Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Một số bất cập trong Công tác thu bảo hiểm xã hội – nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.23 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội là một chính sách trong hệ thống An sinh xã hội, nó là
sự cần thiết khách quan của bất kỳ quốc gia nào. Đối với Việt Nam Chính
sách bảo hiểm xã hội đã được Đảng ta hoạch định từ lâu, nhưng việc triển
khai còn muộn. Khi bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường hội nhập với
kinh tế thế giới và khu vực nhiều vấn đề nảy sinh và cần sự hoạch định chính
sách. Trong những vấn đề đó là chính sách xã hội, cụ thể là Bảo hiểm xã hội.
Qua hơn 30 năm thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội, chúng ta đã đạt được
một số thành tựu song cũng không thể tránh được những tồn tại. Chúng ta
phải biết nhìn thẳng vào những tồn tại mà khắc phục, không được né tránh
hay giải quyết một cách qua loa, đại khái. Làm sao cho chính sách Bảo hiểm
xã hội thể hiện là cơng cụ bảo vệ hữu hiệu nhất đối vói người lao động. Đồng
thời cũng thể hiện tính ưu việt của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Một
xã hội của dân do dân và vì dân.
Từ khi tách Quỹ Bảo hiểm xã hội ra khỏi Ngân sách nhà nước, tiến hành
thu phần đóng góp của nguời lao động và người sử dụng lao động. Công tác
thu trở lên vô cùng quan trọng. Để thực hiện tốt các chế độ trong Bảo hiểm xã
hội thì Cơng tác thu phải thực hiện tốt hay có thu tốt thì chi mới đủ. Vì vậy em
chọn đề tài : “Một số bất cập trong Công tác thu bảo hiểm xã hội – nguyên
nhân và giải pháp” cho đề án mơn học của mình. Mục đích của đề tài này là
cho ta một cái nhìn tổng quát hơn về một số bất cập trong Công tác thu Bảo
hiểm xã hội, với những nguyên nhân và giải pháp đưa ra nhằm làm cho Công
tác thu trở lên hoàn thiện hơn. Mặc dù em chỉ đưa ra một khía cạnh trong
Chính sách Bảo hiểm xã hội nhưng qua đó mà có thể thấy được những bất cập
trong Chính sách Bảo hiểm xã hội. Với mong muốn chính sách cao đẹp này
của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, quyền lợi của người lao động ngày
càng được đảm bảo. Em xin chân thành cảm ơn cô Th.s Phạm Thị Định đã giúp
em hoàn thành đề án này. Do lý luận và thực tiễn cịn hạn chế nên khơng thể
tránh được những khiếm khuyết kính mong Cơ sửa và bổ xung cho đề tài được
tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn Cô.


1

NỘI DUNG
CHƯƠNG I .GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ

CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
I.Bảo hiểm xã hội ( BHXH )

1.BHXH là một chính sách của nhà nước.
BHXH hiện nay hầu hết được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới.
Song không phải ai cũng hiểu được BHXH là gì và thấy được sự cần thiết
khách quan của BHXH trong đời sống.
Trước hết, ta cần phải biết BHXH là một chính sách xã hội của nhà
nước, là bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống An sinh xã hội . Mà An sinh
xã hội thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái
của cộng đồng, thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.
Vậy An sinh xã hội là gì ? mà đặc biệt BHXH là gì?
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), An sinh xã hội là sự bảo vệ đối
với các thành viên của mình thơng qua một loạt biện pháp công cụ nhằm
chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội, do bị ngừng hoặc giảm thu
nhập gây ra bởi các rủi ro như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp,
tuổi già, chết, đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình
đơng con.
Còn BHXH được coi là xương sống của hệ thống An sinh xã hội. Nó là
sự bảo đảm thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ
gặp phải những rủi ro làm giảm, mất thu nhập do giảm, hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu...
Việc thực hiện BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro giữa
những người tham gia. Người tham gia gồm có người lao động, người sử
dụng lao động, và có sự hỗ trợ của nhà nước. An sinh xã hội cũng như BHXH

là sự cần thiết khách quan đối với bất kỳ xã hội nào. Nhưng tuỳ vào điều kiện
kinh tế xã hội của mỗi nước mà có hệ thống an sinh xã hội và thực hiện các

2

chế độ BHXH là khác nhau. Song nếu thực hiện được tốt các chế độ trong An
sinh xã hội, đặc biệt là thực hiện tốt các chế độ BHXH chính là điều kiện,
động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội và cơng bằng xã hội. Vì BHXH là chính
sách lớn của nhà nước nên nó được các nước rất quan tâm và thường có hẳn
một bộ luật riêng cho nó quy định rõ đối tượng tham gia, mức đóng và trách
nhiệm của các bên tham gia. Dù bất kỳ đất nước nào với chế độ chính trị như
thế nào đi chăng nữa thì BHXH vẫn ln thể hiên sự cần thiết khách quan của
nó trong đời sống. Nhiều nước BHXH được áp dụng một cách rộng rãi trong
xã hội, song cũng có nước việc áp dụng BHXH cịn rất hạn chế ví dụ như Việt
Nam. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm gì để BHXH đi vào cuộc sống của bất kỳ
người dân nào. Nhưng vấn đề này không phải là dễ song cũng khơng phải là
khơng có biện pháp, điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố song nhìn
chung yếu tố quan trọng nhất vẫn là quan niệm của nhà nước về vấn đề tuyên
truyền BHXH. Nếu chú trọng hơn việc này thì chắc chắn sẽ thu được kết quả
tốt hơn hiện tại.

