Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
`
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MỸ GIANG

ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CỦA CÁC HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MỸ GIANG

ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CỦA CÁC HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 838.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” là do tác giả thực
hiện dưới dự hướng dẫn của TS. Bùi ngọc cường. Các số liệu nêu trong luận văn
là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn dựa trên quá trình thu thập
thông tin, khảo sát. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Trần Mỹ Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA HỘ KINH DOANH
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH .................................................8
1.1. Khái quát về hộ kinh doanh .................................................................................8
1.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh. ......................................................................28
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA HỘ KINH
DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM – THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA HỘ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG BÌNH .........................................................................................................42
2.1. Các quy định về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo pháp luật Việt
Nam ...........................................................................................................................42

2.2. Thực tiễn hoạt động đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình ...............................................................................................................59
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA HỘ KINH
DOANH TẠI VIỆT NAM ......................................................................................69
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh
doanh .........................................................................................................................69
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh .71
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đăng ký kinh doanh ...............................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ được viết tắt

Từ viết tắt
BLDS

: Bộ luật dân sự

CQNN

: Cơ quan nhà nước

DN

: Doanh nghiệp

ĐKKD


: Đăng ký kinh doanh

GCNĐKKD

: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

LDN

: Luật doanh nghiệp

HKD

: Hộ kinh doanh

NN

: Nhà nước

QLNN

: Quản lý nhà nước


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một tất
yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế tư bản tư nhân (trong đó có hộ kinh
doanh) là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế

xã hội chủ nghĩa. Song thực tiễn đã chứng minh quan niệm như vậy là cực đoan và
sự xuất hiện của kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển lớn
mạnh của nền kinh tế nước nhà.
Đường lối đổi mới kinh tế do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
cộng sản Việt Nam đề ra được hoàn thiện và phát triển, Đảng và Nhà nước ta khẳng
định chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đưa ra
giải pháp: “Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Sử dụng khả năng tích cực của
kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, đồng thời vận dụng và tổ chức những người lao động
cá thể vào các hình thức làm ăn tập thể để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh;
sắp xếp, cải tạo và sử dụng tiểu thương, giúp đỡ những người không cần thiết trong
lĩnh vực lưu thông chuyển sang sản xuất và dịch vụ. Sử dụng kinh tế tư bản tư
nhân trong một số ngành nghề, đi đôi với cải tạo họ từng bước bằng nhiều hình
thức tư bản nhà nước, xóa bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân. Mở rộng nhiều hình
thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi, bình đẳng
trước pháp luật”.
Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) thống nhất quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế hộ gia đình “Các hộ kinh doanh
cá thể được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển cả ở nông thôn và
thành thị; khuyến khích các hộ liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác tự
nguyện, làm vệ tinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn”.

1


Thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự
đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, hộ kinh doanh đã phát triển rộng khắp
trong cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực
xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân,
tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Cùng với các loại hình kinh doanh khác, sự phát triển của hộ kinh doanh đã góp
phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công
nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hóa
y tế, văn hóa, giáo dục…
Như vậy, trong những năm qua bộ phận kinh tế này ở nước ta đã phát triển
nhanh chóng và ngày càng khẳng định là một bộ phận không thể thiếu được của nền
kinh tế quốc dân. Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư tính đến giữa
năm 2010, cả nước đã có trên 4,1 triệu hộ kinh doanh, tạo việc làm cho hơn 7,6
triệu lao động và đóng góp khoảng 20% GDP cả nước. Do đó, kinh tế hộ kinh
doanh đã góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo, ổn định và nâng cao
đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của các hộ kinh doanh của Việt Nam hiện
nay chưa phát huy được hết các tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn từ
nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là do khung pháp lý còn bộc lộ nhiều hạn chế. Luật
doanh nghiệp 2014 ra đời thay thế cho Luật doanh nghiệp 2005 có nhiều tư tưởng
mở rộng tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho mô hình hộ doanh nghiệp, tuy
nhiên trong thực tiễn kinh doanh hiện nay có những rào cản nhất định do quy định
pháp luật đặt ra chưa thống nhất và chặt chẽ, đặc biệt trong lĩnh vực đăng ký kinh
doanh của hộ kinh doanh, dẫn đến nhiều bất cập và hạn chế khi thực hiện.
Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Đăng ký kinh doanh của các hộ
kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” nhằm đánh giá
thực trạng của pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh qua đó làm rõ

2


những điểm mới, điểm hạn chế còn tồn tại và đề ra phương án giải quyết góp phần
nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh của các

