Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP hợp ĐỒNG MUA bán HÀNG hóa từ THỰC TIỄN xét xử của tòa án NHÂN dân cấp HUYỆN và cấp TỈNH ở THÀNH PHỐ đà NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.35 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ DIỆU LINH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ
CẤP TỈNH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ DIỆU LINH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ
CẤP TỈNH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838.01.07



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người Hướng Dẫn Khoa Học
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận
văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa từng được công bố
trong các công trình khác,

Hà Nội, ngày tháng 3 năm 2018
Tác giả luận văn

Lê Thị Diêu Linh
••


Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ BẰNG TOÀ ÁN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC

THI TẠI

TOÀ

ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

NẴNG


VÀ CẤP TỈNH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ
62

3.1.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp
đồng

KẾT LUẬN.......................
TÀI LIỆU THAM KHẢO


BLTTDS
HĐMBHH
TAND
WTO

: Bộ luật Tố tụng dân sự : Hợp đồng mua bán hàng hóa : Tòa án nhân
dân

: Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)


Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


Số liệu giải quyết vụ án tranh chấp HĐMBHH giải quyết
2.1.

theo thủ tục sơ thẩm tại TAND cấp huyện và cấp tỉnh ở

47

thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 - 2017
Số liệu giải quyết vụ án tranh chấp HĐMBHH giải quyết
2.2.

theo thủ tục phúc thẩm tại TAND cấp huyện và cấp tỉnh ở
thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 - 2017

47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và mở rộng tự do hóa thương mại, Việt Nam
trong những năm qua đã rất nỗ lực, tích cực tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự
do, mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế Việt Nam sau 10 năm gia
nhập WTO (2007-2017) mặc dù bị ảnh hưởng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, khủng hoảng nợ công nhưng vẫn đạt được những thành tựu hết sức quan trọng.
Bên cạnh những kết quả nổi bật về cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển doanh
nghiệp, là những tín hiệu khả quan về xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài. Theo đó,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành dịch vụ, kinh doanh thương mại nói chung,
hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng cũng có một bước ngoặt cụ thể.
Có thể nói, trao đổi mua bán hàng hóa là hoạt động chính trong hoạt động thương
mại, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực

hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Việc nắm bắt, hiểu rõ và
thực hiện hiệu quả các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là điều kiện
tất yếu giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện hoạt động kinh doanh thuận lợi,
tránh được những hậu quả không mong muốn. Tuy nhiên, cùng với sự chuyển mình lớn
mạnh của nền kinh tế, các quan hệ thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ, đa dạng và
phức tạp, tranh chấp xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Để giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh thương mại mà cụ thể là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên cần
phải lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có thể là Thương lượng, Hòa
giải, hay Tòa án hoặc Trọng tài tùy vào mục đích, nhu cầu của các chủ thể và hiệu quả của
từng giải pháp.
Thực tế cho thấy, giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thường được các chủ thể lựa
chọn khi các phương thức Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài không mang lại hiệu quả. Bởi
ngoài những ưu điểm là cơ quan tài phán quốc gia, phán quyết mang tính cưỡng chế nghiêm
ngặt thì phương thức này tồn tại một số bất cập khiến các doanh nghiệp băn khoăn trong
việc lựa chọn như: thủ tục rườm rà, thiếu linh hoạt, thời gian giải quyết kéo dài, nguyên tắc

7


xét xử công khai có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi bí mật
kinh doanh bị tiết lộ... Ở vấn đề này, pháp luật Việt Nam quy định khá đầy đủ về nguyên
tắc, thẩm quyền, trình tự thủ tục thụ lý và xét xử đối với tranh chấp liên quan đến hợp đồng
mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, các quy định dần bộc lộ những hạn
chế của mình. Điều này thể hiện rõ trong thực tiễn xét xử của một số Tòa án ở các trung tâm
kinh tế của nước ta, trong đó có thành phố Đà Nẵng.
Thành phố Đà Nẵng là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương, đây cũng là
một trong những trung tâm kinh tế lớn của nước ta. Với điều kiện giao thông thuận lợi, là
cầu nối giữa nền kinh tế miền Bắc và miền Nam, hoạt động mua bán hàng hóa tại đây vô
cùng phát triển, kéo theo đó là các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra nhiều
hơn. Nghiên cứu các quy định về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa từ thực

tiễn xét xử ở Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng để có cái nhìn tổng thể về việc
giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa nơi đây, đồng thời thấy được những hạn
chế, bất cập của các quy định pháp luật cũng như những bất cập của quá trình áp dụng pháp
luật của lĩnh vực này, để từ đó có thể đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế ở thành
phố Đà Nẵng nói riêng và nước ta nói chung.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà
Nẵng" là đề tài cho Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết tranh chấp thương mại từ lâu đã là vấn đề được sự quan tâm rất lớn của
các nhà nghiên cứu và các học giả. Điều này được thể hiện qua rất nhiều công trình nghiên
cứu có giá trị. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như: Giáo trình Luật Thương mại
(Tập 2) của Trường Đại Học Luật Hà Nội, năm 2017; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam của
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001; Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết
tranh chấp thương mại của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012; Thủ
tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong pháp luật Tố tụng dân sự