Ta sẽ thấy rõ hơn tầm quan trọng của BHXH khi biết được nhiệm vụ,
vai trò và bản chất của nó.

2.Chức năng, vai trò, bản chất, nhiệm vụ của BHXH
2.1. Chức năng- vai trò của BHXH.
a.Chức năng.
BHXH không những có chức năng phân phối và giám đốc mà do nó có
tính đặc thù nên BHXH cịn có tính kinh tế – xã hội cao. Nhưng nhìn chung
BHXH có một số chức năng sau:

Thứ nhất: BHXH thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao
động hay mất việc làm do các nguyên nhân như ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, chết.v.v.. Bất kỳ ai sinh ra cũng phải lớn lên, già đi rồi chết. Muốn tồn
tại thì con người phải lao động nhưng lao động chỉ thực hiện khi cịn có khả

3

năng lao động, vậy còn lúc ốm đau hay về già thì sao. Người lao động tham
gia BHXH sẽ có thể an tâm sản xuất và không phải lo lắng về thu nhập khi
bất ngờ gặp rủi ro.

Thứ hai: BHXH tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa
những người tham gia BHXH. Tạo sự công bằng trong xã hội.

Ta đã biết đối tượng tham gia BHXH là người lao động , người sử dụng
lao động và có sự hỗ trợ một phần của nhà nước. BHXH sẽ tiến hành phân
phối lại giữa người giàu và người nghèo, người khoẻ mạnh và người ốm yếu
phải nghỉ việc....Từ đó tạo sự cơng bằng trong xã hội.

Thứ ba: góp phần kích thích người lao động hăng say sản xuất.
Khi mạnh khoẻ người lao động được trả lương cho cơng việc của
mình, khi rủi ro xảy ra người lao động được trợ cấp .Từ đó mà họ thấy được
sự quan tâm của mọi người đối với họ đặc biệt là người sử dụng lao động.Và
họ sẽ hăng say lao động hơn, kích thích sự sáng tạo là một trong những động
lực làm tăng năng suất lao động.
Thứ tư: BHXH gắn lợi ích của người lao động với lợi ích của người sử
dụng lao động và nhà nước.
Từ trước đến nay, người lao động và người sử dụng lao động ln có
mối quan hệ mâu thuẫn nội tại ở bên trong. Khi tham gia BHXH người lao

động hăng say sản suất, tăng năng suất lao dộng và đây chính là lợi ích của
người sử dụng lao động, nhà nước đã điều hồ mâu thuẫn nội tạng đó, bảo
đảm cho xã hội được đảm bảo, và thu thuế từ người sử dụng lao động dễ dàng
hơn.
Nhà nước khơng những thu được lợi ích kinh tế mà cịn thu được lợi
ích xã hội.
b.Vai trò.
Thứ nhất: Vai trò BHXH đối với người lao động, người sử dụng lao
động .

4

Từ những chức năng của BHXH đã nêu ở trên ta thấy việc người lao
động tham gia BHXH là thực sự cần thiết. Nó là điều kiện đảm bảo và bảo vệ
nguời lao động trước những rủi ro bất ngờ có thể xáy ra, giúp họ có thể ổn
định cuộc sống, yên tâm sản suất, tạo cho họ niềm tin vào tương lai và mọi
người xung quanh. Nói chung BHXH và nguời lao động khơng thể tách rời và
chỉ có BHXH là cơng cụ bảo vệ hữu hiệu nhất. Từ đó mà những người sử
dụng lao động có thể tăng năng suất và tăng lợi nhuận.

Thứ hai: Vai trò của BHXH đối với nhà nước và nền kinh tế – xã hội.
BHXH đã chứng minh sự cần thiết của mình bằng những gì mang đến
cho người lao động và người sử dụng lao đơng và đặc biệt hơn nó đảm bảo sự
ổn định trong từng tế bào của xã hội, làm cho xã hội ngày càng phát triển.
Không những thế nó cịn có vai trị trong việc phát triển nền kinh tế. Việc
tham gia BHXH đã huy động một quỹ tài chính tương đối lớn, nguồn tài
chính này sẽ được sử dụng để thực hiện các chế độ trong BHXH. Khi Quỹ
BHXH nhàn rỗi nó sẽ được đầu tư vào nền kinh tế. BHXH là một biện pháp
huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế.
2.2.Bản chất của BHXH.

Thực chất BHXH là sự đền bù hậu quả của những rủi ro xã hội. Sự đền
bù này được thực hiện thơng qua q trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập
chung hình thành do sự đóng góp cuả các bên tham gia nhằm đảm bảo an toàn
xã hội Như vậy bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất: BHXH là nhu cầu khách quan.
Qua nhiệm vụ và vai trò của BHXH ở trên, ta cũng đã thấy được
BHXH quan trọng như thế nào đối với cuộc sống. Nó khơng những là nhu cầu
khách quan của người lao động mà nó cịn là nhu cầu khách quan của xã hội.
Thứ hai: BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh khơng đồng đều theo thời
gian và không gian.

5

Các rủi ro là ngẫu nhiên trong cuộc sống theo thời gian và khơng gian
nên cũng có thể nói việc chi trả các chế độ BHXH cũng là ngẫu nhiên ( trừ
trường hợp tuổi già), vì vậy có thể coi BHXH là ngẫu nhiên

Thứ ba: BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời cịn
có tính dịch vụ.