hộ kinh doanh, tạo một môi trường cạnh tranh và cởi mở cho các chủ thể kinh
doanh phát triển nền kinh tế trong nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, ở Việt Nam cũng đã có các công trình khoa học nghiên cứu về
hộ kinh doanh nhưng phần lớn tiếp cận vấn đề này ở những mức độ khía cạnh, pháp
lý kinh tế khác nhau.
Qua nghiên cứu bản thân nhận thấy rằng sự quan tâm và nghiên cứu của các
nhà khoa học pháp lý thể hiện ở những mức độ khác nhau:
Thứ nhất: Ở các trung tâm, trường Đại học đào tạo cử nhân luật
trong chương trình đào tạo của mình vấn đề hộ kinh doanh là một bộ phận
nằm trong quá trình giảng dạy về luật kinh tế và quản lý kinh tế mặc dù mức
độ nghiên cứu chưa sâu. Chúng ta có thể tìm thấy một số vấn đề về hộ kinh doanh
trong Giáo trình Luật thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội - Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2006; Giáo trình Luật kinh tế của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội - Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001; Chuyên khảo Một số quy
định mới về hộ kinh doanh nhỏ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Hay các bài
viết được công bố trên các tạp chí chuyên ngành pháp lý, nổi bật như bài viết: Phân
tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập của TS. Ngô Huy Cương - Tạp
chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 25 (2009)...
Thứ hai: Một số công trình luận văn, đề tài có nghiên cứu về chủ thể hộ kinh
doanh của các học giả như:
- “Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam thực trạng và phương hướng
hoàn thiện” - Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Tố Uyên (Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2005);
- “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam” - Luận văn Thạc sĩ luật học của
tác giả Hoàng Minh Sơn (Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012).

3



Thứ ba: Trong những năm qua một số cơ quan nghiên cứu về kinh tế đã có
một số cuộc điều tra về thực trạng và tình hình phát triển của hộ kinh doanh như:
Kết quả điều tra cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp năm 2010 của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư; Kết quả điều tra, khảo sát tình hình phát triển của hộ kinh
doanh tại tỉnh Bắc Ninh và Vĩnh Phúc năm 2011 của Viện Chính sách và Chiến
lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Ipsard) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
Như vậy, với nhiều mức độ và cách tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên
cứu nêu trên đã đi sâu phân tích những đặc điểm, bản chất và vai trò của hộ kinh
doanh trong nền kinh tế - xã hội ở nước ta. Song, cho đến nay chưa có nhiều công
trình khoa học đi sâu nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống và chi tiết về
pháp luật hộ kinh doanh ở Việt Nam nói chung và pháp luật về đăng ký kinh doanh
của hộ kinh doanh nói riêng. Bên cạnh đó, khi mà Luật doanh nghiệp 2014 đi vào
có hiệu lực thì những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình trên đã không
còn đáp ứng kịp thời với thực tiễn thi hành. Bởi Luật doanh nghiệp 2014 đã có rất
nhiều điểm mới và khác biệt so với Luật doanh nghiệp 2005. Do tính mới của Luật
doanh nghiệp 2014 có hiệu lực từ ngày 01/07/2015 vậy nên hầu hết các công trình
nghiên cứu hiện nay vẫn còn chưa cập nhập hay cập nhập chưa đầy đủ những đổi
mới của thủ tục đăng ký kinh doanh hiện tại. Do vậy, Luận văn là những cập nhật,
những phát hiện về những mặt tích cực và hạn chế còn sót của những quy định pháp
luật được ghi nhận trong Luật doanh nghiệp 2014 nhằm hoàn thiện - xây dựng thủ
tục đăng ký kinh doanh đơn giản gọn nhẹ phù hợp với xu thế hiện nay.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình khoa học đã có trước,
người viết hy vọng góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề pháp lý của hộ kinh doanh ở
Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, qua đó tìm ra những bất
cập trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn
thiện và thúc đẩy sự phát triển của hộ kinh doanh trong quá trình hội nhập.

4



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những điểm mới và
hạn chế của việc đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam
hiện nay và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh của
chủ thể này ở Việt Nam. Luận văn phải chỉ ra được những điểm mới về thủ tục
hành chính của pháp luật Việt Nam mà cụ thể là trong Luật doanh nghiệp 2014,
Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, đồng thời chỉ ra những hạn
chế còn tồn tại về thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, đưa ra những vấn
đề bất cập trong thực tiễn thực hiện mà cụ thể từ địa bàn tỉnh Quảng Bình, từ đó đề
xuất giải pháp để khắc phục góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước trong
lĩnh vực đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh nói riêng và hoạt động kinh
doanh của các chủ thể nói chung, qua đó góp phần tạo lập một môi trường pháp lý
thuận lợi và năng động, thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lý hiện hành điều chỉnh hoạt
động đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam để tìm ra
những bất cập, hạn chế còn tồn tại.
Thứ ba: Căn cứ vào các nghiên cứu, phân tích trên và trên cơ sở tìm hiểu
thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp cho
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam trong điều kiện
hiện nay ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Trong điều kiện khả năng nghiên cứu có nhiều khó khăn và nguồn tài liệu
tham khảo còn hạn chế, luận văn chưa thể bao quát hết các vấn đề pháp lý về hoạt


