Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

skkn một số biện pháp nhằm giúp trẻ mẫu giáo lớn 5 6 tuổi trường mầm non thị trấn rừng thông, huyện đông sơn chuẩn bị tâm thế tốt để vào trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.97 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
TT

TIÊU ĐỀ

Trang

MỤC LỤC
1

MỞ ĐẦU

1-3

1.1.

Lý do chọn đề tài

1-2

1.2.

Mục đích nghiên cứu

2

1.3.

Đối tượng nghiên cứu

3



1.4.

Phương pháp nghiên cứu

2-3

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3-16

2.1.

Cơ sở lí luận

3-4

2.2.

Thực trạng

4-6

2.

2.2.1.

Thuận lợi

4


2.2.2.

Khó khăn

5

2.2.3.

Kết quả khảo sát

5-6

2.3.

Các biện pháp

6-16

Biện pháp 1: Quan tâm đến việc phát triển toàn diện cho trẻ
Biện pháp 2: Chuẩn bị một số kĩ năng cần thiết tạo cho trẻ
mạnh dạn, tự tin chuẩn bị vào trường Tiểu học.
Biệp pháp 3: Cho trẻ bước đầu làm quen kĩ năng cầm bút,
tập lật giở sách, tư thế ngồi đọc, viết...
Biệp pháp 4: Phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc thực
hiện mục tiêu giáo dục trẻ
Hiệu quả đạt được

6-9
9-13


2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.4.
3.

KẾT LUẬN

13-15
15-16
16-17
18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

0


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết khi trẻ lên 6 tuổi nghĩa là trẻ hết tuổi mầm non là lúc
đặt xong nền móng của nhân cách cho trẻ. Sự phát triển về mặt đạo đức cho trẻ
sau này đều mang dấu ấn của thời ấu thơ. Vì thế từ lứa tuổi này chúng ta phải
chăm lo phát triển toàn diện cho trẻ, trên cơ sở đó từng bước hình thành nhân
cách cho trẻ theo phương hướng, yêu cầu mà xã hội đặt ra. Có thể nói thời kỳ trẻ
6 tuổi là giai đoạn bản lề cho sự phát triển mang tính bước ngoặt. Đặc biệt khi
trẻ ở giai đoạn này sẽ chuyển từ giai đoạn mầm non và bước sang giai đoạn Tiểu

học. Lúc này chúng ta sẽ nhận thấy đặc điểm phát triển của trẻ 6 tuổi là phát
triển về thể chất, tâm sinh lý, nhận thức có sự thay đổi khi trẻ tiếp xúc với môi
trường học đường. [2]
Trẻ bước vào tuổi lên 6 trẻ bắt đầu có sự nhận thức và phát triển vượt trội
về mọi mặt, cả về thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ lẫn tính cách. Theo giáo sư - tiến sĩ
Vũ Gia Hiền, trẻ 5-6 tuổi đã hình thành nhân cách. các em bắt đầu khám phá
được khả năng và phẩm chất của mình, hiểu được thái độ của những người xung
quanh, có phản xạ vui buồn về thành công và thất bại, về ưu khuyết điểm của
bản thân, về những khả năng và sự bất lực. Tuy nhiên, khả năng hiểu của các em
chỉ ở mức độ đơn giản. Ở lứa tuổi này, trẻ đã biết được giới tính của mình, là
trai hay gái. Lúc này, hành vi của người lớn có tác động rất lớn đến trẻ. Cũng
trong giai đoạn cuối tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu biết hành động có mục đích, biết
lập ra kế hoạch theo thời gian gần và không gian hẹp. Mặc dù các em chưa có
khái niệm kiểm soát thời gian và không gian nên chúng chỉ hành động theo bản
năng mà chưa biết đánh giá kết quả. Hiểu được đặc điểm này, giáo viên trong
các trường mẫu giáo, cha mẹ trẻ, nên tập cho trẻ biết chờ đợi, kiềm chế hành vi,
lời nói bộc phát qua những hoạt động cụ thể. Cần tổ chức trò chơi có luật chơi,
nhờ đó mục đích thô sơ (chơi) có thể trở thành kỹ năng sống. …[6]
Với trẻ mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi, học mang tính
chất "Chơi mà học - Học bằng chơi". Giai đoạn chuyển từ mầm non sang lớp
một là một bước chuyển lớn với trẻ. Bởi vì khi trẻ đang quen được chăm sóc,
vui chơi phải chuyển sang môi trường mới, với hoạt động học tập là chính, ngồi
một chỗ, viết bài, làm toán trong thời gian dài... Vì vậy để việc chuẩn bị tâm lí
và kĩ năng cho trẻ trước khi vào lớp một là rất quan trọng. Trẻ rất hiếu động tò
mò, ham muốn học hỏi, tìm hiểu thế giới xung quanh. Trẻ thực sự học trong khi
chơi. Ở trẻ mẫu giáo lớn các yếu tố của hoạt động học tập đã xuất hiện, nhưng
mới ở dạng sơ khai. Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo tạo cơ hội
cho trẻ hoạt động, học bằng hành, giải quyết vấn đề, trải nghiệm tìm tòi, khám
phá...giúp trẻ phát triển nhận thức, ngôn ngữ, tư duy, phát triển các kĩ năng thực
hành, giao tiếp ứng xử. Không nên dạy trước những gì mà sau này trẻ phải học

một cách bài bản ở trường phổ thông. Hành trang cho trẻ vào lớp một nên nhỏ
gọn để phù hợp với sức vóc của trẻ mới qua lớp mầm non. [5]
Trên thực tế hiện nay chúng ta có thể thấy rằng giai đoạn chuyển từ mầm
non sang Tiểu học là một bước chuyển lớn đối với trẻ. Việc trẻ phải dần thay đổi
thói quen cũng như môi trường đã khiến nhiều trẻ bỡ ngỡ và gặp không ít khó
1


khăn khi bước vào lớp một. Vì vậy để việc chuẩn bị tâm lí và kĩ năng cho trẻ
trước khi vào lớp một là rất quan trọng trong cuộc đời của trẻ, là một bước
chuyển mang tính chất nhảy vọt.
Vì thế, việc chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi vào trường Tiểu học là
một quá trình lâu dài, ngay từ tuổi nhà trẻ đến khi có đủ điều kiện vào lớp một,
và chỉ có trường mầm non mới làm tốt công tác này, vì mục tiêu của giáo dục
mầm non là: Giúp trẻ phát triển thể chất, trí tuệ, tình cảm, hình thành những yếu
tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, hình thành và phát triển
ở trẻ những kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với độ tuổi..
Xuất phát từ các lý do đã nêu ở trên, bản thân tôi đã có nhiều năm kinh
nghiệm dạy trẻ ở độ tuổi 5-6 tuổi, nắm được đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ, tâm
lý của phụ huynh học sinh, tôi thấy việc chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi
có một tâm thế thoải mái, tự tin để trẻ bước vào trường Tiểu học là vô cùng cần
thiết và quan trọng. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm
giúp trẻ mẫu giáo Lớn 5-6 tuổi Trường mầm non Thị trấn Rừng Thông,
huyện Đông Sơn chuẩn bị tâm thế tốt để vào trường Tiểu học".
1.2. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu bản thân tôi muốn đưa ra các biện pháp và sử dụng hiệu
quả các biện pháp đó để tác động linh hoạt, sáng tạo trong việc tạo tâm thế tốt
cho trẻ 5-6 tuổi chuẩn bị bước vào trường tiểu học. Cụ thể:
Thông qua việc tổ chức các hoạt động hàng ngày giúp trẻ biết sử dụng
ngôn ngữ của mình để diễn đạt một cách đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn, lưu loát,

