng được trồng ở khu vực miền núi, trung du nên không
phải tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều phát sinh tranh chấp QSDĐ
trồng rừng mà chỉ những tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quy hoạch SDĐ
trồng rừng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mới có loại tranh chấp

QSDĐ này. Thậm chí trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì không
phải quận, huyện, thị xã, thành phố nào cũng phát sinh tranh chấp QSDĐ trồng rừng
mà chỉ có những huyện có quy hoạch SDĐ trồng rừng được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt mới có thể có loại tranh chấp QSDĐ này. Ví dụ: Ở thành phố
Hồ Chí Minh chỉ có huyện Cần Giờ mới có tranh chấp QSDĐ trồng rừng do quy
hoạch SDĐ để trồng rừng ngặp mặn hay ở Hà Nội, có các huyện Sóc Sơn, Ba Vì,
Mỹ Đức, thị xã Sơn Tây … có những khu vực được quy hoạch SDĐ trồng rừng mới
phát sinh tranh chấp QSDĐ trồng rừng; trong khí đó, các quận nội thành lại không
tồn tại loại tranh chấp QSDĐ này.
1.1.3. Các dạng tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng phổ biến
Như phần trên đã đề cập, tranh chấp QSDĐ trồng rừng là một dạng cụ thể của
tranh chấp đất đai. Do đó, các dạng tranh chấp đất đai phổ biến cũng là các dạng
tranh chấp QSDĐ trồng rừng. Tìm hiểu về tranh chấp QSDĐ trồng rừng, tác giả nhận
thấy loại tranh chấp này phát sinh trên thực tế dưới các dạng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng chuyển đổi QSDĐ trồng rừng.
Trước khi Luật đất đai năm 2003 ra đời, pháp luật nước ta quy định đất nông
nghiệp và đất lâm nghiệp là hai loại đất độc lập trong vốn đất quốc gia. Kể từ khi
Luật đất đai năm 2003 ra đời đến nay, đất lâm nghiệp nói chung và đất trồng rừng
nói riêng được quy định là một loại đất cụ thể trong nhóm đất nông nghiệp mà theo
đạo Luật này, hộ gia đình, cá nhân được chuyển đổi đất nông nghiệp với nhau trong
cùng một xã, phường, thị trấn. Dạng tranh chấp này xảy ra đối với việc chuyển đổi
đất nông nghiệp giữa các hộ gia đình, cá nhân với nhau trong cùng một xã, phường,
thị trấn. Bởi lẽ, theo điểm b khoản 1 Điều 179 Luật đất đai năm 2013 quy định hộ
gia đình, cá nhân được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng một
xã, phường, thị trấn với hộ gia đình, cá nhân khác1.

Điều 179. Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất

1


12


Thứ hai, tranh chấp hợp đồng cho thuê, cho thuê lại QSDĐ trồng rừng. Việc
phát sinh dạng tranh chấp này là do một bên hoặc cả hai bên vi phạm các điều
khoản của hợp đồng như: Hết thời hạn thuê đất nhưng không chịu trả lại đất cho bên
cho thuê; người thuê không trả tiền thuê đất; SDĐ không đúng mục đích khi thuê;
bên cho thuê đòi lại đất khi chưa hết thời hạn hợp đồng thuê đất v.v.
Thứ ba, tranh chấp hợp đồng thế chấp QSDĐ trồng rừng.Dạng tranh chấp
này thường phát sinh khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ cam kết, nhưng bên thế
chấp QSDĐ trồng rừng (bên vay tiền) đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc trả
nợ không đầy đủ, đúng thời hạn như đã cam kết trong hợp đồng cho bên nhận thế
chấp QSDĐ trồng rừng là các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng.
Thứ tư, tranh chấp thừa kế QSDĐ trồng rừng. Dạng tranh chấp này thường
xảy ra do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Người có QSDĐ trồng rừng chết không để lại di chúc; những người thừa kế
theo pháp luật không thoả thận được với nhau về việc phân chia di sản thừa kế.
- Người có QSDĐ trồng rừng chết có để lại di chúc nhưng di chúc không
1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao trong hạn mức; đất được Nhà nước
giao có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, được Nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất; đất nhận chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế thì có các
quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều 166 và Điều 170 của Luật này;
b) Chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình, cá nhân
khác;
c) Chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
d) Cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam thuê
quyền sử dụng đất;
đ) Cá nhân sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên

đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Trường hợp người được thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản
1 Điều 186 của Luật này thì được nhận thừa kế quyền sử dụng đất; nếu không thuộc đối tượng quy định tại
khoản 1 Điều 186 của Luật này thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó;
e) Tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Luật này; tặng cho quyền sử
dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định
tại khoản 1 Điều 186 của Luật này;
g) Thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế
khác hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật;
h) Góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
để hợp tác sản xuất, kinh doanh;
i) Trường hợp đất thuộc diện thu hồi để thực hiện dự án thì có quyền tự đầu tư trên đất hoặc cho chủ đầu tư
dự án thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với chủ đầu tư dự án để thực hiện dự án theo
quy định của Chính phủ.

13


tuân thủ các quy định của pháp luật, định đoạt toàn bộ di sản chỉ cho một người
thừa kế, những người được hưởng thừa kế khác không thực hiện việc phân chia theo
di chúc dẫn đến tranh chấp…
Thứ năm, tranh chấp về chuyển nhượng QSDĐ trồng rừng. Đây là dạng tranh
chấp phổ biến với số lượng lớn. Tranh chấp về chuyển nhượng QSDĐ trồng rừng
xảy ra khi các bên hoặc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy dủ
nghĩa vụ đã cam kết gây thiệt hại cho bên kia; ví dụ: Bên chuyển nhượng nhận tiền
nhưng không chịu bàn giao đất trồng rừng hoặc ban giao đất trồng rừng không đúng
thời hạn thỏa thuận; bên nhận chuyển nhượng không thanh toán đầy đủ, đúng thời
hạn cam kết số tiền cho bên chuyển nhượng v.v.
Thứ sáu, tranh chấp do lấn, chiếm đất trồng rừng. Loại tranh chấp này xảy ra
do một hoặc cả hai bên đã chiếm dụng đất trồng rừng của nhau. Có trường hợp

trước đây khi thi hành chính sách về đất trồng rừng, Nhà nước đã giao đất cho
người khác sử dụng, nay chủ cũ tự động chiếm lại đất này và dẫn đến tranh chấp.
Thứ bảy, tranh chấp về đòi lại đất trồng rừng đã giao cho người khác khi
thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ
Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ tám, tranh chấp về tài sản chung là đất trồng rừng của vợ chồng khi ly
hôn. Dạng tranh chấp này giải quyết khá phức tạp khi trước đây giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng và có không ít
trường hợp vợ chồng khi kết hôn không ra Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn(gọi
chung là UBND cấp xã) xin cấp giấy đăng ký kết hôn.
Thứ chín, tranh chấp về cản trở việc thực hiện QSDĐ trồng rừng. Loại tranh
chấp này tuy số lượng tranh chấp phát sinh ít nhưng tính chất lại rất phức tạp. Thông
thường, do mâu thuẫn phát sinh, bên SDĐ trồng rừng nằm ở bên ngoài không cho
người sử dụng phần đất trồng trong bên trong đi qua khu vực đất của mình trong quá
trình SDĐ.
Thứ mười, tranh chấp đất trồng rừng liên quan đến địa giới hành chính. Dạng
tranh chấp này phát sinh giữa các đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh trong
trường hợp chia tác, sáp nhập, thành lập mới đơn vị hành chính v.v.
1.1.4. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do quan hệ đất đai nói chung và quan hệ đất trồng rừng nói riêng ở
nước ta có nhiều xáo trộn qua các thời kỳ. Việc thay đổi chế độ sở hữu đất đai từ đất
14