5


động của hộ kinh doanh mà chỉ dừng lại ở những tiếp cận pháp lý cơ bản của hoạt
động đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam trên thực
tiễn tỉnh Quảng Bình.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của
thủ tục đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện
nay trong phạm vi các quy định cụ thể của Luật doanh nghiệp 2014, Hiến pháp
2013, Luật dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp song song với các phương pháp tổng hợp, phân
tích, thống kê, so sánh.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích được dùng để làm rõ khái niệm hộ kinh doanh, khái
niệm đăng ký kinh doanh, bản chất và những đặc điểm của hộ kinh doanh, làm rõ
những điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hoạt động đăng ký kinh doanh của hộ
kinh doanh.
Phương pháp lịch sử được sử dụng để xem xét quá trình hình thành và phát
triển của hộ kinh doanh ở Việt Nam và quá trình hoàn thiện pháp luật của hộ kinh
doanh ở Việt Nam.
Phương pháp hệ thống, được sử dụng nhằm mục đích đánh giá thực trạng về địa
vị pháp lý của hộ kinh doanh ở Việt Nam để tìm ra những bất cập.
Phương pháp so sánh được sử dụng để xem xét, đối chiếu các quy định của
pháp luật về thủ tục đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh và các loại hình
doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một

thành viên, công ty hợp danh từ đó làm nổi bật lên vị trí, vai trò của hộ kinh doanh.
Phương pháp thống kê, phân tích và xử lý số liệu được sử dụng nhiều trong
nghiên cứu về thực trạng pháp luật về thủ tục đăng ký kinh doanh của hộ kinh
doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

6


Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa nhằm đưa ra những đề
xuất, kiến nghị của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn phản ánh cái nhìn khách quan về thủ tục hành chính trong lĩnh vực
đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Luận văn
chỉ ra những điểm mới, những vấn đề còn tồn tại cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung
để hoàn thiện hệ thống pháp luật đăng ký kinh doanh nói riêng và hệ thống pháp
luật kinh doanh nói chung.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật đăng ký kinh doanh của hộ kinh
doanh từ đó tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận tiện và minh bạch,
hiện thực hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công dân được tự do
kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm hoặc không hạn chế, nâng
cao tính linh hoạt trong hoạt động kinh doanh và thúc đẩy nền kinh tế trong nước
phát triển.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, cá nhân có
quan tâm đến vấn đề này cả trên phương diện nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo thì cấu trúc Luận văn có 03
chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của hộ kinh doanh và pháp luật về

đăng ký kinh doanh.
- Chương 2: Pháp luật về đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh theo pháp
luật Việt Nam – Thực tiễn hoạt động đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh tại Việt Nam.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA HỘ KINH DOANH
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1.1. Khái quát về hộ kinh doanh
1.1.1 Khái lược lịch sử phát triển của hộ kinh doanh
Trong hoạt động thương mại, những cá nhân đều mong muốn tìm kiếm lợi
nhuận thông qua việc buôn bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Cá nhân tham gia
hoạt động này phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi để thực hiện
hoạt động thương mại, đồng thời tự mình gánh chịu những trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về hoạt động thương mại đó. Điều đó có nghĩa là các cá nhân
kinh doanh phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động
thương mại. Cá nhân kinh doanh thường được gọi là thương nhân đơn lẻ hay doanh
nghiệp cá thể. Về mặt học thuật người ta thường gọi đó là thương nhân thể nhân để
phân biệt với các công ty mà thường được gọi là thương nhân pháp nhân.
Pháp luật thương mại của nhiều quốc gia trên thế giới chỉ thừa nhận thương
nhân thể nhân (cá nhân) và thương nhân pháp nhân. Tuy nhiên, con đường hình
thành các thương nhân thể nhân ở Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam pháp luật thương mại hầu như
không được biết đến. Điều đó có thể lý giải, là vì nền thương mại Việt Nam lúc bấy
giờ còn kém cỏi, chưa có gì phát triển đáng kể. Do vậy, các hình thức kinh doanh có

lẽ không được chú ý. Có chăng trong quan hệ buôn bán, hộ gia đình là thành phần
lấn át.
Phải đến thời kì thuộc Pháp, năm 1864 người Pháp đem Bộ luật thương mại
của mình áp dụng vào Nam Kỳ và năm 1888 áp dụng vào Bắc Kỳ. Giai đoạn này có
xuất hiện những thương nhân đơn lẻ, chủ yếu được hình thành, hoạt động theo quy
định, chế định của luật thương mại Pháp.
Thời kì đất nước bị chia cắt hai miền với hai chế độ kinh tế, chính trị, văn
hóa khác nhau. Ở miền Nam chính quyền Sài Gòn tiếp tục kế thừa pháp luật thương

8


mại thời Pháp thuộc đồng thời ban hành một loạt các văn bản pháp luật thương mại
mới mà đỉnh cao của nó là Bộ luật thương mại năm 1972, theo Bộ luật thương mại
Việt Nam Cộng hòa năm 1972: "Thương gia là những người làm hành vi thương
mại cho chính mình và lấy hành vi ấy làm nghề nghiệp thường xuyên của mình".
Ở miền Bắc tiếp tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với các thành phần
kinh tế ngoại quốc doanh đó là kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh, với mục
đích biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cải tạo
đối với các hộ cá thể trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận
tải, xây dựng… Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh phải nhanh chóng xóa
bỏ thành phần kinh tế này và áp dụng hình thức công tư hợp doanh.
Khi xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, với chế
độ công hữu hóa tư liệu sản xuất, tầng lớp thương nhân mới nhen nhóm đã bị xóa
bỏ. Một số ít cá nhân kinh doanh vẫn tồn tại tuy nhiên chỉ là những người buôn bán
những mặt hàng đơn giản, chạy chợ, chạy bán hàng rong, và một số hộ kinh doanh
nhỏ lẻ ở một số ngành nghề liên quan tới tiêu dùng hoặc những thành phần đang
trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Các biện pháp thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh để xây
dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp có nhiều hạn chế do chủ

quan, nóng vội, chưa đảm bảo các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân
chủ. Chúng ta đã phạm phải một sai lầm là thủ tiêu quyền tài sản cá nhân của mỗi
công dân. Từ đó đồng thời là thủ tiêu động lực sản xuất, kinh doanh và sáng tạo của
các cá nhân. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng ghi rõ: "Trên thực tế đã chủ trương
đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết; vừa nóng vội vừa
buông lỏng trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế không còn phù hợp. Chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo
thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại
phạm những sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông".