chính xác, logic và thể hiện được sắc thái biểu cảm phù hợp trong hoạt động
hàng ngày, trong giao tiếp, ứng xử.
Nâng cao hiệu quả nhận thức, tư duy. Phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành, phát triển tốt nhất tình cảm và các mối quan hệ xã hội, bồi dưỡng, phát
triển khả năng thẩm mỹ giúp trẻ biết nhìn nhận sự vật, sự việc gần gũi xung
quanh một cách lạc quan, trong sáng và đẹp đẽ hơn góp phần tích cực vào quá
trình hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của trẻ.
Đúc rút các biện pháp nhằm giúp trẻ mẫu giáo Lớn 5-6 tuổi Trường mầm
non thị trấn Rừng Thông chuẩn bị tâm thế tốt để vào trường Tiểu học đạt hiệu
quả cao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Thông qua việc tổ chức các hoạt động hàng ngày để đưa ra một số biện
pháp nhằm giúp trẻ mẫu giáo Lớn 5-6 tuổi trường mầm non Thị trấn Rừng
Thông, huyện Đông Sơn chuẩn bị tâm thế tốt để vào trường Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, trong bài viết sáng kiến kinh nghiệm của mình
tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp tổng hợp và phân tích
- Phương pháp hệ thống hóa
Tôi tiến hành nghiên cứu đọc sách và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về tâm sinh lí của trẻ 5-6 tuổi. Sưu tầm tư liệu, hình ảnh, qua thông tin thực tế ở
nhà trường.
2


* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm: Thông qua việc trực tiếp giảng dạy
hàng ngày của bản thân và dự giờ của các đồng nghiệp.
- Phương pháp đàm thoại:

Đàm thoại với các giáo viên trong nhà trường để trao đổi các kinh
nghiệm sáng tạo trong dạy trẻ.
Đàm thoại với phụ huynh để tìm hiểu về tính cách, tâm lý của trẻ khi ở
nhà.
Đàm thoại và trò chuyện trực tiếp trẻ hàng ngày, tạo các tình huống
cho trẻ có cơ hội diễn đạt những hiểu biết, những suy nghĩ của mình. Động viên,
khuyến khích giúp trẻ tự tin bộc lộ khả năng, cảm xúc của mình.
- Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thống kê toán học
Xử lý số liệu, thông tin thu được thông qua việc sử dụng các phép tính
toán học.
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tham khảo các bài viết, ý kiến của lãnh đạo, của đồng nghiệp về vấn đề
mình đang thực sự quan tâm để xây dựng bài viết hoàn chỉnh.
* Phương pháp điều tra
Điều tra số lượng trẻ trên lớp, độ tuổi 5 - 6 tuổi với tổng số trẻ lớp mẫu
giáo lớn 5-6 tuổi do tôi chủ nhiệm là 30 trẻ.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Trường mầm non là nơi trẻ làm quen với ngôn ngữ văn học nghệ thuật, trẻ
được học cách hòa đồng với bạn bè, biết giữ yên lặng trong những giờ ngủ trưa,
biết cảm ơn, xin lỗi...những bài học nề nếp về sinh hoạt, sự tự lập và mối quan
hệ trong môi trường tập thể sẽ góp phần hình thành nhân cách của trẻ. Những
bài học đầu tiên của trẻ mầm non là qua các bài đồng dao, bài thơ, bài hát, có
tiết tấu vui tươi ngộ nghĩnh, tình cảm, bé thích và nhớ nhanh. [4]
Ngày nay, đất nước ta đang có nhiều đổi mới, nền kinh tế ngày càng phát
triển, sự hội nhập Quốc tế đòi hỏi ngày càng cấp bách. Nguồn nhân lực con
người là yếu tố quyết định sự phát triển toàn diện của xã hội. Vì vậy, bản thân là
giáo viên mầm non tôi đã nhận thấy rằng nếu chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ
tốt ngay từ những năm tháng đầu đời thì sẽ nâng cao hiệu quả chất lượng giáo

dục hiện nay. Nếu chúng ta Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt thì những búp non ấy sẽ
xanh tươi và phát triển, trở thành thế hệ mầm non tương lai của đất nước biết kế
thừa và phát huy những gì tốt đẹp nhất của loài người.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước có rất nhiều các chủ trương,
chính sách về giáo dục trên phạm vi toàn quốc, giáo dục mầm non đã có một
bước phát triển thất đáng kể vể chất lượng, số lượng, quy mô trường lớp đảm
bảo. Năm 2011, Bộ GD&ĐT đã xây dựng đề án phổ cập giáo dục mầm non cho
trẻ em 5 tuổi để chuẩn bị một tiền đề tốt cho trẻ bước vào lớp một.
Chính vì thế, Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 (Gọi tắt là chiến
lược) là một căn cứ quan trọng để Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo
3


thực hiện Nghị quyết lần thứ 6 của BCH Trung ương Đảng khóa XI và chiến
lược phát triển KT- XH giai đoạn 2010 - 2020, Chiến lược phát triển nhân lực
Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 và quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020, nhằm đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; đưa giáo
dục nước ta trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến; thực hiện sứ mạng
nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và bồi
dưỡng nhân tài; góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa, con người Việt
Nam. [1]
Việc chuẩn bị cho con trẻ vào học lớp một không chỉ là chuẩn bị đầy đủ
quần áo, sách vở, cặp bút dụng cụ học tập và cho con học trước chương trình lớp
một là đủ mà phải chuẩn bị tâm lý cho trẻ, để trẻ bước vào lớp một với một tâm
thế vững vàng, đầy háo hức đón chờ một sự thay đổi nhiều điều mới lạ. Bởi lẽ
trẻ có háo hức muốn khám phá điều mới lạ thì trẻ mới ham thích đến trường,
mới say sưa tìm tòi để khám phá thế giới xung quanh. Đây là động cơ tốt, ta
muốn trẻ học tốt thì phải tạo động lực thúc đẩy. Quá trình dạy - học, là quá
trình tương tác diễn ra giữa người dạy và người học, cần tạo động lực thúc đẩy