Tính kinh tế, xã hội của BHXH đã được nêu ở trên. Ngồi ra BHXH
cịn mang tính dịch vụ ở chỗ. BHXH không phải là hoạt động sản xuất, muốn
được hưởng các chế độ BHXH thì người lao động phải đóng phí và tất nhiên
phải làm việc trong doanh nghiệp có đăng ký tham gia BHXH. Khi nền kinh
tế ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và xã hội hoá của BHXH ngày càng
cao.

2.3.Nhiệm vụ của BHXH.
Mỗi nước thực hiện các chế độ BHXH là khác nhau, nhưng nhìn chung
BHXH có những nhiệm vụ sau:

Chỉ đạo và thực hiện công tác thu BHXH, quản lý quỹ, thực hiện các
biện pháp nhằm tăng trưởng quỹ BHXH
Tổ chức chi trả các chế độ BHXH, tổ chức công tác thống kê, hạch
toán, kế toán việc thu, chi BHXH.
Thực hiện lưu giữ hồ sơ.
Có những kiến nghị, giải pháp về việc sửu đổi bổ xung về mức đóng,
mức hưởng và các quy định khác của BHXH.
Xây dựng bộ phận thông, tin tuyên truyền, giải thích BHXH đối với các
đối tượng tham gia.
Thường xuyên kiểm tra, kiện toàn tổ chức bộ máy, việc thu chi, nâng
cao trình độ cho cán bộ cơng nhân viên.
Có những biện pháp nhằm tăng số lượng lao động và số doanh nghiệp
tham gia BHXH.
II. Quỹ BHXH.

6

1.Nguồn hình thành.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập nằm ngồi Ngân sách nhà nước.
Nó được hình thành từ các nguồn sau:
Thứ nhất là do sự đóng góp của người sử dụng lao động ( thường căn
cứ vào tổng quỹ lương).
Thứ hai là do sự đóng góp của người lao động ( thường căn cứ vào
lương tháng).
Thứ ba là do sự đóng góp và hỗ trợ thêm của nhà nước.
Thứ tư là các nguồn khác ( lãi đầu tư , các tổ chức từ thiện ...)
Tuỳ vào điều kiện kinh tế – xã hội và tập quán của mỗi nước mà có
những mức đóng góp là khác nhau.
Ví dụ:
Việt Nam. người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ lương.

Người lao động đóng 5% lương tháng. Nhà nước đóng cho các cán bộ cơng
nhân viên chức trong cơ quan nhà nước và hỗ trợ ( bù thiếu, đảm bảo thực
hiện một số chế độ ...).
Cộng hoà liên bang Đức. Người sử dụng lao dộng đóng 16,3% đến
22,6% so với tổng quỹ lương. Người lao động đóng14,8% đến 18,8% lương
tháng. Nhà nước tiến hành bù thiếu.
Malaxia. Người sử dụng lao động đóng 12,75% so với tổng quỹ lương.
Người lao động đóng 9,5% lương tháng. Nhà nước chi toàn bộ chế độ ốm
đau, thai sản.
Việt Nam, hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng
BHXH theo quy định và trích từ tiền lương của người lao động nộp cho cơ
quan BHXH. Tiền lương tháng của người lao động làm căn cứ để đóng
BHXH gồm lương gạch bậc, chức vụ, hợp đồng, và các khoản phụ cấp khu
vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu ( nếu có ). Ngồi ra
hàng tháng bộ tài chính trích từ ngân sách nhà nước số tiền chuyển vào quỹ

7

BHXH đủ chi cho các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất, bảo hiểm y tế, của những người lao động
thuộc khu vực nhà nước.

Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của nhà
nước, hạch tốn độc lập và được nhà nước bảo hộ. Việc quản lý Quỹ BHXH,
có sự phân cấp việc thu đóng do bộ phận thu của mỗi cấp đảm nhiệm và chịu
trách nhiệm toàn diện sau đó sẽ được tập trung quản lý thống nhất theo chế độ
quản lý tài chính của nhà nước.

2. Mục đích sử dụng quỹ.
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của Tổ chức lao

động quốc tế ( ILO) thì quỹ BHXH dùng để trợ cấp cho 9 chế độ.

1) Chăm sóc y tế.
2) Trợ cấp ốm đau.
3) Trợ cấp thất nghiệp.
4) Trợ cấp tuổi già.
5) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
6) Trợ cấp gia đình.
7) Trợ cấp sinh đẻ.
8) Trợ cấp khi tàn phế.
9) Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi
dưỡng).
Tuỳ vào điều kiện của mỗi nước mà có thể tham gia những điều kiện
gì, nhưng ít nhất phải có một trong năm chế độ là: 3,4,5,8,9.
Việt Nam thực hiện năm chế độ đó là :
1) Trợ cấp ốm đau.
2) Trợ cấp thai sản.
3) Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
4) Trợ cấp hưu, mất sức lao động.