8


Việt Nam, Luận án tiến sĩ của Đặng Thanh Hoa, Trường Đại học Luật TP.HCM, năm 2015;
và một số luận văn như: Xây dựng pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải ở Việt Nam của tác giả Ngô Thị Thanh Tuyền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2015; Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng con đường Tòa án từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam của tác giả Đỗ Thị Thương, Học viện Khoa học xã hội, năm 2014;
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án nhân dân cấp huyện của tác giả Vũ Đức Hoàng, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2009; Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án nhân

dân theo quy định của BLTTDS 2004 của tác giả Lê Hồng Phước, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2012; Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
theo thủ tục tố tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đinh Thị Trang, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay của tác giả Hoàng Tố Quyên, Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tác giả Nguyễn Thị Hiên, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014; ...
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết trên tạp chí như: Hoàn thiện quy định về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án của tác giả Nguyễn Duy
Phương, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 1), năm 2015; Những vướng mắc khi giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án của tác giả Vũ Gia Trường, Tạp chí Luật sư
Việt Nam, (số 3), năm 2016.
Riêng đối với vấn đề giải quyết tranh chấp về HĐMBHH, cũng đã có một số công
trình nghiên cứu như:
- Dương Phạm Thanh Trúc (2004), Pháp luật Việt Nam về việc giải quyết tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật TP.HCM;

9


- Nguyễn Trâm Anh (2015), Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngoài bằng tòa án tại Việt Nam - vướng mắc và
hướng hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP.HCM;
- Lê Nữ Thu Thúy (2015), Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng
hóa giữa các doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngoài - những vướng mắc và hướng
giải quyết, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP.HCM;
- Đặng Thùy Dương (2016), Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng trọng tài Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Phan Huy Hồng (2011), Các vấn đề pháp

lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của tòa án và trọng tài tại Việt
Nam, Trường Đại học Luật TP.HCM; ...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về vấn đề giải quyết tranh chấp HĐMBHH
khá nhiều. Mỗi công trình đều có những giá trị riêng, đóng góp vào quá trình hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp HĐMBHH. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ phát triển
của nền kinh tế đất nước, đặt ra những thách thức khác nhau và ở mỗi địa phương khi thực
hiện pháp luật lại bộc lộ những vướng mắc cụ thể. Do đó, một công trình nghiên cứu
chuyên sâu, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp HĐMBHH
từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nẵng và từ
đó đưa ra được giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp HĐMBHH
tại Việt Nam là một đề tài cấp thiết và có tính ứng dụng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung của các phương thức giải quyết
tranh chấp HĐMBHH, liên hệ thực tiễn từ việc xét xử các vụ tranh chấp tại Tòa án nhân dân
cấp huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nẵng. Từ đó, phân tích nguyên nhân, đánh giá thực
trạng nhằm đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lĩnh vực giải quyết
tranh chấp HĐMBHH, nâng cao hiệu quả xét xử tại TAND hai

1
0


cấp ở thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích các khái niệm, đặc điểm của HĐMBHH và tranh chấp
HĐMBHH. Làm rõ những vấn đề lý luận của các phương thức giải quyết tranh chấp
HĐMBHH. Từ đó, rút ra ý nghĩa của việc giải quyết hiệu quả những tranh chấp đó.
Thứ hai, phân tích các quy định pháp luật của Việt Nam về giải quyết tranh chấp

HĐMBHH, đánh giá hiệu quả của những quy định này từ thực tiễn xét xử tại TAND cấp
huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nẵng.
Cuối cùng, đưa ra giải pháp để xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải
quyết tranh chấp HĐMBHH và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp tại TAND cấp
huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nẵng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết
tranh chấp HĐMBHH và thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐMBHH tại TAND cấp
huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp HĐMBHH trong nước bằng Tòa án. Luận văn
không nghiên cứu giải quyết tranh chấp HĐMBHH quốc tế. Liên hệ thực tế từ các tranh
chấp HĐMBHH được TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng thụ lý và giải quyết.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa
Marx - Lenin và trên quan điểm, định hướng của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước
trong việc thực hiện những quy định của pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

1
1


Bên cạnh phương pháp luận, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật
học truyền thống như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh các quy phạm

pháp luật, các vụ việc trong thực tiễn giải quyết tranh chấp.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng chủ yếu trong chương một.
Qua việc thu thập các tài liệu, tác giả tiến hành so sánh, tổng hợp các quan điểm, ý kiến
khác nhau để hệ thống hóa các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp HĐMBHH.
Phương pháp phân tích, thống kê được sử dụng chủ yếu ở chương hai luận văn để từ
đó đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐMBHH bằng Tòa
án và thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐMBHH tại Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh
ở thành phố Đà Nẵng.
Chương ba của luận văn được tác giả sử dụng phương pháp diễn giải, quy nạp để đưa
ra các yêu cầu, phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
HĐMBHH, nâng cao hiệu quả xét xử, thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐMBHH
tại tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nang.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số vụ án trên thực tế phát sinh để phân tích, bình
luận dưới góc độ khoa học.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả của luận văn góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về HĐMBHH, về tranh
chấp và giải quyết tranh chấp HĐMBHH theo những quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành trong thời kỳ hội nhập kinh tế mới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
HĐMBHH, nâng cao hiệu quả công tác trong ngành Tòa án nói chung và TAND cấp huyện
và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nang nói riêng.