tác động trực tiếp đến người học và người dạy thì kết quả đạt được mới cao.
Thực tế cho thấy khi trẻ mầm non lên học tập ở trường Tiểu học một loạt
quan hệ xã hội cần được thay đổi: quan hệ giữa trẻ với cô được thay thế bằng
quan hệ “thầy - trò”, quan hệ giữa trẻ với trẻ ở trường mầm non là quan hệ bạn
bè cùng chơi nay chuyển sang quan hệ bạn bè cùng học. Vì vậy việc cho trẻ làm
quen với hoạt động học tập, với quan hệ xã hội ở trường Tiểu học ngay trong
quá trình học tập ở trường Mầm non là rất cần thiết.
Hơn thế nữa, trẻ mẫu giáo đang sống trong một môi trường được sự chăm
lo chu đáo của cô về dạy dỗ, chăm sóc và nuôi dưỡng, được các cô chăm sóc
nhiệt tình như người mẹ thứ hai. Vì thế chuyển sang lớp một, sang môi trường
hoàn toàn mới lạ khác với môi trường mẫu giáo trẻ sẽ rất bỡ ngỡ, dễ bị hoang
mang, lo sợ, dao động về mặt tâm lý, khó tiếp cận và thích nghi ngay được.
Chính vì thế nhiệm vụ của giáo viên mầm non là phải tạo cho trẻ mẫu giáo đặc
biệt là trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi một tâm thế vững vàng, sẵn sàng bước vào trường
tiểu học để trẻ tiếp cận môi trường mới một cách tốt nhất. [5]
2.2. Thực trạng về chât lượng của trẻ lớp mẫu giáo lớn 5-6 tuổi ở
trường mầm non Thị trấn Rừng Thông.
2.2.1. Thuận lợi
Trường mầm non Thị trấn Rừng Thông được công nhận là trường đạt
chuẩn Quốc gia năm 2010, là một trong những trường chuyên môn nằm trong
tốp đầu toàn huyện. Hàng năm tập thể nhà trường luôn đạt nhiều thành tích cao
trong phong trào thi đua của bậc học.
Đội ngũ giáo viên trong trường 100 % có trình độ chuẩn và trên chuẩn là
93%, các giáo viên trong nhà trường hầu như trẻ tuổi, có năng lực .
Được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường, bản thân được trực
tiếp giảng dạy lớp Mẫu giáo Lớn (độ tuổi 5 - 6 tuổi). Dạy theo chương trình giáo
4


dục mầm non mới, được cung cấp các tài liệu tham khảo về kiến thức chuẩn bị

tốt tâm thế cho trẻ vào lớp một.
Nhà trường tạo mọi điều kiện bản thân được học các chuyên đề hàng năm,
được tham khảo nhiều tài liệu, sách báo… những thông tin trên mạng về kiến
thức chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một đã giúp cho bản thân có nhiều kiến
thức để viết đề tài.
Được sự ủng hộ của các bậc phụ huynh học sinh đã phối hợp chu đáo,
nhiệt tình trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Lớp Lớn tôi phụ trách có đầy đủ các trang thiết bị dạy học như: máy tính,
ti vi, đầu đĩa, băng hình các loại, đồ dùng đồ chơi đầy đủ phục vụ cho chương
trình Giáo dục mầm non của Bộ Giáo Dục. Phòng học thoáng mát, có đủ ánh
sáng cho trẻ hoạt động. Tỷ lệ huy động trẻ ra lớp là 100%, 100% trẻ ăn bán trú
tại trường.
Đa số các cháu có cùng độ tuổi, cháu đi học đều và ngoan, lễ phép, biết
vâng lời cô giáo.
Lớp tôi phụ trách có 30 cháu cùng độ tuổi, hầu như các cháu đã học qua
chương trình lớp mẫu giáo Nhỡ (4-5 tuổi) nên việc thực hiện lịch sinh hoạt hàng
ngày trẻ đã thực hiện tốt và đi vào nề nếp.
Nhiều cháu có khả năng lao đông tự phục vụ. Qua đó cũng giúp tôi thành
công hơn trong việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ trước khi vào Tiểu học. Bên cạnh
đó thì tôi cũng được sự tín nhiệm và tin cậy của phụ huynh khi đem con đến lớp
gửi nên điều đó cũng phần nào giúp tôi có động lực trong công tác chăm sóc
giáo dục trẻ và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ lớp tôi khi vào trường Tiểu học.
Bên cạnh những thuận lợi, bản thân tôi cũng còn gặp những khó khăn
nhất định, cụ thể
2.2.2. Khó khăn
Việc nhận thức vấn đề cho con vào lớp một của 1 số phụ huynh còn lệch
lạc. Một số phụ huynh chưa thực sự hiểu về bậc học mầm non, họ cho rằng
“trăng đến rằm thì trăng tròn”, trẻ đến 6 tuổi thì nghiễm nhiên đi học lớp một,
không cần phải chuẩn bị tâm thế cho trẻ cũng như không cần biết khả năng nhận
thức và sức khỏe của trẻ có thể đảm bảo được cho trẻ học tập hay không.

Mặt khác, đa số trẻ phạm vi giao tiếp còn hạn chế, trẻ còn dụt dè, bỡ ngỡ,
nhiều cháu chưa mạnh dạn…
Đồ dùng, đồ chơi của lớp mới đủ so với yêu câu tối thiểu, nhưng còn
thiếu đồ dùng hiện đại..
Căn cứ vào tình hình trên trước khi tiến hành nghiên cứu đề tài bản thân đã
tiến hành khảo sát trên trẻ như sau.
2.2.3. Kết quả thực trạng:
Bản thân tôi sau khi được phân công chủ nhiệm lớp Lớn, tôi đã đi sâu vào
tìm hiểu đánh giá từng trẻ, xem sổ theo dõi sức khoẻ của trẻ để từ đó tôi có thêm
tư liệu về từng cá nhân trẻ và nắm đựơc tình hình học tập cũng như sức khoẻ của
trẻ. Từ đó tôi bắt đầu khảo sát chất lượng trên trẻ, kết quả đạt như sau:
5


Bảng khảo sát trẻ đầu năm học (tháng 9/2017)

Nội dung đánh giá

Tổng
số trẻ

Tâm thế trẻ tự tin thể hiện rõ
mong muốn trước chỗ đông
người.
Trẻ có nề nếp, kỷ luật tốt trong
việc tham gia các hoạt động.
Kỹ năng tự phục vụ của trẻ

30


Khả năng tư duy, giải quyết
nhanh nhẹn mọi vấn đề

Kết quả đầu năm
Đạt
Chưa đạt
Số trẻ
Tỷ lệ
Số trẻ
Tỷ lệ
%
%
15
50,0
15
50,0

30

20

67,0

10

33,0

30

10


33,0

20

67,0

30

17

57,0

13

43,0

Kỹ năng tốt khi thực hiện làm
30
10
33,0
20
67,0
quen với chữ viết
* Nhận xét: Nhìn vào bảng kết quả khảo sát tôi thấy chất lượng ở từng nội
dung như sau:
Nội dung 1: Đa số trẻ chưa mạnh dạn, tự tin thể hiện rõ mong muốn trước
chỗ đông người. Tỷ lệ đạt chưa cao mới ở mức 50,0%.
Nội dung 2: Trẻ chưa có nề nếp, kỷ luật khi tham gia các hoạt động tại
lớp. Tỷ lệ đạt mới ở mức 67,0%.