8

5) Trợ cấp tử tuất.
Để xét hưởng BHXH cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có: Thời
gian đóng BHXH, khả năng thanh tốn của quỹ, mức sống của dân cư, lương
của người lao động, lương tối thiểu theo quy định của nhà nước...Tuy nhiên
mức hưởng không cao hơn so với tiền lương của nguời lao động khi họ đang
làm việc.
Ngồi ra quỹ BHXH cịn dùng để chi trả cho chi phí quản lý hành
chính, Phần nhàn rỗi dùng để đầu tư vào nền kinh tế nhằm sinh lời đảm bảo

và tăng trưởng quỹ. Việt Nam, quỹ BHXH được giao cho cơ quan BHXH
Việt Nam quản lý thu chi được thực hiện thông qua việc cấp phát sổ BHXH.
Việc đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH phải giải quyết tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, phải xác định rõ nguồn đầu tư.
Thứ hai, quy định rõ từng danh mục đầu tư và hạn mức đầu tư cho
từng danh mục phải đảm bảo anh toàn và đảm bảo tăng trưởng Quỹ.
Thứ ba, không hạn chế ở danh mục đầu tư có thể mở rộng ra thêm các
danh mục đầu tư trong nền kinh tế có nghĩa là đa dạng hố danh mục đầu tư.
Thứ tư, phải phân tích dự án đầu tư một cách kỹ lưỡng và chắc chắn và
thành lập một bộ phận chuyên chịu trác nhiệm về hoạt động đầu tư tăng tưởng
Quỹ.
II. vai trị của cơng tác thu BHXH.
BHXH là chính sách lớn của nhà nước, việc chi trả các chế độ trong
BHXH dựa trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro của những người tham gia và
nguyên tắc có đóng mới có hưởng. Việc thu BHXH là cần thiết khách quan.
Nhìn chung về ngun tắc thì cơng tác thu BHXH có một số vai trò sau:
1. Thu BHXH của những người tham gia để tạo ra một quỹ tài chính
tập chung để chi trả cho các chế độ trong BHXH, chi phí quản lý hành chính,
và các chi phí khác có liên quan. Vậy thu BHXH là điều kiện để thực hiện

9

chính sách BHXH. Có thu tốt thì việc chi trả mới đạt hiệu quả. Từ đó kéo theo
những lợi ích của BHXH mang lại đối với nền kinh tế-xã hội.

2. Từ việc xác định dự toán thu, mức thu, biện pháp thu phù hợp, phạm
vi các đối tượng tham gia làm sao để đảm bảo thu đủ chi và quỹ BHXH ngày
càng được mở. Để thực hiện công việc này BHXH phải dựa vào các số liệu
như số doanh nghiệp, số lao động, mức tăng trưởng kinh tế, tiền lương tối
thiểu, mức sống của dân cư...Đặc biệt ở Việt Nam, Công tác thu được triển

khai đã dần dần xoá bỏ sự ỷ lại, giảm gánh nặng cho Ngân sách nhà nước.

3. Cung cấp số liệu thống kê cho các cơ quan quản lý nhà nước và cơ
quan quản lý cấp trên từ đó có căn cứ khoa học để phân tích sự biến động, Cơ
cấu của các đối tượng tham gia BHXH và có những chính sách hợp lý như
mức đóng, mức hưởng, cơng tác quản lý, kiểm tra, kiện toàn bộ máy...

BHXH là chính sách xã hội của nhà nước, Công tác thu đảm bảo cho
BHXH được thực thi vì vậy Cơng tác thu là nền cho BHXH phát triển và
trưởng thành.Thu BHXH là cần thiết khách quan cũng như chính sách BHXH
vậy.

10

CHƯƠNG II . THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH Ở VIỆT NAM
I.Giới thiệu chung về BHXH ở việt nam.

Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến các chế độ trong an sinh
xã hội đặc biệt là chính sách BHXH và ln tạo điều kiện để BHXH phát
triển. Sự phát triển của BHXH có thể chia làm hai giai đoạn.

1.Giai đoạn trước năm 1995.
Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành cơng. Đảng đã có
một số sắc lệnh về BHXH cho cán bộ công chức viên chức nhà nước. Song vì
điều kiện đất nước ta cịn đang chiến tranh cho nên khơng có điều kiện thực
hiện. Mãi ngày 27 tháng 12 năm 1961 Chính Phủ mới có nghị định số 218/CP
ban hành kèm theo điều lệ BHXH tạm thời áp dụng cho cán bộ công nhân
viên chức nhà nước, với các chế độ như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, mất sức lao dộng, hưu trí và tử tuất.
Trong hơn 30 năm ( 1961- 1993) thực hiện BHXH theo điều lệ tạm

thời, Chính Phủ đã sửa đổi bổ xung rất nhiều lần. Song chính sách BHXH vẫn
mang nặng tính bao cấp, đối tượng tham gia BHXH chỉ là cán bộ nhà nước
không được mở rộng đến người lao dộng trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Chưa xây dựng quỹ BHXH, mọi thu chi BHXH phụ thuộc vào Ngân
sách nhà nước, cơ chế quản lý phân tán chưa tập chung thống nhất, điều này

11

thể hiện ở việc BHXH được quản lý bởi hai cơ quan đó là Tổng cơng đồn
Việt Nam (hiện nay gọi là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) quản lý quỹ
BHXH ngắn hạn, Bộ lao động thương binh xã hội quản lý quỹ dài hạn. Tất cả
các khoản chi đều lấy từ Ngân sách nhà nước, mà đối tượng được hưởng
ngày càng tăng lên do đó đã tạo gánh nặng cho Ngân sách nhà nước.