9


Sai lầm này làm cho nền kinh tế nước nhà bị suy yếu, sản xuất tăng chậm;
hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu thông có nhiều rối ren, đời sống
nhân dân lao động có nhiều khó khăn.
Trước những thách thức đó, Đảng ta đã phân tích nguyên nhân, nghiêm túc
kiểm điểm và xây dựng đường lối, chính sách để khắc phục. Nghị quyết Đại hội VI
của Đảng đưa ra giải pháp: "Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Sử dụng khả
năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, đồng thời vận dụng và tổ chức
những người lao động cá thể vào các hình thức làm ăn tập thể để nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh; sắp xếp, cải tạo và sử dụng tiểu thương, giúp đỡ những
người không cần thiết trong lĩnh vực lưu thông chuyển sang sản xuất và dịch vụ. Sử
dụng kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ) trong một số ngành, nghề, đi đôi với cải
tạo họ từng bước bằng nhiều hình thức tư bản nhà nước, xóa bỏ thương nghiệp tư
bản tư nhân. Mở rộng nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo
nguyên tắc cùng có lợi, bình đẳng trước pháp luật". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI cũng đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề về phân phối,
lưu thông; giải phóng năng lực sản xuất; tập trung sức bảo đảm vật tư và cải tiến các
chính sách cụ thể để đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng thiết yếu; để tăng nhanh

khối lượng hàng hóa lưu thông, phải mở rộng giao lưu hàng hóa, bãi bỏ các biện
pháp cấm đoán, chia cắt thị trường theo địa giới hành chính.
Để giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 (khóa VI) nhận định: "Phân phối lưu thông
vẫn đang là mặt trận nóng bỏng của nền kinh tế. Phương hướng vừa cơ bản vừa
cấp bách để giải quyết tình hình này là xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
chuyển hẳn hoạt động của nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho toàn bộ hệ thống sản xuất, lưu thông
hoạt động theo quy luật khách quan, tăng nhanh sản phẩm xã hội. Chính thực trạng
phân phối, lưu thông nói trên đang gây khó khăn cho việc thực hiện hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa và cản trở sản xuất phát triển". Và đề ra các biện pháp chỉ
đạo: Thể chế hóa và cụ thể hóa chính sách đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư

10


nhân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng để mọi người yên tâm bỏ vốn
sản xuất, kinh doanh. Theo hướng dẫn của Trung ương, các tỉnh, thành phố quy
định những ngành nghề và phạm vi hoạt động của các thành phần kinh tế nói trên.
Khuyến khích các hình thức hùn vốn, hợp tác, làm ăn tập thể từ thấp đến cao và các
hình thức liên kết với các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa… Soát xét lại các
chính sách kinh tế, xã hội đối với tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, xóa bỏ mọi định
kiến hẹp hòi và những quy định mang tính chất phân biệt đối xử không hợp lý.
Trong bối cảnh đó, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 27-HĐBT
ngày 9/3/1988, ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế
tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây dựng, vận tải. Tại lời nói
đầu của nghị định đã chỉ rõ mục đích của việc ban hành nghị định này là: Để thể chế
hóa các chủ trương mới đã nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp,

xây dựng, vận tải; để giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy khả năng của mọi
thành phần kinh tế, huy động khả năng của nhân dân phát triển sản xuất hàng hóa và
dịch vụ sản xuất phục vụ đời sống và phục vụ xuất khẩu; để phát triển kinh tế cá
thể, kinh tế tư doanh, kết hợp chặt chẽ kinh tế cả thể, kinh tế tư doanh với kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể.
Tại Điều 1 của Bản quy định ban hành kèm theo Nghị định 27-HĐBT ngày 9
tháng 3 năm 1988 khẳng định: (1) Nhà nước công nhận sự tồn tại và các tác dụng
tích cực lâu dài của các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh; (2) Nhà nước
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế này hoạt động và phát triển trong các lĩnh
vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải với quy mô,
ngành nghề thích hợp; (3) Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa
kế tài sản và thu nhập hợp pháp của các đơn vị kinh tế và của công dân thuộc thành
phần kinh tế này; (4) Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân của các đơn vị kinh tế
thuộc các thành phần kinh tế này trong xã hội.