Nội dung 3: Kỹ năng tự phục vụ của trẻ còn hạn chế đa số trẻ còn ỷ lại cô
giáo chưa biết tự phục vụ bản thân. Tỷ lệ đạt còn thấp 33,0%.
Nội dung 4: Khả năng tư duy, giải quyết mọi vấn đề còn hạn chế. Tỷ lệ
mới đạt 57,0%
Nội dung 5: Kỹ năng của trẻ khi thực hiện làm quen với chữ viết, tỷ lệ đạt
mới ở mức 33.0 %.
Đứng trước tình hình trên, tôi thiết nghĩ cần phải có kế hoạch để nâng cao
chất lượng chăm sóc, phát triển đầy đủ các mặt giáo dục cho trẻ để trẻ có tâm
thế sẵn sàng bước vào trường Tiểu học đạt kết quả tốt nhất. Tôi đã áp dụng 4
biện pháp và tôi thấy đã có hiệu cụ thể như sau:
2.3. Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi trường mầm non
Thị trấn Rừng Thông chuẩn bị tốt tâm thế để vào trường Tiểu học.
2.3.1. Biện pháp 1: Quan tâm đến việc phát triển toàn diện cho trẻ
* Chuẩn bị tâm thế để trẻ vào trường Tiểu học thông qua lĩnh vực phát
triển thể lực, thể chất.
Ở trường mầm non trẻ được hoạt động hàng ngày để phát triển thể lực
như: thông qua thực hiện tập thể dục sáng thường xuyên lồng ghép các bài tập

6


Aerobic vào bài tập phát triển chung giúp trẻ rất hứng thú và qua đó trẻ có cơ thể
khỏe mạnh phát triển.
Khi lên kế hoạch Chủ đề tôi cố gắng mỗi tuần một lần cho trẻ thực hiện
một bài tập vận động cơ bản để phát triển thể chất cho trẻ.
Ngoài thể dục sáng ra tôi còn thường xuyên lồng ghép giáo dục thể chất
vào các hoạt động học ở các Chủ đề.
Ví dụ: Ở Chủ đề “Bản thân” tôi dạy trẻ hiểu được chức năng, sự cần
thiết của việc chăm sóc giữ gìn vệ sinh cơ thể, dạy trẻ nhận biết được bốn nhóm
thực phẩm, biết được lợi ích của bốn nhóm thực phẩm với sức khỏe của bản

thân.
Cho trẻ biết lợi ích của việc ăn uống đầy đủ chất, sự cần thiết của việc
luyện tập thể dục đối với sức khỏe bản thân, dạy trẻ cách lao động tự phục vụ
bản thân như dạy trẻ tự thắt quai giày, tự cài cúc áo, tự xếp quần áo sau khi thay
đồ, từ đó cho trẻ hình thành tính độc lập, không phụ thuộc, ỷ lại vào người khác.
Ngoài công việc lao động tự phục vụ bản thân ra tôi còn cho trẻ biết giữ gìn vệ
sinh môi trường trong và ngoài lớp, biết giúp cô một số công việc đơn giản.
Ví dụ: Trong giờ ăn trẻ tự gấp khăn, xếp thìa, bát, chia cơm cho các bạn
phụ cô, tạo cho trẻ hứng thú khi được lao động tự phục vụ mình và bạn.

Hình ảnh: Giờ ăn của trẻ tại lớp
Ngoài việc thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ trên lớp tôi thường
xuyên quan tâm đến việc rèn luyện thể chất cho trẻ một cách hợp lý và khoa học
thông qua các hoạt động chung, hoạt động ngoài trời...
Bên cạnh đó tôi còn thường xuyên tổ chức các trò chơi vận động, trò chơi
dân gian… cho trẻ tham gia một cách tích cực nhằm rèn luyện sự khéo léo, nhạy
bén của các giác quan như trò chơi "Kéo co”, “ Mèo đuổi chuột”...
7


* Chuẩn bị tâm thế để trẻ vào trường Tiểu học thông qua lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ và trí tuệ
Ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để con người hoạt động và
giao lưu. Trong hoạt động học tập, ngôn ngữ vừa là công cụ để tư duy, lĩnh hội
tri thức, vừa nói lên khả năng trí tuệ của con người. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ
5 - 6 tuổi vừa giúp cho việc phát triển trí tuệ của trẻ, vừa là công cụ để tư duy.
Vì vậy việc chuẩn bị cho trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt
hàng ngày là việc quan trọng nhất để chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
Trẻ có ngôn ngữ mạch lạc phát triển tốt, thì đồng thời các quá trình tâm lý
như tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, tri giác…của trẻ cũng phát triển tốt. [4]

Để chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một một cách khoa học ngay từ đầu
năm học tôi phải xây dựng kế hoạch rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ
một cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động.
Ví dụ: Thông qua trò chuyện, giao tiếp thường ngày, thông qua các hoạt
động học tập nhất là hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học: đọc thơ,
đồng dao, kể lại chuyện…

Hình ảnh: Cô đang kể chuyện cho trẻ nghe
Thông qua đọc thơ, kể chuyện nhằm cung cấp cho trẻ vốn từ phong phú
về thế giới xung quanh, phát triển ngôn ngữ nói mạch lạc. Thông qua ngôn ngữ,
lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc
điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng... của chúng và trẻ học được từ tương ứng
(từ và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp
trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Từ ngữ giúp cho việc củng cố
những biểu tượng đã được hình thành.
Sự phát triển của ngôn ngữ giúp cho hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy
ngày càng được hoàn thiện, kích thích trẻ tích cực, sáng tạo hoạt động trí tuệ.
8


Tận dụng mọi cơ hội để kích thích hứng thú của trẻ đối với hoạt động trí
óc: tự giải quyết một số tình huống xảy ra hàng ngày, có sự hiểu biết cơ bản về
bản thân, gia đình, xã hội, biểu tượng về thời gian, không gian, một số kĩ năng
cơ bản về toán học.
Ví dụ: Trong hoạt động học tôi cho trẻ làm quen một số thuật ngữ toán
học "nhiều hơn, ít hơn", những con số...
Trong hoạt động chơi cho trẻ chơi một số trò chơi: bán hàng: trẻ đóng vai
người bán hàng, người mua hàng. Trò chơi Bác sĩ: trẻ biết dùng bút ghi tên
thuốc…..
Góc khoa học: ghi lại kết quả thí nghiệm, lập bảng....

* Chuẩn bị tâm thế để trẻ vào trường Tiểu học thông qua lĩnh vực phát
triển tình cảm và kĩ năng xã hội
Sự phát triển các mặt tình cảm và kỹ xã hội là tiền đề quan trọng cho việc
học và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ, khả năng tập trung, chấp hành
những qui định chung và sự chỉ dẫn của cô là vô cùng cần thiết, là yếu tố giúp
trẻ học tập tốt ở trường Tiểu học sau này. Khi trẻ tự tin vào chính bản thân mình,
trẻ sẽ học được cách chủ động, độc lập trong việc thực hiện các nhiệm vụ đến
cùng.
Để chuẩn bị về mặt tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ đạt kết quả tốt tôi
còn chuẩn bị một số việc sau:
Tôi thường xuyên giáo dục trẻ ý thức về bản thân như đặt các câu hỏi để
kích thích trẻ biểu lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình thông qua tranh ảnh,
hình vẽ, thơ, chuyện. Khuyến khích trẻ tự tổ chức các trò chơi đặc biệt là trò
chơi phân vai theo chủ đề, giáo dục các cháu có thói quen tự phục vụ bản thân.
Bên cạnh đó, tôi còn giúp trẻ tự lựa chọn và tham gia các hoạt động chơi
nhằm phát triển tính tự tin, tự lực và sáng tạo của trẻ. Giúp trẻ ham học bằng
cách thiết kế những hoạt động thú vị vui nhộn, vừa sức cho trẻ như chơi xếp
hình, nấu ăn, gieo hạt và quan sát sự lớn lên của cây….
Tôi luôn giáo dục trẻ ý thức chấp hành nội qui, qui định ở trường, lớp học,
những nơi công cộng, chấp hành luật an toàn giao thông. ý thức và thái độ cư xử
phù hợp đối với người thân trong gia đình.
Giáo dục trẻ có quan hệ tốt đẹp với bạn bè, cô giáo và những người
lớn khác trong trường mầm non đồng thời giúp trẻ có những biểu tượng chính
xác về trường Tiểu học.
2.3.2. Biện pháp 2: Chuẩn bị một số kĩ năng cần thiết tạo cho trẻ
mạnh dạn, tự tin chuẩn bị vào trường Tiểu học.
Để tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, mục đích của giáo dục mầm
non là định hướng tất cả khả năng tự lập của trẻ, góp phần hình thành cho trẻ
những cơ sở chuẩn mực ban đầu về tính cách, phẩm chất cần thiết như: mạnh
dạn, tự tin, tự lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác…đưa trẻ tham gia vào các hoạt