đai thuộc nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân (trước Hiến pháp năm
1980) đến đất đai thuộc sở hữu toàn dân (sau Hiến pháp năm 1980) đã khiến nhiều
TCĐĐ (trong đó có QSDĐ trồng rừng) xảy ra. Ngoài ra, các chính sách về xây
dựng kinh tế mới, di dân từ các tỉnh đồng bằng đến khu vực trung du, miền núi hoặc

di dân giữa các huyện trong tỉnh; xây dựng các nông, lâm trường v.v làm phát sinh
tranh chấp QSDĐ trồng rừng.
Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai qua các thời kỳ lịch
sử do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác nhau ban hành không những nhiều
về số lượng mà còn có sự không thống nhất, thiếu đồng bộ về mặt nội dung. Chính
điều này đã làm cho thực tế các quan hệ đất đai nảy sinh qua các thời kỳ là rất phức
tạp, khi phát sinh tranh chấp thì không biết phải áp dụng văn bản quy phạm pháp
luật nào để giải quyết.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, đất đai ngày càng có giá trị. Trước đây,
trong nền kinh tế tập trung, bao cấp kế hoạch hóa cao độ, đất đai không được thừa
nhận có giá. Nó chỉ được coi như một thứ “phúc lợi xã hội”, được Nhà nước thay
mặt xã hội thực hiện việc phối cho các nhu cầu sử dụng; mọi hành vi mua bán,
chuyển nhượng đất đai, phát canh thu tô đều bị Nhà nước nghiêm cấm dưới mọi
hình thức. Khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, để giải phóng mọi năng lực sản xuất của con người, Nhà nước chuyển sang
thực hiện hình thức giao đất, cho thuê đất cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng
ổn định lâu dài (gọi chung là người sử dụng đất). Người sử dụng đất được chuyển
quyền sử dụng đấttrong thời hạn giao đất, cho thuê đất. Đất đai từ chỗ không có giá
được Nhà nước định khung giá đất và được đem thế chấp hoặc góp vốn trong sản
xuất - kinh doanh... Người sử dụng đất ngày càng nhận thức được giá trị của đất đai.
Điều này vô hình chung đã làm này sinh TCĐĐ nói chung và tranh chấp QSDĐ
trồng rừng nói riêng.
1.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì TCĐĐ (trong đó có tranh chấp
QSDĐ trồng rừng) xảy ra còn xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan. Cụ thể:
Thứ nhất, việc buông lỏng công tác thống nhất quản lý đất đai của Nhà nước.
Trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, kế hoạch hóa, Nhà nước phân công, phân
cấp cho quá nhiều ngành, nhiều cơ quan dẫn đến việc quản lý đất đai thiết chặt chẽ
và còn nhiều sơ hở. Có thời kỳ, mỗi loại đất được giao cho một ngành để quản lý; ví
dụ: ngành nông nghiệp quản lý đất nông nghiệp; ngành xây dựng quản lý đất xây

dựng; ngành giao thông vận tải quản lý đất giao thông; ngành lâm nghiệp quản lý
15