11


Việc tạo lập một hành lang pháp lý để cho các chủ thể tham gia vào các hoạt
động sản xuất, kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận là cần thiết, và những chủ thể nào
được tham gia sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây dựng, vận tải. Điều 2
của bản quy định này cũng chỉ rõ: Các đơn vị kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh là các
đơn vị kinh tế tự quản có tư liệu sản xuất và các vốn khác, tự quyết định mọi vấn đề
sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về thu nhập, lỗ lãi. Mọi công dân Việt
Nam ngoại trừ những người là cán bộ công nhân viên chức nhà nước tại chức hoặc
xã viên hợp tác xã nếu có vốn, có tư liệu sản xuất, có kỹ thuật, chuyên môn, sức lao
động, đều có quyền đứng ra tổ chức sản xuất kinh doanh ở các đơn vị kinh tế cá thể,
kinh tế tư doanh.
Các đơn vị kinh tế này được tổ chức hoạt động theo nhiều hình thức như: hộ
cá thể; hộ tiểu công nghiệp; và xí nghiệp tư doanh. Từ các hình thức này dần dần

hình thành các hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân và các công ty ngày nay ở Việt
Nam. Hộ cá thể, theo Bản quy định này, có các điều kiện như sau :
(i) Tư liệu sản xuất và các vốn khác thuộc quyền sở hữu của người đứng tên
đăng ký kinh doanh.
(ii) Chủ đăng ký kinh doanh phải là người lao động trực tiếp. Những người
lao động khác phải là bố mẹ, vợ chồng, các con và nếu là người thân thì phải có tên
trong sổ đăng ký hộ khẩu của người chủ đăng ký kinh doanh.
(iii) Thu nhập sau khi đóng thuế thuộc quyền sở hữu của chủ hộ.
Tuy nhiên, hộ cá thể là một hình thức của kinh tế tư nhân khác với hình thức
kinh tế gia đình. Theo Nghị quyết của Bộ Chính trị số 16-NQ/TW ngày 15/7/1988:
"Kinh tế gia đình là kinh tế do công nhân viên chức nhà nước, thành viên xí nghiệp
quốc doanh, xí nghiệp tập thể và công nhân viên chức xí nghiệp tư nhân cũng như
những người ngoài tuổi lao động cùng với gia đình mình làm thêm bằng cách nhận
gia công cho các xí nghiệp hoặc làm các dịch vụ’’.
Hộ tiểu công nghiệp, theo Bản quy định này, khác hộ cá thể ở chỗ: Là các
công xưởng hay các cửa hàng; được thuê mướn lao động theo hợp đồng giữa chủ và
người làm thuê; và chủ hộ có thể là người đóng vai trò chính về kỹ thuật sản xuất và

12


tự điều hành sản xuất kinh doanh. Bản chất của hộ tiểu công nghiệp cũng là cá nhân
kinh doanh hay thương nhân thể nhân, nhưng có sản nghiệp thương mại hay cơ sở
kinh doanh.
Xí nghiệp tư doanh, theo Bản quy định này, là các tổ chức sản xuất kinh
doanh cùng tính chất như công ty tư doanh, công ty cổ phần, tổ hợp tư doanh. Xí
nghiệp tư doanh có thể có một chủ sở hữu hoặc nhiều chủ sở hữu được gọi chung là
"chủ xí nghiệp". Như vậy, có thể hiểu hộ cá thể chính là cá nhân kinh doanh hay
thương nhân thể nhân tiến hành hoạt động kinh doanh cho chính mình. Dấu ấn gia
đình Việt Nam và dấu ấn quan niệm về các thành phần kinh tế trong cơ chế cũ vẫn

còn đó. Và thậm chí cho đến ngày nay, người ta vẫn gọi cá nhân kinh doanh là "hộ
kinh doanh".
Khi đường lối đổi mới được thực thi, bằng sự nỗ lực chủ quan của Nhà nước,
tầng lớp thương nhân dần được hồi sinh mà trong đó trước tiên là các cá nhân kinh
doanh hay thương nhân thể nhân. Vì vậy, các thương nhân ở Việt Nam hiện nay (kể
cả thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân) mang đậm dấu tích của sự nỗ
lực chủ quan của Nhà nước, khác phần nào đó với các thương nhân được hình thành
một cách tự nhiên, bình thường ở các nước có truyền thống kinh tế thị trường mà
chỉ bị nhà nước kiểm soát. Vì vậy, qua việc nghiên cứu về sự phát triển khái niệm
"hộ kinh doanh" ở Việt Nam phần nào đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thương nhân
ở Việt Nam.
Tiếp đó, ngày 3/2/1992, Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục ban hành nghị định số
66/HĐBT về cá nhân và nhóm kinh doanh có mức vốn thấp hơn vốn pháp định
được quy định tại Nghị định số 221/HĐBT ngày 23/7/1991 (hướng dẫn thi hành
Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990). Theo tinh thần của Nghị định 66/HĐBT thì
người kinh doanh có mức vốn thấp hơn vốn pháp định được quy định cho loại hình
doanh nghiệp tư nhân bao gồm: (1) cá nhân kinh doanh, là người bỏ vốn kinh doanh
và làm chủ, thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, tư
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi; (2) nhóm kinh doanh, nhóm kinh doanh có ít nhất 2 người trở lên, tự

13


nguyện hùn vốn kỹ thuật cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh, cùng hưởng
lãi, cùng chịu lỗ và cùng chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của nhóm. Thực
ra cá nhân và nhóm kinh doanh được quy định tại nghị định này về bản chất giống
với hình thức "hộ kinh doanh" nhưng theo tên gọi tại Nghị định 66/HĐBT thì cá
nhân và nhóm kinh doanh được gọi là "người kinh doanh". Sau Nghị định
66/HĐBT, Chính phủ ban hành thêm 02 Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày

3/2/2000 và Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 về đăng ký kinh doanh. Tên
gọi "hộ kinh doanh" được hai nghị định này đổi thành "hộ kinh doanh cá thể".
Theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 thì
hộ kinh doanh cá thể được định nghĩa: "Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc
một hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một điểm cố định, không thường xuyên
thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
đối với hoạt động kinh doanh", và tại Điều 24 của Nghị định số 109/2004/NĐ-CP
ngày 2/4/2004: "Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ,
chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động,
không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt
động kinh doanh".
Theo định nghĩa trên thì hộ kinh doanh cá thể được quy định tại hai Nghị
định này bao gồm: Một cá nhân làm chủ hoặc hộ gia đình làm chủ. Như vậy, tên gọi
hộ kinh doanh qua các nghị định viện dẫn nêu trên đã có nhiều thay đổi, từ tên gọi
"hộ cá thể" và "hộ tiểu công nghiệp" được quy định tại Nghị định 27/HĐBT ngày
9/3/1988 đến "người kinh doanh" tại Nghị định 66/HĐBT ngày 2/3/1992 và tại các
nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 và Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày
2/4/2004 được đổi thành "hộ kinh doanh cá thể", các đặc trưng của chủ thể hộ kinh
doanh cũng thay đổi theo từng khái niệm, từ chỗ những người lao động khác của
"hộ cá thể" theo nghị định 27/HĐBT phải là bố mẹ, vợ chồng, các con và nếu là
người thân thì phải có tên trong sổ đăng ký hộ khẩu của người chủ đăng ký kinh
doanh, thì theo Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 "hộ kinh doanh cá
thể" sử dụng không quá mười lao động. Điều đó có nghĩa hộ kinh doanh cá thể có

14


quyền thuê mướn lao động để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của
mình. Hoặc theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 và Nghị định số
109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2000 thì hộ kinh doanh cá thể không bao gồm nhóm

kinh doanh như đã được quy định tại Nghị định 66/HĐBT. Ngày 29/8/2006, Chính
phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh trong
đó có quy định về hộ kinh doanh. Ngày 15/4/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 43/2010/NĐ-CP để thay thế. Hiện nay hộ kinh doanh được điều chỉnh bởi
Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của hộ kinh doanh
Khái niệm
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập thương mại quốc
tế đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội trong sân chơi của khu vực và quốc tế.
Một nền kinh tế thị trường đa dạng về thành phần kinh tế cùng các hoạt động sản
xuất kinh doanh ở nước ta đã và đang củng cố, phát triển nhằm phù hợp với yêu cầu
của tình hình hiện nay. Trong đó, xu hướng thành lập các hộ kinh doanh ngày càng
gia tăng ở nước ta. Vì vậy mà vấn đề pháp lý về hoạt động thành lập, đăng ký kinh
doanh của Hộ kinh doanh ở nước ta càng trở nên quan trọng và được nhiều đối
tượng chú trọng.
Trải qua một thời gian dài, Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi
hành ra đời và phát triển đã tạo nên khung pháp lý cơ bản, tạo nền tảng pháp lý
vững chắc cho các hoạt động đăng ký hộ kinh doanh. Hiện nay, Luật Doanh nghiệp
2014 đã quy định một cách chi tiết và cụ thể về vấn đề đăng ký hộ kinh doanh; tuy
nhiên trong thực tế việc hiểu và áp dụng các quy định thì không phải là việc làm dễ
dàng. Có rất nhiều định nghĩa về hộ kinh doanh và mỗi định nghĩa đều mang một
nội dung nhất định, bởi lẽ mỗi tác giả đứng trên nhiều quan điểm khác nhau khi tiếp
cận để đưa ra những khái niệm khác nhau, song tựu chung lại thì đa phần các khái
niệm đều hiểu: Hộ kinh doanh là do các cá nhân hoặc một nhóm người đăng ký

15


kinh doanh và hoạt động nhằm mục đích thu lợi nhuận 1. Trong nền kinh tế thế giới
sự tồn tại của hộ kinh doanh đóng vai trò quan trọng và góp phần không nhỏ cho

hoạt động xây dựng và phát triển nền kinh tế. Thông qua các quy định pháp lý thì
hộ kinh doanh được hình thành và phát triển, trên cơ sở đó giúp con người hiện thực
hóa các ý tưởng kinh doanh.
Dưới góc độ của pháp lý, hộ kinh doanh được tạo nên bởi một sự kiện pháp
lý (thành lập hộ kinh doanh). Theo quy định thì hộ kinh doanh được hình thành
bằng thủ tục được pháp luật quy định và tham gia vào các mối quan hệ xã hội được
luật pháp điều chỉnh. Việc hình thành và phát triển phải thỏa mãn những yêu cầu mà
pháp luật quy định và dưới một hình thức mà hộ kinh doanh lựa chọn.
Trước khi có Nghị định của Chính phủ số 88/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về
đăng ký kinh doanh, “hộ kinh doanh” được gọi là hộ kinh doanh cá thể”. Tên gọi
“hộ kinh doanh cá thể” được ghi nhận tại hai Nghị định của Chính phủ về đăng ký
kinh doanh là Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/20002 và Nghị định số
109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004.
Nghị định số 109/2004/NĐ-CP3 định nghĩa: Hộ kinh doanh cá thể do một cá
nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử
dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh4. Nghị định số 88/2006 NĐ-CP5
định nghĩa: Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng
không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình đối với hoạt động kinh doanh6 (Điều 36, khoản 1). Như vậy khái niệm
“hộ cá thể” và “hộ tiểu công nghiệp” theo Nghị định số 27-HĐBT ngày 9/3/19887