động trong đời sống hằng ngày. Đối với trẻ 6 tuổi việc trang bị cho trẻ kỹ năng
tự phục vụ, tính tự lập được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
9


việc giáo dục rèn luyện cho trẻ để trẻ chuẩn bị vào Tiểu học. Những kỹ năng cơ
bản tôi sử dụng để cung cấp cho trẻ lớp mình là:
- Kỹ năng chăm sóc bản thân như: Tự nhặt xếp gọn gàng đồ chơi, tự cởi
và mặc quần áo gấp quần áo gọn gàng, rửa mặt, rửa tay, đánh răng, đi dép,
chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang khi đi ra ngoài, tự xúc cơm ăn và ăn hết
suất…
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Dọn dẹp sắp xếp thu dọn đồ dùng, đồ chơi
cùng cô, lao động cùng các bạn như sắp đồ dùng, kê bàn ăn, giường ngủ…, lau
nước trên nền nhà, lau bụi trên bàn, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ rác đúng nơi quy
định…..
- Kỹ năng hỗ trợ người khác: Giúp đỡ em bé hơn mình đi lên xuống cầu
thang, dỗ em bé khi em khóc.. Bật tivi, bật quạt, lấy bát ăn cơm, lấy cốc uống
nước, cất dép đúng quy định, xách phụ đồ, tưới cây…
Những biểu hiện của trẻ chúng ta nhận thấy khả năng tự lập có ảnh hưởng
mạnh mẽ, trực tiếp đến trí tuệ, cảm xúc và trong các hoạt động. Trẻ tự tin, tự
kiểm soát, điều khiển hành vi của mình. Tính tự lập quyết định việc hình thành
nhân cách, trí tuệ, cảm xúc của trẻ. Bởi vậy giáo dục khả năng tự phục vụ cho
trẻ ở giai đoạn trẻ lên 6 tuổi là một rất cần thiết, bởi tính tự lập là một trong
những tính cách cơ bản, đóng vai trò quan trọng giúp trẻ có thể bản lĩnh hơn, tự
tin hơn, vững vàng hơn, thành công hơn trong cuộc sống và đặc biệt là trẻ có thể
tự lo cho mình thật tốt dù không có bố mẹ, người lớn bên cạnh và những năm
bước vào học phổ thông hay gặp bất kỳ tính huống khó khăn nào.
Nhận thức được những yêu cầu của các kỹ năng đó tôi đã xây dựng kế
hoạch đặt ra mức độ đạt được ở từng giai đoạn, từng tháng để lồng ghép vào các
hoạt động của lớp vào cho phù hợp.

Tôi lập ra những danh sách, những việc làm mà trẻ có khả năng làm được
tùy thuộc vào từng trẻ và thời gian mức độ đạt được của trẻ như: dọn dẹp đồ
chơi sau khi chơi xong, sắp xếp lại các góc chơi trong lớp, tự làm vệ sinh cá
nhân như đánh răng sau khi ăn xong, lau miệng, uống nước, mặc quần áo khi
thấy lạnh và cởi quần áo khi thấy nóng, phụ giúp cô quét dọn lớp, lau bàn ăn,
sắp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp, dọn dẹp nhà cửa, gấp quần áo bỏ vào
tủ đồ cá nhân của mình.
Những nội dung trên được tôi đưa vào từng tháng để đưa ra các yêu cầu
đạt cho tháng đó và đặt yêu cầu rèn luyện cho những tháng tiếp theo. …
Dựa trên những yêu cầu cần đạt ở cuối mỗi độ tuổi mà chỉ đaọ giáo viên
lên kế hoạch lồng ghép giáo dục tính tự lập vào từng thời điểm trong ngày cho
phù hợp.
Ví dụ:
- Vào thời điểm đón trẻ tôi yêu cầu các con chào bố mẹ ông bà, chào cô
xong đi vào lớp cất, thay dép, bỏ mũ áo khẩu trang và tự mình cất túi đồ dùng cá
nhân vào tủ đồ của mình.
- Trong hoạt động thể dục sáng tôi yêu cầu trẻ thực hiện nhiệm vụ cất dép
để vào giá đặt ngay ngắn, biết cởi áo ấm (nếu mùa đông) gấp gọn gàng bỏ vào
ngăn tủ cá nhân để ra sân tập thể dục.
10


- Khi tổ chức hoạt động học, trẻ biết lấy và cất đồ dùng cùng cô, biết sắp
đặt ngay ngắn vào giá phụ giúp cô thu dọn đồ dùng học tập sau khi học xong.
- Khi chơi hoạt động ở các góc, trẻ cần biết lấy vào cất đồ dùng, đồ chơi
gọn gàng, bảo vệ, giữ gìn đồ dùng, đồ chơi.
- Trong khi ăn, trẻ biết phụ giúp cô dọn dẹp kê bàn ghế, lấy bát ăn, lấy
khăn ăn thìa và khăn ăn., ăn xong lấy khăn lau miệng, đánh răng rửa miệng, giúp
cô lau bàn ghế, quét phòng, ….
- Giờ ngủ trưa, cùng cô kê sạp ngủ, lấy chăn, gối, .. có ý thức giữ gìn trật

tự trước trong và sau giờ ngủ trưa, kê cất sạp gọn gàng, xếp gối gấp chăn xếp
vaò tủ cẩn thận…
- Sau khi chơi vào hoạt đồng chiều trẻ giúp cô kê sắp xếp lại bàn ghế, lau
dọn phòng lớp, lau kê lại các giá góc đồ chơi….
* Về công tác rèn luyện vệ sinh cá nhân cho trẻ tôi cũng đã xây dựng kế
hoạch rèn luyện cụ thể, rõ ràng và mức độ đạt được của từng giai đoạn để có thể
xay dựng kế hoạch rèn luyện cho giai đoạn tiếp theo. Cụ thể:
- Vệ sinh cá nhân: Trẻ biết thực hiện đúng quy trình thao tác rửa tay trên
vòi nước chảy. Tự mình rửa tay trước và sau khi ăn, sau mỗi lần đi vệ sinh, rửa
tay chân khi thấy mình bẩn…đánh răng lau miệng uống nước sau khi ăn.
- Biết sắp xếp đồ dùng cá nhân của mình trong tủ đồ và túi đồ cá nhân như
gấp quần áo khi thay ra, cất gọn gàng dép vào túi đồ cá nhân, biết cởi ra và bỏ
các đồ dùng tư trang của mình vào đúng ngăn cặp, đi và sắp dép đúng nơi quy
định.

Hình ảnh: Trẻ đang sắp dép và cởi quần áo cất đúng nơi quy định
* Về kỹ năng và các mối quan hệ xã hội tôi xây dựng kế hoạch rèn luyện
phù hợp vời chủ đề mà lớp đang thực hiện để rèn luyện tình cảm cá nhân và giáo
dục trẻ có tình cảm có thái độ tích cực với chủ đề đang học.