đất lâm nghiệp v.v. Điều này đã dẫn đến việc tranh chấp giữa đất nông nghiệp với
đất lâm nghiệp cũng như với đất chuyên dùng; có loại đất nhiều cơ quan quản lý (ví
dụ đất đô thị), nhưng cũng có loại đất không có loại cơ quan nào quản lý (đất mặt
nước biển, vùng lãnh hải, vùng thềm lục địa).
Thứ hai, chính sách, pháp luật đất đai có một số nội dung chưa phù hợp với
thực tiễn; đặc biệt là các quy định về xác định giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất; quy định về thời hạn sử dụng đất; quy định về hạn mức giao đất nông
nghiệp...Việc thực hiện chính sách bảo vệ đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa
ổn định), đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng với chính sách phát triển các khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu đô thị mới; chính sách về trồng, khoanh
nuôi, bảo vệ rừng với khai thác, sử dụng rừng... còn bộc lộ sự mâu thuẫn, không
tương thích. Hơn nữa, chính sách, pháp luật đất đai thường xuyên sửa đổi, bổ sung
nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc làm này
cũng gây ra sự mâu thuẫn về nội dung trong một số quy định của pháp luật đất đai.
Thứ ba, trong việc điều chỉnh địa giới hành chính giữa đơn vị hành chính cấp
xã, cấp huyện ở một số địa phương được thực hiện song nội dung xác định địa giới
hành chính không thực hiện kịp thời hoặc không rõ ràng, cụ thể làm cho tình trạng
TCĐĐ nói chung và tranh chấp QSDĐ trồng rừng trở nên phức tạp hơn.
Thứ tư, trong quản lý đất đai còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế về mặt chủ
quan như cán bộ thiếu gương mẫu, lạm dụng chức quyền dẫn đến tham nhũng, tiêu
cực về đất đai. Công tác giải quyết TCĐĐ (bao gồm tranh chấp QSDĐ trồng
rừng)có trường hợp chưa đúng pháp luật mà chủ yếu dựa vào cảm tính chủ quan của
người có thẩm quyền hoặc hữu khuynh mất cảnh giác để kẻ xấu lợi dụng kích động,
xúi giục quần chúng nhân dân gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Thứ năm, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật đất đai đạt hiệu quả thấp.
Mặt khác, một bộ phận quần chúng nhân dân ý thức chấp hành pháp luật chưa cao,

chuyển quyền sử dụng đất trái pháp luật hoặc vi phạm các quy định về trình tự, thủ
tục chuyển quyền sử dụng đất... làm phát sinh các TCĐĐ (bao gồm tranh chấp
QSDĐ trồng rừng).
Thứ sáu, chính sách đất đai và các chính sách có liên quan chưa đồng bộ, có
mặt còn chưa rõ ràng, mâu thuẫn; ví dụ: chính sách giao đất trồng rừng theo nhân
khẩu, theo hộ gia đình vô hình chung làm gia tăng dân số hoặc tảo hôn để tách lập
gia đình mới. Mặt khác, hồ sơ địa chính, sổ địa chính, bản đồ địa chính còn thiếu,
không đầy đủ hoặc không cập nhật thường xuyên những biến động đất đai; số liệu
đo vẽ đất đai không chính xác với diện tích đất thực tế v.v. Vì vậy, khi TCĐĐ (bao
16


gồm tranh chấp QSDĐ trồng rừng)xảy ra thiếu cơ sở pháp lý để giải quyết hoặc đẩy
các cơ quan nhà nước vào thế lúng túng, bị động v.v
1.1.5. Hậu quả của tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
Thứ nhất, về mặt kinh tế. Khi các tranh chấp xảy ra trước hết nó làm ngưng
trệ hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ do các bên đương sự lao vào cuộc
chiến khiếu kiện, tranh chấp. Họ phải bỏ thời gian, công sức, chất xám, tiền của
trong việc theo đuổi vụ việc tranh chấp. Điều này dẫn đến sự tiêu hao về sức khỏe,
tinh thần, tâm lý, của cải .. của các bên. Tiếp đó, TCĐĐ (bao gồm tranh chấp QSDĐ
trồng rừng)cũng gây thiệt hại về thời gian, công sức và nguồn lực cho Nhà nước,
cho xã hội. Bởi lẽ, các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước phải bỏ thời gian,
công sức, chất xám vào việc nghiên cứu vụ việc tranh chấp, giải quyết tranh chấp
đất đai. Xét về giá trị kinh tế, cho dù bên nào giành phần thắng trong vụ việc TCĐĐ
(bao gồm tranh chấp QSDĐ trồng rừng)thì các bên đương sự, Nhà nước và xã hội
đều phải tiêu tốn một nguồn lực vật chất không nhỏ cho quá trình hóa giải những
bất đồng, mâu thuẫn về đất đai.
Thứ hai, về mặt chính trị. Với một nước có khoảng 70% dân số làm nông
nghiệp và là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới như Việt Nam, đất đai là vấn đề
thu hút sự quan tâm của mọi người trong xã hội, của Đảng và Nhà nước và là vấn đề