2. Giai đoạn từ 1995 đến nay.
Năm 1995 với sự ra đời của bộ luật lao động đánh dấu một bước

phát triển mới về các vấn dề lao động. Các quy định về BHXH như đối tượng
tham gia, mức đóng, trách nhiệm đóng của người lao động và người sử dụng
lao động, các chế độ BHXH, quỹ BHXH... được quy định khá rõ.

Ngày 26 tháng 1 năm 1995 Chính Phủ ban hành điều lệ BHXH
bắt buộc kèm theo nghị định 12/CP áp dụnh cho công nhân viên chức nhà
nước và các doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên và điều lệ
BHXH kèm theo nghị định 45/CP áp dụng cho sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp...

Theo nghị định 19/CP ngày 19 tháng 2 năm 1995 của Chính Phủ,
thì BHXH sẽ được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính Phủ, sự quản lý
nhà nước của Bộ lao động thương binh và xã hội, các cơ quan quản lý nhà

nước có liên quan, và sự giám sát của Tổ chức công đồn. Theo đó việc thực
hiện BHXH theo nghị định mới tạo lên những nét thay đổi mới trong BHXH
Việt Nam đó là đối tượng BHXH được mở rộng đến người lao động làm công
ăn lương trong các doanh nghiệp quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên,
quỹ BHXH tập chung đã được hình thành, với ngun tắc có đóng mới có
hưởng đã xố bỏ tư tưởng ỷ lại vào Ngân sách nhà nước. Với chính sách
BHXH thống nhất đã tạo được sự công bằng giữa những người lao động làm
việc ở các thành phần kinh tế. Vì việc dựa vào lương để xác định mức đóng
BHXH chỉ có thể áp dụng đối với những người lao động làm công ăn lương.
Việt Nam tỉ lệ lao động tự do rất nhiều, lương không thể xác định theo tháng

12

vì vậy để thực hiện chính sách BHXH đối với tất cả những người lao động là
rất khó.

Điều đáng ghi nhận là năm 1996 BHXH tiến hành cấp phát sổ
BHXH cho người lao động. Nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia,
tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo sự công bằng cho người lao động, sổ
BHXH còn là cơ sơ để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa người lao
động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH.

Năm 2003, khi triển khai thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP
Ngày 9 tháng 1 năm 2003 của Chính Phủ, áp dụng đối với các doanh nghiệp
có từ một lao động trở lên đã mở rộng được đối tượng tham gia song vì các
doanh nghiệp từ mười lao động trở xuống ít có tổ chức đồn thể do bận sản
xuất kinh doanh khó có thể tập hợp lại để phổ biến Nghị định mới. Trong thời
gian sắp tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ : Khẩn
trương mở rộng hệ thống BHXH và An sinh xã hội . Sớm xây dựng và thực
hiện các chính sách xã hội đối với người lao động thất nghiệp... Việt Nam

đang có chủ chương tiến tới BHXH tự nguyện. Do vậy nhiệm vụ của Cơ quan
BHXH trong thời gian tới rất nặng lề.
II. Thực trạng công tác thu ở việt nam.

Bàn về công tác thu BHXH ở Việt Nam ta cần phải nói đến những tồn
tại và thuận lợi của cơng tác thu BHXH một vài năm qua. Từ đó nhìn một các
tổng quan ta mới thấy được những gì BHXH đã, đang làm được và tương lai
cần phải làm gì tất nhiên chỉ trên một khía cạnh đó là công tác thu BHXH mà
thôi.

Ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm
1995 chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 1 năm 1995
về điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế. BHXH
lúc này đã có những bước chuyển biến rõ rệt. Bằng sự nỗ lực cố gắng của
lãnh đạo và tồn thể cán bộ, cơng chức viên chức BHXH đã đạt được những

13

kết quả quan trọng, trong đó đặc biệt là cơng tác thu BHXH. Do đối tượng
tham gia BHXH từng bước được mở rộng cho nên số thu BHXH tăng nhanh
qua từng năm. Năm 2002 số thu BHXH gấp ba lần số thu năm 1996. Năm
2003 đã thu được 11.470 tỷ đồng bằng 101,4 % kế hoạch đề ra, số lao động
tham gia tăng 9,1 % so với năm 2002. Sáu tháng đầu năm 2004 toàn ngành đã
thu được 4.600 tỷ đồng tăng so với cùng kỳ năm trước là 4,2 % bằng 183 tỷ
đồng. Dự tính đến năm 2022 Quỹ BHXH ngày càng tăng trưởng và tích luỹ
lớn. Số người tham gia ngày càng tăng lên như vậy thì dự tính Quỹ BHXH sẽ
có số dư khoảng 200.000 tỷ vào năm 2022. Sau khi thực hiện cơ chế mới
Công tác thu BHXH rõ ràng đã được tổ chức tốt và có hiệu quả hơn. Nhiều
doanh nghiệp đã nâng cao được ý thức nộp BHXH.


Đã từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ bản đáp ứng được
những yêu cầu ngày càng cao của BHXH cũng như công tác thu. Việc quản lý
Quỹ BHXH tập chung thống nhất phù hợp với đường lối đổi mới của của
Đảng và Nhà Nước phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta.