11


Hình ảnh: Trẻ đang vệ sinh đánh răng sau khi ăn xong và đi dép khi ra ngoài
Từ những yêu cầu với độ tuổi tôi lập kế hoạch rèn luyện tính tự lập bằng
cách xây dựng các thói quen lao động tự phục vụ mỗi tháng sau đó tôi nâng dần
mức độ rèn luyện và mức độ đạt được của trẻ và xây dựng thêm nội dung rèn
luyện.
Ví dụ:
Đầu năm học tháng 9,

Với nội dung cần rèn luyện tính tự lập thông qua giờ ăn tôi thực hiện như
sau.
+ Yêu cầu: Trẻ biết cùng cô kê bàn kê bàn trước và sau khi ăn, lấy bát thìa,
khăn ăn… bày xếp bàn ăn, tự chia thức ăn, giữ gìn vệ sinh trong khi ăn, có thói
quen nhặt cơm rơi vào đĩa, chào mời cô và các bạn, giúp đỡ các bạn yếu hơn ….
+ Biện pháp: Theo sự hướng dẫn và làm mẫu chỉ bảo của tôi, khuyến khích
trẻ làm việc cùng cô, cùng các bạn, sau đó nhận xét tuyên dương trẻ làm tốt
công việc và nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ chưa hoàn thành công việc được phân công
và còn chưa có thái độ tích cực với công việc của mình lần sau làm tốt hơn..…
+ Kết quả đạt được: 60,0%
+ Lên kế hoạch rèn luyện cho thời gian tiếp theo với kết quả đạt cao hơn so
với trước đó và nội dung với các kỹ năng tốt hơn:
Tiếp tục hướng dẫn khuyến khích trẻ chưa thường xuyên thực hiện kế hoạch
lao động cùng cô, cùng các bạn.
(Tuyên dương sự tiến bộ của trẻ so với chính trẻ của ngày trước đó)
Tôi đưa ra và yêu cầu trẻ phải hoàn thành công việc được giao để trẻ cảm
thấy là mình đã lớn và tất cả các trẻ phải cùng làm việc cùng phụ giúp lẫn nhau
để hoàn thành công việc. Yêu cầu tập thể và mức độ cao, tôi đưa ra một số công
việc có mức độ khó khăn cao để thử thách trẻ.
Tóm lại: Việc chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo trước khi vào trường Tiểu học
được tôi tiến hành thường xuyên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp
thông qua các trò chơi hay các hoạt động hấp dẫn mà trẻ yêu thích.
12


Tôi luôn phải tự nhủ bản thân mình cần tránh nôn nóng, áp đặt trẻ học
trước những gì mà trẻ được tiếp thu một cách bài bản ở trường tiểu học sau này .
2.3.3 Biện pháp 3: Cho trẻ bước đầu làm quen kĩ năng cầm bút, tập
lật giở sách, tư thế ngồi đọc, viết...
* Chuẩn bị cho việc học đọc sau này của trẻ

Tôi luôn nghĩ mục đích của việc bước đầu cho trẻ làm quen với chữ cái là
giúp trẻ nhận được mặt chữ, cách phát âm chính xác từng chữ cái. Trên cơ sở đó
trẻ thích ứng được với tập đọc, tập viết ở lớp một. Ngay từ đầu năm học, tôi đã
xây dựng kế hoạch, lựa chọn hình thức cho trẻ làm quen chữ cái một cách thích
hợp. Tôi sử dụng các trò chơi, nhất là trò chơi lô tô, tranh ảnh có chứa từ, chữ
cái, sử dụng các trò chơi trên máy tính cho trẻ làm quen với việc đọc, cầm bút
viết. Tôi còn cho trẻ làm quen với chữ cái trong các hoạt động giáo dục theo
chương trình Giáo dục do Bộ GD&ĐT ban hành.
Hướng dẫn trẻ làm quen cách đọc các từ, câu đơn giản như hướng dẫn trẻ
tìm ký hiệu chữ trong bảng danh sách lớp, gọi tên một số đồ vật được ghi trên
những đồ dùng cá nhân, bảng chữ ghi tên đồ vật thường dùng (như bút chì, giấy,
góc sách, vở bài tập của trẻ...)
Tôi thường xuyên đọc sách cho trẻ nghe, khi đọc cho trẻ nghe, tôi cho trẻ
ngồi cùng hướng với cô, khi trẻ nghe và nhìn cách cô đọc sách trẻ có thể học
được những kiến thức từ nội dung sách, cách sử dụng sách và nguyên tắc đọc,
hướng dẫn trẻ ý thức giữ gìn và bảo vệ sách. Tôi lựa chọn những sách có hình
ảnh sinh động ở ngoài bìa nhằm gây hứng thú cho trẻ đối với sách. Từ việc đọc
sách trẻ nhận ra các từ mới trong truyện, mong muốn được đọc truyện.

Hình ảnh: Cô và trẻ cùng xem sách
13


Thông qua việc đọc sách trẻ khám phá các ký hiệu và mẫu chữ khác nhau,
kích thích sự tò mò tìm hiểu các từ và chữ.
* Chuẩn bị cho việc học viết sau này của trẻ
Tôi thường xuyên tổ chức, lên kế hoạch các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi
như: tập đồ chữ, tập vẽ giúp trẻ làm quen với các nét cơ bản của chữ viết tiếng
việt và biết cách đưa nét tạo thành chữ viết, cũng từ đó tôi luyện được cho trẻ
cách cầm bút đúng, cầm sách đúng, cách mở sách, tư thế ngồi đúng…và biết

cách đưa nét tạo thành chữ viết.
Ngoài ra tôi còn tổ chức cho trẻ các trò chơi luyện ngón tay nhằm rèn
luyện vận động tinh và sự khéo léo của các ngón tay, sự phối hợp tay mắt như
chơi buộc dây, cài cúc, xếp hột hạt, chơi lăn bóng, chuyền bóng.
Khi trẻ chơi ở góc phân vai làm bác sĩ tôi thường chuẩn bị giấy bút cho trẻ
để trẻ dùng để viết ghi tên bệnh nhân, ghi thuốc cho bệnh nhân, góc bán hàng trẻ
dùng bút để ghi tên các mặt hàng, góc khám phá khoa học trẻ ghi lại các kết quả
nghiên cứu….đối với trẻ việc viết như thế chỉ là một vài nét bút không rõ chữ
nhưng đó chính là những hứng thú đầu tiên về chữ mà trẻ được thực hành trong
quá trình chơi bắt chước hành động của người lớn.
Ví dụ:
Trò chơi “Nắm tay tạo ra các kiểu chữ theo ý thích”
Bên cạnh đó, tôi cũng chú ý đến việc tổ chức các hoạt động tạo hình như:
vẽ tranh, nặn, xé dán, đồ, in hình, vò giấy,… đặc biệt các hoạt động có sử dụng
bút, giấy như làm sách, hoàn thiện bức tranh, làm các tấm thiệp chúc mừng với
nội dung về các ngày hội, ngày lễ.
Từ đó tôi luyện được sự khéo léo cho trẻ và cũng kết hợp đựơc những
dòng chữ tên đề tài của tranh và tên tác giả, tôi khuyến khích trẻ khi vẽ xong bài
của mình thì kí tên mình vào góc trái của bức tranh để ghi lại sản phẩm sau đó
mới treo tranh trẻ lên. Sau mỗi lần như vậy tôi quan sát thấy trẻ rất hứng thú với
việc kí tên sau mỗi lần hoàn thành xong sản phẩm, có số ít trẻ còn có thể viết
được rõ tên mình lên giấy.