Từ điển Tiếng Việt do NXB Đà Nẵng (2010)
Nghị định số 02/2000/NĐ- CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh
3
Nghị định số 109/2004/NĐ- CP ngày 02/4/2004 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh
4
Khoản 1 Điều 24 Nghị định số 109/2004/NĐ- CP ngày 02/4/2004 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh
5

Nghị định số 88/2006 NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh
6
Điều 36 khoản 1 Nghị định số 88/2006 NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh
7
Nghị định số 27- HĐBT ngày 9/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng ban hành quy định về chính sách đối với
kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây dựng, vận tài
1
2

16


đã có nhiều thay đổi qua hai Nghị định vừa dẫn. Bản chất cá nhân kinh doanh và
dấu ấn gia đình đã ngày càng mờ đi mặc dù thuật ngữ “hộ gia đình” được sử dụng
trong các định nghĩa vừa dẫn.
Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp quy
định như sau: Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh8. Nghị định số 43 đã lần đầu
tiên cụ thể hóa và đưa ra các quy định rõ ràng về vấn đề đăng ký hộ kinh doanh. Từ
đó, có tác dụng thúc đẩy kinh doanh, tạo hành lang pháp lý ghi nhận quyền và nghĩa
vụ của hộ kinh doanh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện quy định rõ ràng về hộ kinh doanh
trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước, Luật doanh nghiệp 2014 và Nghị
định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 về đăng ký doanh nghiệp quy
định như sau:
"1. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là
công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia
đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao

động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh".
Quy định này đã thể hiện được các đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh về:
chủ sở hữu, tư cách pháp lý, quy mô kinh doanh và chế độ trách nhiệm của chủ sở
hữu. Mặc dù Điều 66 Nghị định số 78/2015 không quy định minh thị, nhưng từ các
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì có thể khẳng định rằng hộ kinh
doanh không phải là doanh nghiệp.
Trải qua từng giai đoạn thì các khái niệm về hộ kinh doanh được quy định rất
khác nhau song phải khẳng định rằng hộ kinh doanh có vai trò rất quan trọng trong
quá trình phát triển của đất nước và nền kinh tế thế giới. Việc định hình định nghĩa
8

Khoản 1 điều 49 Nghị định số 43/2010/ NĐ- CP ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp

17


về hộ kinh doanh rất quan trọng bởi đây là nền tảng của những quy định pháp lý của
Cơ quan Nhà nước trong hoạt động quản lý đối với nền kinh tế nói chung và hộ
kinh doanh nói riêng.
Đặc điểm của hộ kinh doanh
Về chủ thể có quyền đăng ký/sở hữu hộ kinh doanh: Hộ kinh doanh do một
cá nhân, hoặc một nhóm người gồm các cá nhân hoặc một hộ gia đình làm chủ. Đối
với hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, cá nhân có toàn quyền quyết định về
mọi hoạt động kinh doanh của hộ (như chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh
nghiệp tư nhân). Đối với hộ kinh doanh do một nhóm người hoặc một hộ gia đình
làm chủ, mọi hoạt động kinh doanh của hộ do các thành viên trong nhóm hoặc trong
hộ quyết định. Nhóm người hoặc hộ gia đình cử một người đủ điều kiện là đại diện
cho nhóm hoặc cho hộ để tham gia giao dịch với bên ngoài. Mặc dù là chủ thể kinh
doanh chuyên nghiệp nhưng hộ kinh doanh không có tư cách của doanh nghiệp,

không có con dấu, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện, không được thực
hiện các quyền mà doanh nghiệp có như hoạt động xuất nhập khẩu hay áp
dụng Luật phá sản khi kinh doanh thua lỗ. Khi tham gia giao dịch, cá nhân hoặc đại
diện hộ gia đình nhân danh mình mà không nhân danh hộ kinh doanh để thực hiện
hoạt động kinh doanh.
Nếu như văn bản pháp luật đầu tiên về hộ kinh doanh (khi đó gọi là hộ cá thể
và hộ tiểu công nghiệp) ở Việt Nam, Nghị định số 27 - HĐBT ngày 09/3/1988, cho
phép một cá nhân hay một hộ gia đình có thể xin phép thành lập hộ kinh doanh, thì
quy định hiện hành trong Nghị định số 78/2015 (cũng giống như quy định trước đây
tại Nghị định số 88/2006 và Nghị định số 43/2010) đã mở rộng phạm vi các chủ thể
có quyền đăng ký thành lập hộ kinh doanh bao gồm cả một nhóm người.
Xét riêng dưới góc độ chủ thể sở hữu hộ kinh doanh, thì pháp luật Việt Nam
đã rất khác với các nước trên thế giới. Các nước phương Tây không có mô hình
kinh doanh nào có thể có 3 loại chủ sở hữu (một người, một nhóm người hay một
hộ gia đình) giống như hộ kinh doanh của Việt Nam. Việc quy định hộ gia đình và