Thuận lợi như vậy nhưng bất cập cũng không phải là không có.
Theo dự tốn Ngân sách năm 2003 BHXH các tỉnh , thành phố và các
khối lực lượng vũ trang với tổng thu là 11.345 tỷ đồng. Sau ba quý triển khai
thực hiện toàn quốc mới đạt 60 % kế hoạch thấp hơn năm 2002 gần 5 %.
Theo báo cáo tổng hợp của BHXH các tỉnh và thành phố đến ngày 31 tháng 7
năm 2003 toàn ngành thu được 5.002.309 triệu đồng đạt 45,4 % kế hoạch năm
giảm 6,4% so với cùng kỳ năm 2002. Trong đó có 57 tỉnh và thành phố tỷ lệ
thu BHXH giảm so với cùng kỳ năm 2002. Có 8 đơn vị giảm từ 10 đến 20 %.
Nhiều nơi có ý kiến cho rằng dự tốn thu là khá cao, và việc thực hiện nghiêm
chỉnh ngay từ đầu của các cán bộ vào đầu năm không được tốt đến khi cuối
năm mới chạy theo kế hoạch, phải chăng như vậy đã muộn.
Đặc biệt vấn đề trốn nợ đọng BHXH ở các doanh nghiệp ngồi quốc
doanh cịn rất phổ biến. Theo thống kê năm 2003 cả nước có khoảng 50.000

14

doanh nghiệp ngoài quốc doanh với số lao động khoảng 1,5 vạn lao động.
Tuy nhiên hiện nay chỉ có hơn 7000 doanh nghiệp tham gia BHXH chiếm
khoảng 15 %. Chưa có nơi nào thu được 100 % trừ khu vực cán bộ cơng chức
nhà nước, cịn các doanh nghiệp tỷ lệ đóng BHXH cao nhất cũng chỉ đạt 80
đến 90 %. Tính đến cuối năm 2002 số tiền nợ đọng BHXH của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh lên tới 33 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp vẫn trích
lương của người lao động song lại không nộp lên cơ quan BHXH nhằm chiếm
dụng số tiền đó. Hiện nay vẫn chưa có biện pháp để phát hiện và xử lý những
trường hợp vi phạm nói trên. Cơng tác tun truyền về BHXH trong doanh

nghiệp chưa được thực hiện, hầu như phần lớn người lao động và chủ sử dụng
lao động khơng có hiểu biết gì về BHXH cho nên vẫn cịn trốn tránh trách
nhiệm đóng BHXH.

Một số địa phương việc quản lý cịn mang nặng tính hình thức, giải
quyết cơng việc khơng triệt để. Lãnh đạo tỉnh chưa thực sự quan tâm đến
công tác thu BHXH . Cán bộ BHXH tiếp cận đến các doanh nghiệp chưa kịp
thời và thiếu đồng bộ...

Việc hướng dẫn thực hiện các văn bản mới về BHXH còn muộn. Các
doanh nghiệp dưới mười lao động khó có thể tập hợp lại để phổ biến Nghị
định số 01/2003 NĐ-CP và hầu như khơng có Tổ chức cơng đồn. Cho nên để
có thể tiến hành thu BHXH trong các đơn vị này là khó thực hiện.

Công tác kiểm tra thanh tra việc thực hiện BHXH của các cấp, các cơ
quan chưa thường xuyên đó là một trong những kẻ hở cho các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trốn, nợ BHXH.

Trên đây chỉ là một số ưu nhược điểm trong công tác thu BHXH. Để
thấy rõ hơn vấn đề này ta sẽ đi phân tích từng bất cập và xem xét nguyên
nhân do đâu, từ đó mà có giải pháp để khắc phục để cơng tác thu ngày càng
trở lên hồn thiện hơn.
III. những bất cập và nguyên nhân của công tác thu BHXH.

15

1. Những bất cập.
1.1. Vấn đề trốn , nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
Việc trốn đóng BHXH còn diễn ra ở các doanh nghiệp, nhưng theo số

liệu thống kê ở trên ta thấy vấn đề trốn, nợ đọng BHXH ở khu vực các Doanh
nghiệp ngoài quốc doanh diễn ra rất phổ biến. Vậy trốn và nợ đọng BHXH
của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là do đâu?
Có hàng ngàn lý do để biện hộ cho vấn đề này. ở phía các Doanh
nghiệp thì nói rằng do làm ăn khơng có lợi nhuận, bất ổn định, sản phẩm
khơng bán được hay do bận làm ăn nên chưa có thời gian để tham gia
BHXH..v.v..Cịn ở phía cơ quan chức năng thì lại cho rằng không thể quản lý
được vấn đề này. Thực chất thực trạng chấp hành Pháp luật lao động ở khu
vực này còn yếu kém, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước cịn hạn chế. Vì
vậy tuy BHXH là bắt buộc được luật quy định nhưng trên thực tế việc đốc thu
BHXH chủ yếu vẫn là vận động thuyết phục.Vậy thì ai sẽ là người bất lợi
nhất?. Đó chính là người lao động, thực sự quyền lợi của người lao động đã
được đảm bảo?
Với số Doanh nghiệp ngày càng tăng thu hút một lượng lao động khá
đông đảo. Song việc tham gia BHXH của các Doanh nghiệp thì cần phải nói
đến. Như Phú Thọ, năm 2003 có khoảng 400 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
được cấp giấy phép hoạt động với số lao động là 11.673 người ( tính đến 12
năm 2001). Tuy nhiên, năm 1998 mới có 12 đơn vị với 2.494 lao động tham
gia BHXH, số thu BHXH là 3,188 tỷ đồng. Năm 2002, có 58 đơn vị với 7.113
lao độnh, thu đạt 9,450 tỷ đồng. Theo báo cáo tổng hợp của BHXH các tỉnh
và thành phố năm 2003, thì kiểm tra 39 doanh nghiệp ở Hà Nội phát hiện nợ
10.9 tỷ đồng, ở Phú Yên có 7 doanh nghiệp nợ 3,8 tỷ đồng, 10 doanh nghiệp
ở Lâm Đồng nợ 3,5 tỷ đồng...Kiểm tra ở Hà Nội phát hiện 4.108 lao động
chưa tham gia BHXH, Hải Phòng 3.172 lao động, Đà Nẵng có 2.155 lao