nhạy cảm có ý nghĩa về chính trị, kinh tế, xã hội. Đất đai là một trong những chính
sách đặc biệt quan trọng của Nhà nước ta trong suốt quá trình cách mạng. Khi
TCĐĐ (bao gồm tranh chấp QSDĐ trồng rừng) xảy ra tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn
định chính trị; bởi lẽ, các bất đồng, mâu thuẫn về đất đai nếu không được giải quyết
kịp thời sẽ dễ phát sinh thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự. Đây là điều kiện để
các phần tử chống đối xuyên tạc, bôi nhọ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước; kích động, chia rẽ sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân
với âm mưu lật độ chế độ dân chủ nhân dân. Các vụ việc tranh chấp đất ở xã Đồng
Tâm (huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội); vụ việc ở Văn Giang (tỉnh Hưng Yên); vụ
việc bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên năm 2002 v.v là những minh chứng điển hình
cho hậu quả chính trị do TCĐĐ (bao gồm tranh chấp QSDĐ trồng rừng) gây ra.
Thứ ba, về mặt xã hội. Tranh chấp đất đai (bao gồm tranh chấp QSDĐ trồng
rừng) là những xung đột phá vỡ kết cấu bền vững của các mối quan hệ xã hội. Do
mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi hoặc quyền và nghĩa vụ trong quan hệ đất đai mà
không tự giải quyết được khiến các bên đương sự phải khởi kiện nhau ra tòa đã gây
nên rạn nứt trong mối quan hệ tình cảm , “đào hố sâu ngăn cách” giữa những thành
viên trong gia đình bao gồm cha - mẹ, vợ - chồng, anh - em; người thân, họ hàng,
17


làng xóm, cộng đồng dân cư. Xung đột xã hội xuất hiện và nếu không được giải
quyết triệt để, kịp thời sẽ gây ra sự khủng hoảng xã hội … Lợi ích kinh tế có thể
làm lu mờ, băng hoại các chuẩn mực đạo đức xã hội. Trong nhiều trường hợp
TCĐĐ (bao gồm tranh chấp QSDĐ trồng rừng), nếu các bên đương sự không kiềm
chế và có cách ứng xử nhân văn, văn minh, phù hợp có thể dẫn đến việc phạm pháp
hình sự và kéo theo hàng loạt các hệ lụy xã hội khác không mong muốn.
1.2. Lý luận giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
Giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói
riêng là phản ứng của các bên đương sự hoặc của Nhà nước, của xã hội nhằm hóa