18


nhóm cá nhân có thể thành lập và làm chủ hộ kinh doanh có nhiều bất cập. Cụ thể
như sau:
Một là, nghị định số 78/2015 quy định hộ gia đình có thể đăng ký thành lập
và làm chủ sở hữu của hộ kinh doanh. Nhưng Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định: "Bộ
luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân,
pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong
các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, đôc lập về tài sản và
tự chịu trách nhiệm" [20, Điều 1]. Như vậy, theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hộ
gia đình không còn là một loại chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, vốn đã từng là
vấn đề có rất nhiều bất cập và gây tranh cãi.
Hai là, pháp luật hiện hành không giới hạn số lượng cá nhân trong nhóm

người đăng ký thành lập hộ kinh doanh, vì vậy dưới góc độ lý thuyết thì số lượng
các thành viên trong nhóm đăng ký thành lập hộ kinh doanh không bị giới hạn. Tư
duy lập pháp của chúng ta luôn coi hộ kinh doanh là loại hình chủ thể kinh doanh có
quy mô kinh doanh nhỏ, nhỏ hơn các doanh nghiệp cho nên tập trung vào các dấu
hiệu xác định quy mô kinh doanh, bản chất của hộ kinh doanh nhưng lại chưa quan
tâm đến số lượng thành viên trong nhóm. Bản chất của một nhóm cá nhân cùng góp
vốn và liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình cũng giống như mô
hình partnership (tạm dịch là hợp danh) trong pháp luật Anh, Úc và châu Âu. Tuy
nhiên, nếu đã mang bản chất của hợp danh thì pháp luật cần giới hạn số lượng thành
viên tối đa để tránh những hệ lụy phiền toái cho chính các thành viên và người có
liên quan. Hơn nữa, pháp luật cũng không có quy định minh thị về nghĩa vụ liên đới
của các thành viên trong nhóm cá nhân cùng góp vốn thành lập hộ kinh doanh, cũng
không có quy định về nguyên tắc tự do thỏa thuận hay nguyên tắc phân chia kết quả
kinh doanh. Vì vậy, không nên quy định cho một nhóm người cùng đăng ký hộ kinh
doanh; hoặc nếu chấp nhận thì ít nhất cần quy định giới hạn số thành viên trong
nhóm và quy định trách nhiệm liên đới của họ.
Ba là, luật Thương mại năm 2005 quy định "thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,

19


thường xuyên và có đăng ký kinh doanh" [21, Điều 6]. Quy định này của Luật
Thương mại 2005 vẫn dẫn đến những cách hiểu không thống nhất về khái niệm
thương nhân và các đặc điểm pháp lý của thương nhân. Nếu căn cứ vào lời văn của
điều luật thì thương nhân được định nghĩa như trên gồm 2 loại: (i) các tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp; và (ii) những cá nhân thỏa mãn đủ 3 điều kiện: hoạt
động thương mại độc lập, có tính thường xuyên, và có đăng ký kinh doanh tại cơ
quan có thẩm quyền. Vậy hộ kinh doanh có phải là thương nhân hay không cũng là
một câu hỏi khó trả lời. Như đã phân tích, hộ kinh doanh không phải là tổ chức kinh

tế thành lập hợp pháp, nhưng hộ kinh doanh cũng không phải là cá nhân, vì hộ
kinh doanh có thể do 1 cá nhân hoặc 1 nhóm cá nhân hoặc 1 hộ gia đình đăng ký
thành lập. Song, nếu không công nhận tất cả hộ kinh doanh hiện nay đều là
thương nhân thì rất bất cập khi xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong hệ thống
pháp luật hiện hành.
Bốn là, về tư cách chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Khác với Bộ luật Dân
sự năm 1995 và 2005, Bộ luật Dân sự 2015 chỉ thừa nhận 2 loại chủ thể quan hệ
pháp luật dân sự là cá nhân và pháp nhân. Quy định này hoàn toàn phù hợp với
thông lệ quốc tế, cũng giống như pháp luật nước ngoài. Như vậy, theo Bộ luật Dân
sự hiện hành thì hộ kinh doanh không được thừa nhận là một chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự, bởi lẽ hộ kinh doanh không phải là cá nhân cũng không phải là
pháp nhân. Cũng chính vì vậy, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông
tư số 32/2016 yêu cầu các ngân hàng thương mại phải rà soát tài khoản thanh toán
của khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác, các tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân và thông báo cho khách hàng biết để chuyển đổi thành tài khoản thanh toán
của cá nhân hoặc tài khoản thanh toán chung. Thông tư cũng khẳng định tư cách
bên vay trong hợp đồng tín dụng chỉ có thể là cá nhân, pháp nhân. Như vậy, hộ kinh
doanh không thể là chủ thể vay vốn ngân hàng và không thể đứng tư cách chủ tài
khoản như các pháp nhân và cá nhân. Vì vậy, khi tham gia giao dịch dân sự thì chủ
sở hữu của hộ kinh doanh sẽ phải sử dụng tư cách cá nhân để tham gia giao dịch, từ
đó dẫn đến sự lộn xộn, phiền toái và dễ gây hiểu lầm trong các giao dịch dân sự

20


×