16

động, Yên Bái có 1.530 lao động. Tại Hà Nội , năm 2002 kiểm tra 222 doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thì có tới 112 doanh nghiệp chỉ đóng BHXH cho
gần một nửa lao động thực tế. Có nhiều doanh nghiệp đã thu 6 % lương của

người lao động nhưng không nộp cho cơ quan BHXH, điển hình cho việc né
tránh đóng BHXH và chiếm dụng BHXH của người lao động là Công ty trách
nhiệm hữu hạn Thiên Hộ (Thành phố Hồ Chí Minh ), nếu tính sơ bộ từ năm
1997 đến nay ( ngày 5 tháng 12 năm 2003) số tiền chủ sử dụng lao động
chiếm dụng của người lao động là 22 tỷ đồng.

Nhiều doanh nghiệp tư nhân khi làm đề án khả thi để thành lập và
tuyển dụng lao động, thì có đưa ra những khả năng tài chính và sự quan tâm
đến các chính sách của người lao động. Song khi đi vào hoạt động thì họ lại
tìm cách lách luật, thậm chí nhiều lao động ký hợp đồng bằng miệng. Phần
lớn lao động khơng hiểu BHXH là gì và coi như việc đóng BHXH như một
loại thuế nên họ cũng không mấy mặn mà lắm trong việc đấu tranh tìm hiểu
xem doanh nghiệp có nộp BHXH cho họ hay khơng. Nhưng cũng có nhiều
lao động hiểu họ bị thiệt nhưng cũng khơng dám đấu tranh tất cả chỉ vì miếng
cơm manh áo. Nếu giả sử họ có đứng lên đấu tranh thì có mn vàn lý do để
người sử dụng lao động đuổi việc họ. Họ chỉ là số rất ít và tất nhiên phần thiệt
ln thuộc về họ đơn giản vì “Trứng khơng thể chọi với Đá”. Một câu hỏi đặt
ra là: Vậy tổ chức cơng đồn đâu?. Tổ chức cơng đồn ở đây cũng chỉ là
những người làm cơng ăn lương và chắc gì họ đã hiểu BHXH là gì và thực sự
họ đã phục vụ cho lợi ích của người lao động hay chưa, hay họ cũng chỉ là
những người lao động bình thường như những người lao động khác.Thậm chí
nhiều doanh nghiệp dưới 10 lao động khơng có Tổ chức cơng đồn.

Trong cơ chế thị trường này, phần lớn các chủ sử dụng lao động chỉ
quan tâm đến lợi nhuận, ít chăm lo đến lợi ích của người lao động. Khi chưa
có Nghị định 01/2003/NĐ-CP, một số doanh nghiệp lách luật bằng cách chỉ
sử dụng dưới 10 lao động hoặc hợp đồng lao động chỉ có thời hạn dưới 3

17


tháng. Cịn đối với doanh nghiệp lớn thì thường khơng khai báo đúng số lao
động sử dụng. Một phần cũng do việc làm không ổn định, nhiều doanh nghiệp
lao động chỉ là lao động phổ thông, dễ mất việc làm do chuyển đổi loại hình
kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp làm ăn có
lãi song vẫn chưa tham gia đóng BHXH cho người lao động. Nguyên nhân là
chưa có một chế tài xử phạt đủ mạnh đối với các doanh nghiệp vi phạm. Hay
sự quản lý chưa chặt chẽ của cơ quan chức năng, khơng có sự phối kết hợp
giữa các ngành các cấp và địa phương. Ví dụ tại Cơng ty TNHH Kwang Nam
(Thành Phố Hồ Chí Minh ), cuối năm 2003 phát hiện nợ BHXH tới 4,8 tỷ
đồng. Tại sao một doanh nghiệp hoạt động cả chục năm trời vi phạm Luật lao
động như vậy mà mãi đến cuối năm 2003 mới phát hiện ra. Việc kiểm tra
thanh tra thường xuyên với các doanh nghiệp là rất cần thiết. Song nếu kiểm
tra tốt mà công ty vẫn sai phạm chấp nhận nộp phạt rồi lại tái phạm thì
sao?.Phải chăng mức phạt chưa đủ cao, hay việc thực hiện các biện pháp răn
đe còn chưa đủ mạnh điều này chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới có thể trả
lời một cách chính xác và hợp lý nhất.