Hình ảnh: Giờ hoạt động tạo hình của trẻ
14


Trong quá trình giáo dục, tôi thường khơi gợi ở trẻ lòng mong mỏi, háo
hức được đi học.
Ví dụ: Qua hoạt động vui chơi, học tập, lao động, trò chuyện với trẻ về

sự hiểu biết của trẻ các nghề, hỏi cháu lớn lên con thích làm nghề gì: bác sỹ, cô
giáo, kỹ sư…và nhấn mạnh với trẻ muốn làm được những nghề đó các con phải
đi học. Qua việc đọc cho trẻ nghe các mẩu chuyện về thầy trò, về những người
bạn ở trường phổ thông, tôi giúp trẻ hiểu biết về trường Tiểu học, về nhiệm vụ
của học sinh lớp một, mối quan hệ xã hội trong trường Tiểu học, những yêu cầu
của nhà trường... Qua những hoạt động này, các cháu được làm quen, tiếp xúc
với các hoạt động ở trường Tiểu học, với quan hệ xã hội và nhiệm vụ của mỗi cá
nhân trong trường….dần dần hình thành ở các cháu tâm lý muốn được học tập ở
trường Tiểu học.
2.3.4. Biện pháp 4: Phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc thực hiện
mục tiêu giáo dục trẻ
Thời điểm bắt đầu vào lớp một là một giai đoạn chuyển biến rất lớn từ
môi trường vui chơi là chủ đạo sang giai đoạn học là chủ đạo. Sự thay đổi này
dễ tác động đến tâm lý, nếu không được gia đình chuẩn bị chu đáo rất dễ tạo cho
các cháu cảm giác chán nản, lo sợ ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài cho cả quá
trình tiếp nhận kiến thức về sau. Trẻ học tốt trong năm đầu tiên ở trường Tiểu
học có ảnh hưởng tích cực cho những năm học sau đó, và sự chuẩn bị cho trẻ
vào lớp một không chỉ là việc của cô mà còn là của gia đình trẻ.
Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch phối hợp với phụ
huynh để chăm sóc, giáo dục trẻ, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Trao đổi, thống
nhất với gia đình về mục tiêu, nội dung, phương pháp, biện pháp, hình thức
chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Giải thích cho phụ huynh hiểu tầm quan trọng
việc cho trẻ 6 tuổi chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào trường Tiểu học. Sự chuẩn bị
này cần tập trung vào các mặt: thể chất, dinh dưỡng, nhận thức, ngôn ngữ, cảm
xúc, quan hệ xã hội, động cơ học tập. Việc chuẩn bị này không phải tập trung
vào kỹ năng học tập (viết, đọc) mà là phát triển các chức năng tâm lý đảm bảo
cho việc học.
Lựa chọn nội dung tuyên truyền cho phụ huynh là một trong những nhiệm
vụ được tôi rất chú trọng quan tâm vì tôi luôn nghĩ rằng phụ huynh là trợ thủ đắc
lực trong việc chăm sóc, nuôi dạy trẻ. Vì thế bản thân tôi thường xuyên trao đổi

với phụ huynh về tình hình học tập và vui chơi của trẻ ở lớp, những gì mà trẻ
quan tâm... Tôi trao đổi cho phụ huynh hiểu và ủng hộ những gì mà tôi đã chuẩn
bị tâm thế cho trẻ vào trường tiểu học.
Tôi luôn nhấn mạnh cho phụ huynh biết rằng khi trẻ được tới trường
mầm non để học thì có thể nói hầu hết trẻ đã hoàn thành chương trình mẫu giáo
5 tuổi, đều đạt được các chuẩn phát triển nói trên ở mức cơ bản, tối thiểu.
Song từ đó, tôi cũng giải thích cho phụ huynh biết rằng do đặc điểm phát
triển và môi trường sống cụ thể của từng trẻ khác nhau nên mức độ và sự hoàn
thiện trong từng lĩnh vực luôn có sự khác biệt. Bởi vậy, các bậc phụ huynh rất
cần tìm hiểu các chỉ số cơ bản trong “Bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi” từ
đó mà các phụ huynh cần phải biết và kết hợp cung với cô giáo để giúp con
15


mình bổ sung phát triển hoàn thiện những chỉ số quan trọng chuẩn bị cho hoạt
động học tập ở lớp một.
Để giải thích cho một số phụ huynh nôn nóng, mong muốn cho con học
trước chương trình, tôi thường xuyên giải thích cho phụ huynh hiểu rằng ở
trường mầm non chuẩn bị cho trẻ vào lớp một bằng chương trình dạy làm quen
với chữ cái và con số. Học chữ ở tuổi mầm non chỉ tạo nền tảng bước đầu, vào
lớp một trẻ mới thực sự được dạy theo chương trình đúng chuẩn. Mục đích giáo
dục mầm non là chăm sóc, nuôi dưỡng, tổ chức hoạt động vui chơi. Các cô giáo
mầm non cũng không có chức năng và nhiệm vụ dạy học cho trẻ như các cô giáo
lớp một.
Đồng thời tôi còn nhắc nhở phụ huynh kết hợp cùng với cô giáo giúp trẻ
có những kĩ năng sống tốt nhất. Bởi khi bước vào trường tiểu học vấn đề kĩ năng
sống cho trẻ rất quan trọng. Vì thế tôi thường xuyên liên lạc với phụ huynh qua
góc tuyên truyền của lớp “Cha mẹ cần biết” để phụ huynh hiểu được các kĩ
năng học tập, lao động tự phục vụ bản thân của trẻ qua các chủ đề trong năm học
và từ đó giúp họ hiểu hơn về công tác chuẩn bị để sẵn sàng cho trẻ vào lớp một.

2.4. Hiệu quả đạt được
Trong quá trình tổ chức các hoạt động hàng ngày nhằm tạo tâm thế cho
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non Đông Anh chuẩn bị vào lớp một. Bằng
các biện pháp cụ thể mà tôi đã thực hiện, chất lượng hiệu quả có những chuyển
biến rõ nét.
Kết quả khảo sát thực trạng vào thời điểm tháng 2/2018 như sau:

Nội dung đánh giá

Tâm thế trẻ tự tin thể
hiện rõ mong muốn
trước chỗ đông người.
Trẻ có nề nếp, kỷ luật tốt
trong việc tham gia các
hoạt động.
Kỹ năng tự phục vụ của
trẻ
Khả năng tư duy, giải
quyết nhanh nhẹn mọi
vấn đề
Kỹ năng tốt khi thực
hiện làm quen với chữ
viết

Tổng
số
trẻ
30

Kết quả đầu năm

Kết quả cuối năm
Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
trẻ
%
trẻ
% trẻ %
trẻ
%
15 50,0 15 50,0 30 100
0

30

20

67,0

10

33,0

30

100

0


30

10

33,0

20

67,0

30

100

0

30

17

57,0

13

43,0

30

100


0

30

10

33,0

20

67,0

30

100

0

16


* Nhận xét: Nhìn vào bảng kết quả khảo sát cuối năm tôi thấy chất lượng
ở từng nội dung được nâng lên một cách rõ rệt. 100% các nội dung đều đạt ở
mức tốt. Cụ thể như sau:
Nội dung 1: Đánh giá sự mạnh dạn, tự tin thể hiện rõ mong muốn trước
chỗ đông người của trẻ.
Tỷ lệ đạt 100% tăng 50,0% so với đầu năm.
Nội dung 2: Trẻ có nề nếp, kỷ luật khi tham gia các hoạt động tại lớp. Tỷ
lệ đạt 100% tăng 33,0% so với đầu năm.