giải những bất động, mâu thuẫn và khôi phục lại cấu trúc bền vững của quan hệ đất
đai. Do tranh chấp QSDĐ trồng rừng là một dạng cụ thể của TCĐĐ nên xét về khái
cạnh học thuật, giải quyết TCĐĐ cũng chính là giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng
rừng. Thông qua việc tìm hiểu khái niệm giải quyết TCĐĐ để giải mã khái niệm
giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng. Giải quyết TCĐĐ là thuật ngữ được sử
dụng khá phổ biến trong các văn bản pháp luật đất đai. Cho dù Luật đất đai năm
2013 (trong phần giải thích thuật ngữ - Điều 3) không đưa ra giải thích chính thức
về giải quyết TCĐĐ. Tuy nhiên, thuật ngữ này được các sách báo pháp lý ở nước ta
giải mã nội hàm như sau:
Theo Từ điển Giải thích Thuật ngữ học: Giải quyết tranh chấp đất đai là giải
quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức và trên cơ sở đó phục hồi
các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại; đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
hành vi vi phạm Luật đất đai [33].
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội: …Giải quyết
tranh chấp đất đai là việc tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm giải
quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Trên cơ sở đó phục hồi các
quyền lợi hợp pháp cho bên bị xâm hại, đồng thời bắt buộc bên vi phạm phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý do hành vi của họ gây ra”2.
Như vậy, từ những khái niệm trên, theo tác giả giải quyết tranh chấp QSDĐ
trồng rừng là một dạng cụ thể của giải quyết tranh chấp đất đai và có thể hiểu như
sau:Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng là một nội dung của quản
lý nhà nước về đất đai do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành dựa trên cơ
sở pháp luật để hóa giải những bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất trồng rừng, khôi phục
2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Gíao trình Luật đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 407.

18



quyền lợi hợp pháp cho bên bị xâm hại và buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm
pháp lý do hành vi của họ gây ra.
Tìm hiểu nội dung các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ nói chung
và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng, tác giả nhận thấy hoạt động
này có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng
rừng nói riêng là một nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Hoạt động này do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện căn cứ vào các quy định của pháp luật,
quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn sử dụng đất để tìm ra phương thức phù
hợp nhằm giải quyết bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp. Điều này có
nghĩa là giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói
riêng phải tuân thủ các quy định của pháp luật về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục và thời hạn giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, giải quyết TCĐĐ nói chung và
giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng là hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước có nghĩa là không phải bất cứ cơ quan, công chức nào cũng có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp mà chỉ cơ quan, cá nhân được pháp luật đất đai quy
định mới có thẩm quyền giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp
QSDĐ trồng rừng nói riêng. Quyết định giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết
tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
hiệu lực pháp luật bắt buộc các bên đương sự phải chấp hành. Trong trường hợp họ
không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.
Thứ hai, do đất đai là vấn đề nhạy cảm, phức tạp và có tầm quan trọng trên
nhiều phương diện. Hơn nữa, việc quản lý và sử dụng đất có nhiều biến động, xáo
trộn qua các thời kỳ lịch sử nên TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ
trồng rừng nói riêng xảy ra rất phức tạp, thường có đông người tham gia. Hoạt động
giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng cần
huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khuyến khích các tổ chức
quần chúng ở cơ sở và người dân tham gia giải quyết. Trong giải quyết TCĐĐ nói
chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng, Nhà nước coi trọng và đề

cao các phương thức thương lượng, hòa giải nhằm giải quyết ổn thỏa tranh chấp, duy
trì sự ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
Thứ ba, do tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nên Nhà nước
không thừa nhận và không xem xét giải quyết các tranh chấp về đòi lại đất đã chia
cấp cho người khác khi thực hiện chính sách đất đai qua các thời kỳ của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam
19


Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ tư, việc giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ
trồng rừng nói riêng không chỉ dựa vào quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước mà còn căn cứ vào tâm lý, thị hiếu, phong tục tập quán ...
trong quá trình quản lý, sử dụng đất đai của người dân ở các vùng, miền khác nhau
trong cả nước. Đặc biệt, đội ngũ già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ và người có
uy tín trong cộng động dân cư có vai trò rất lớn trong việc hòa giải TCĐĐ nói
chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng ở khu vực nông thôn,
miền núi và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Hơn nữa, đối với khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc và vùng nông
thôn thì hương ước, quy tắc sinh hoạt cộng đồng, luật tục … có ảnh hưởng lớn đến
việc giải quyết TCĐĐ nói chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói
riêng thông qua công tác hòa giải, vận động, thuyết phục v.v.
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trồng rừng
1.2.2.1. Nguyên tắc bảo đảm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác
và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Cụ thể hoá quy định này của
Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013 đã quy định “Nhà nước không thừa

nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử
dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”3. Vì vậy, khi giải quyết các TCĐĐ nói
chung và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng, phải tôn trọng và bảo vệ
quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người đại diện, bảo vệ quyền
đại diện sở hữu đất đai của Nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng về đất đai mà
nhân dân ta đã giành được. Theo đó, mọi tranh chấp về đòi lại đất (bao gồm đất
trồng rừng) thì Nhà nước không xem xét và không thừa nhận việc đòi đất. Tuy
nhiên, Nhà nước xem xét lại một số trường hợp tranh chấp đất đai nói chung và giải
quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng đã giải quyết nhưng chưa đúng với
quy định của pháp luật.
1.2.2.2. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích
3

Khoản 5 Điều 26 Luật đất đai năm 2013

20


kinh tế, khuyến khích việc tự thương lượng, tự hoà giải trong nội bộ nhân dân.
Luật đất đai năm 1993 ra đời với việc quy định năm quyền năng của người
SDĐ, đó là quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp QSDĐ.
Tiếp đó, các đạo Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 kế thừa và phát
triển thành tám quyền năng của người SDĐ, bao gồm: quyền chuyển đổi, quyền
chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền cho thuê lại, quyền thừa kế, quyền tặng cho,
quyền thế chấp, quyền góp vốn bằng QSDĐ [22].Điều này đã khẳng định tư duy đổi
mới của Nhà nước ta là đề cao và coi trọng địa vị làm chủ của người sử dụng đất
trong lĩnh vực đất đai. Có như vậy mới tạo điều kiện để họ gắn bó lâu dài với đất
đai, khuyến khích đầu tư, bồi bổ, cải tạo đất. Thực tế đã chứng minh rằng, nếu lợi

ích của người SDĐ không được đảm bảo, thì việc SDĐ không thể mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Đây không phải là một ngoại lệ đối với giải quyết TCĐĐ nói chung và
giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng. Việc giải quyết TCĐĐ nói chung
và giải quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng đạt hiệu quả khi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền chú trọng đến bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự nói
chung và của người SDĐ nói riêng.
Hơn nữa, một truyền thống tốt đẹp của văn minh lúa nước là tinh thần đoàn
kết, tương thân tương ái của người Việt Nam; đặc biệt là người dân sống ở khu vực
nông thôn, trung du, miền núi. Trong tâm thức của người Việt Nam, đất nước, quê
hương, làng xóm, gia đình gắn bó mật thiết với nhau và hòa quyện làm một. Mọi
người đều có ý thức giữ gìn sự đoàn kết trong nội bộ gia đình, làng xóm, cộng đồng.
Vì vậy, khi phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn trong cuộc sống, người Việt Nam
thường có xu hướng lựa chọn phương thức thương lượng, hòa giải để giải quyết
nhằm duy trì tình đoàn kết cộng đồng. Mặt khác, thương lượng, hòa giải là phương
thức giải quyết tranh chấp đất đai linh hoạt, mềm dẻo, dễ áp dụng, tiết kiệm thời
gian và đỡ tốn kém về tiền bạc trong việc theo đuổi khiếu kiện. Đồng thời, nó tôn
trọng sự định đoạt, ý chí tự nguyên của các bên đương sự. Nhận thức được vai trò
của hòa giải tranh chấp nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng đối với người dân,
nên khi giải quyết tranh chấp đất đai (bao gồm tranh chấp về QSDĐ trồng rừng),
Nhà nước khuyến khích các bên đương sự tự thương lượng, hòa giải; chỉ khi thương
lượng, hòa giải không thành và các bên đương sự có đơn yêu cầu thì cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mới tiến hành giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải
quyết tranh chấp QSDĐ trồng rừng nói riêng.
1.2.2.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai nhằm mục đích ổn định
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với việc tổ
21


×