1.2.Việc hoạch định, thực hiện chính sách của cơ quan chức năng.
Việc tăng chỉ tiêu thu BHXH năm 2003 cao hơn 60 % so với năm 2002
là mức tăng khá cao. Với Nghị định 01/2003/NĐ-CP đối tượng BHXH đã
tăng lên một cách đáng kể. Song Nghị định mới ban hành việc hướng dẫn
thực hiện còn chậm. Việc triển khai Nghị định cho khu vực phía Nam được tổ
chức vào tháng 7 năm 2003, do vậy thực tế chỉ có năm tháng thực hiện. Cịn
các đơn vị có sử dụng dưới mười lao động khó có thể tập hợp lại để phổ biến
Luật lao động và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP. Số lượng cán bộ không đủ
để có thể thực hiện nhiệm vụ mới cộng với cán bộ BHXH chưa tích cực, chủ
động trong cơng việc, việc thực hiện chỉ mang tính hình thức. Nhiều tỉnh cho
rằng mức dự toán thu là quá cao, triển khai thực hiện dự tốn cịn trơng chờ,

18


thiếu sự phấn đấu xa rời thực tế. Hàng năm mặc dù BHXH Việt Nam đã dự
báo, tính tốn giao dự tốn thu sát với tỉnh đó. Nhưng cuối năm vẫn đề nghị
điều chỉnh kế hoạch để rồi vượt số giao ban đầu. Như vậy người vạch định
chính sách đã thực sự xuất phát từ thực tế hay chưa?

Mở rộng đối tượng tham gia là rất cần thiết, không những tăng thu cho
Quỹ BHXH mà cịn đảm bảo sự cơng bằng đối với người lao động. Nhưng
vấn đề trốn nợ đọng trong các doanh nghiệp lớn còn diễn ra khá phổ biến
những doanh nghiệp nhỏ với lao động cịn thủ cơng, cơng việc theo thời vụ
liệu doanh nghiệp đó có đóng BHXH cho người lao động hay khơng ?. Đặc
biệt tính hình thức trong quản lý thực hiện của cán bộ BHXH như đã nói ở
trên.

Cịn nhiều thực trạng cần phải nói đến như việc trích nộp BHXH trên
mức lương thực tế của người lao động thực sự đã thực sự hợp lý chưa. Trong
khi lương thực tế của người lao động khơng hẳn chỉ có những khoản lương
cấp bậc, thưởng và phụ cấp. Mà còn nhiều khoản khác.

Hiện nay cuộc sống ngày càng cao đòi hỏi mức trợ cấp cũng phải tăng
lên để có thể đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, vậy nên
chăng cần tính tốn kỹ trong tỉ lệ thu nộp của người lao động và người sử
dụng lao động.

Đây có lẽ là các vấn đề mà cơ quan chức năng nên xem xét và có kế
hoạch cụ thể nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Nước ta đang có
chủ chương tiến tới BHXH tự nguyện, nhưng trước khi làm được điều đó thì
những vấn đề trên cần được giải quyết một cách triệt để

2. Nguyên nhân.

Bao giờ những tồn tại cũng có nguyên nhân của nó, nếu biết nguyên
nhân và từ nguyên nhân đó mà có những biện pháp tích cực, thì khơng những
bất cập sẽ được giải quyết mà cịn làm cho cơng việc càng hồn thiện hơn.
Sau đây chỉ là một số nguyên nhân không thể kể hết được những nguyên nhân

19

bên trong, nhưng nó cũng góp phần cho những cải cách, những biện pháp để
khắc phục bất cập.

2.1. Sự thiếu hiểu biết của đông đảo người lao động và người sử dụng
lao động.

Sự hiểu biết của đông đảo người dân cụ thể ở đây là người lao động về
BHXH là rất cần thiết. Nó là một trong những điều kiện cần để cho chính
sách BHXH đuợc thực hiện có hiệu quả. Một thực tế là dù chính sách xã hội
nào có cao đẹp đến đâu mà người dân khơng hiểu thì chính sách đó liệu cịn
có ý nghĩa nữa không.

Nếu có hỏi mọi người thì liệu mấy ai biết BHXH là gì. Phần lớn mọi
người đều nghĩ bảo hiểm là lừa đảo. Cũng không phủ nhận rằng kiến thức về
bảo hiểm của một số nguời đã thay đổi, nếu khơng thì Bảo hiểm thương mại
sẽ khơng có thể tồn tại được. Nhưng cũng chính vì vậy mà mọi người đồng
nghĩa BHXH với Bảo hiểm thương mại.Theo số liệu điều tra của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội ở khu vực phi kết cấu có tới 16,87% số người
được hỏi khơng biết gì về BHXH,73,25% biết lơ mơ chút ít, 9,88% là hiểu
biết về BHXH. Nhưng phần lớn người lao động coi đóng BHXH như một loại
thuế mà khơng nghĩ đến lợi ích của nó, cịn Bảo hiểm thương mại ít nhất họ
cũng nhìn thấy được lợi ích của nó. Thậm chí những người có kiến thức Đại
học, Cao đẳng cũng như vậy. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự khơng

tích cực tham gia BHXH của người lao động, khơng có sự đấu tranh khi quền
lợi của mình khơng được đảm bảo. Người sử dụng lao động thì quá quan tâm
đến lợi nhuận và một phần cũng không hiểu về BHXH nên cố tình né tránh
đóng BHXH cho người lao động. Tổ chức cơng đồn trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hoạt động chưa hiệu quả chưa đủ khả năng đại diện cho
quyền lợi chính đáng của người lao động. BHXH được coi là xương sống của
hệ thống An sinh xã hội, nhưng khi người dân không hiểu gì về nó thì liệu vai
trị của nó có phát huy hết tác dụng hay không. Hiện nay vẫn chưa có một

20


×