Nội dung 3: Kỹ năng tự phục vụ của trẻ tốt trẻ biết tự phục vụ bản thân.
Tỷ lệ đạt 100% tăng 67,0% so với đầu năm.
Nội dung 4: Khả năng tư duy, giải quyết mọi vấn đề của trẻ tốt. Tỷ lệ đạt
100% tăng 43,0% so với đầu năm.
Nội dung 5: Kỹ năng thực hiện làm quen với chữ viết, tỷ lệ đạt 100%
tăng 67,0% so với đầu năm.
Ngoài những kết quả nêu trên còn rất nhiều trẻ đến cuối năm học đã
mạnh dạn, nhanh nhẹn và tự tin hơn rất nhiều.
Điều đáng mừng là trẻ rất hứng thú tham gia các hoạt động và với kết quả
đạt được như vậy phụ huynh rất nhiệt tình ủng hộ tôi trong mọi lĩnh vực công
tác để chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào trường tiểu học.
Trong quá trình giáo dục, tôi thường khơi gợi ở trẻ lòng mong mỏi, háo
hức được đi học. Qua các hoạt động vui chơi, học tập, lao động, trò chuyện với
trẻ về sự hiểu biết của trẻ các nghề, hỏi cháu lớn lên con thích làm nghề gì: bác
sỹ, cô giáo, kỹ sư…và nhấn mạnh với trẻ muốn làm được những nghề đó các
con phải đi học.
Qua trò chơi đóng vai có chủ đề, qua tham quan lớp học ở trường Tiểu
học, tôi giúp trẻ hiểu biết về trường Tiểu học, về nhiệm vụ của học sinh lớp một,
mối quan hệ xã hội trong trường Tiểu học, những yêu cầu của nhà trường. Qua
những hoạt động này, các cháu được làm quen, tiếp xúc với các hoạt động ở
trường Tiểu học, với quan hệ xã hội và nhiệm vụ của mỗi cá nhân trong
trường….
* Đối với phụ huynh
Tạo được niềm tin với phụ huynh khi gửi gắm con mình cho các cô tại
trường.
Yên tâm vì con đã có những hành trang ban đầu để vững dước vào trường
Tiểu học.
* Đối với cô
Qua quá trình thực hiện tôi thấy mình được nâng cao hơn về chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm cũng như phương pháp giảng dạy, đặc biệt là biện pháp

giảng dạy trẻ linh hoạt, sáng tạo, tự tin hơn.
Bản thân cũng tích lũy dược nhiều kinh nghiệm trong việc chuẩn bị hành
trang cho trẻ lớp Lớn vào trường Tiểu học.
Mặt khác tôi còn nắm bắt và hiểu rõ hơn về tâm sinh lý của trẻ theo lứa
tuổi để từ đó có thể dễ dàng giúp trẻ những sớm thích nghi với môi trường học
tập mới.
17


3. KẾT LUẬN
Chuẩn bị về mặt thể lực cho trẻ không đơn thuần là sự chuẩn bị về lượng
(nghĩa là phát triển chiều cao và trọng lượng cơ thể) mà còn là sự chuẩn bị về
chất (nghĩa là về năng lực làm việc bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt
mỏi của thần kinh, cơ bắp, độ khéo léo của bàn tay, tính nhanh nhạy của các
giác quan)…
Cho trẻ bước đầu làm quen với chữ cái là nhiệm vụ quan trọng trong việc
chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
Nhiệm vụ của giáo viên là vô cùng quan trọng trong việc chuẩn bị hành
trang cho trẻ vào trường tiểu học, cô luôn tạo điều kiện rèn luyện một số kĩ năng
cơ bản của hoạt động học tập cần thiết như giúp trẻ: cách cầm bút, tư thế
viết…nhằm giúp trẻ thích ứng với hoạt động học tập mới, tránh được những bỡ
ngỡ ban đầu dễ gây cho trẻ cảm giác sợ sệt, thiếu tự tin. Để đạt được hiệu quả
cần tạo điều kiện cho trẻ làm quen dần với môi trường học tập như: bố trí bàn
ghế cho trẻ ngồi học, cung cấp và cho trẻ tiếp xúc thường xuyên với sách,
truyện, bút, thước…hướng dẫn trẻ sử dụng các dụng cụ học tập đó như thế nào
cho đúng thông qua việc làm mẫu, quan sát và uốn nắn trực tiếp cho trẻ.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi nghiên cứu về "Một
số biện pháp nhằm giúp trẻ mẫu giáo Lớn 5-6 tuổi Trường mầm non Thị trấn
Rừng Thông, huyện Đông Sơn chuẩn bị tâm thế tốt để vào trường Tiểu học "
mà tôi đã rút ra được từ trong quá trình giảng dạy. Rất mong nhận được sự góp

ý, nhận xét của hội đồng khoa học các cấp để bản thân tôi có được những kinh
nghiệm quý báu trong việc chăm sóc giáo dục nuôi dưỡng trẻ được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HĐKH CẤP TRƯỜNG

SKKN Xếp loại: ..............
CT HĐKH

HIỆU TRƯỞNG
Cao Thị Hường

Đông Sơn, ngày 26 tháng 2 năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Vũ Thị Thủy

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BCH Trung ương Đảng khóa XI, Nghị quyết lần thứ 6, chiến lược phát triển
KT- XH giai đoạn 2010 - 2020
2. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ 5-6 tuổi.
3. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, Tuyển tập thơ ca, truyện kể, câu đố cho trẻ
mầm non

4. Nguyễn Thị Ánh Tuyết-Vụ Giáo dục Mầm non, Ngôn ngữ và sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ theo độ tuổi
5. Vụ Giáo dục Mầm non-Tâm lý học trẻ em, Sẵn sàng cho trẻ vào lớp một,
những điều cha mẹ trẻ nên quan tâm.
6. Theo giáo sư - tiến sĩ Vũ Gia Hiền

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SKKN
NGÀNH GD&ĐT HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:
Vũ Thị Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường mầm non TT Rừng Thông

TT
1.

2.

Cấp đánh giá
Kết quả
xếp loại
đánh giá
Tên đề tài SKKN
(Ngành GD cấp xếp loại (A,
huyện, tỉnh)

B, hoặc C)
Hướng dẫn làm đồ dùng đồ
Cấp tỉnh
Loại C
chơi bằng nguyên vật liệu
phế thải cho trẻ ở lớp mẫu
giáo Lớn A, trường mầm non
thị trấn Rừng Thông, huyện
Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Một số biện pháp nhằm giúp
trẻ mẫu giáo Lớn 5-6 tuổi
Trường mầm non Thị trấn
Rừng Thông, huyện Đông
Sơn chuẩn bị tâm thế tốt để
vào trường Tiểu học

Năm học
đánh giá xếp
loại
Năm học
2014-2015

Năm học
2017 - 2018
XL A cấp
trường gửi
huyện

20




×