7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài Mục lục, Danh mục từ viết tắt, Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương:

1

2


Chương 1: Những vấn đề chung về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa bằng Tòa án
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
bằng Tòa án ở Việt Nam và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh ở
thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa bằng Tòa án và nâng cao hiệu quả thực thi tại
Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh ở thành phố Đà Nẵng

1
3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA BẰNG TÒA ÁN
1.1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Nhờ vào những kết quả đạt được trong công cuộc đổi mới và mở rộng hội nhập, tự do
hóa thương mại, kinh tế của nước ta đã và đang khẳng định được vị trí và vai trò quan trọng
của mình, đặc biệt là trong các lĩnh vực thương mại hàng hóa. Ở Việt Nam, mua bán hàng
hóa là một trong những hoạt động thương mại quan trọng được quy định tại Luật Thương
mại 2005, theo đó, hoạt động này nhằm mục đích sinh lợi, bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ
thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận [19, Đ.3].
Hoạt động này chủ yếu được thỏa thuận và ký kết thông qua hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có điều khoản nào định nghĩa rõ ràng HĐMBHH,

nhưng có thể xác định được bản chất của HĐMBHH thông qua khái niệm Hợp đồng mua
bán tài sản trong Bộ Luật dân sự. Cụ thể, Điều 430 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng mua
bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản
cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”. Đồng thời, tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thương
mại 2005 cũng quy định hàng hóa bao gồm “tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình
thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai”.
Như vậy, có thể thấy HĐMBHH trong thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên bán chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và bên mua thanh toán tiền
cho bên bán. Đây là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản trong luật dân sự Việt
Nam với đối tượng là hàng hóa nói riêng và với mục đích sinh lời.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Cũng như những loại hợp đồng khác, HĐMBHH mang những đặc điểm chung của
một hợp đồng như:
Đầu tiên, đây là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên chủ thể, là sự thống nhất ý chí
để tạo lập một quan hệ pháp lý trên tinh thần tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã


hội. Thêm vào đó, sự thống nhất ý chí của các bên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối ứng
giữa các bên với nhau. Tức là mỗi bên trong hợp đồng mua bán đều bị ràng buộc bởi nghĩa
vụ đối với bên kia, đồng thời cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia thực hiện nghĩa vụ đối
với mình. Trong HĐMBHH hóa tồn tại các quyền và nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại
và liên quan mật thiết với nhau: là nghĩa vụ giao hàng đúng thỏa thuận của bên bán và
nghĩa vụ thanh toán của bên mua; quyền nhận hàng và quyền nhận thanh toán. Ngoài ra,
hiệu lực của hợp đồng là hiệu lực bắt buộc riêng, được các bên tự thỏa thuận chứ không
phải hiệu lực bắt buộc chung như pháp luật.
Bên cạnh những đặc điểm chung kể trên, là một hình thức pháp lý của quan hệ mua
bán hàng hóa nói riêng, HĐMBHH còn có những đặc điểm cụ thể sau:
Thứ nhất, về chủ thể của HĐMBHH. Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập chủ
yếu giữa các thương nhân. Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005, “ Thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách

độc lập, thường xuyên và có đăng kỷ kinh doanh”. Dựa trên quy định này, nếu là tổ chức thì
tổ chức phải được thành lập trên cơ sở quy định của pháp luật, nếu là cá nhân thì cá nhân
phải là người có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Cả hai chủ
thể này đều phải tiến hành hành vi thương mại với tư cách là những chủ thể độc lập, thường
xuyên, phải đăng ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh từ cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Cũng theo quy định này, các bên trong HĐMBHH có thể là
các thương nhân Việt Nam hoặc giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài.
Ngoài ra, chủ thể của HĐMBHH còn là những chủ thể khác khi họ thực hiện hoạt động trao
đổi mua bán hàng hóa và lựa chọn áp dụng luật Thương mại 2005 [19, Đ.1].
Thứ hai, về hình thức HĐMBHH. Hình thức của hợp đồng được hiểu là sự biểu hiện
ra bên ngoài nội dung của hợp đồng và cũng là biểu hiện cho sự tồn tại của nó. Hình thức
của hợp đồng bao gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện... để thể hiện ý chí của
các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng. Tùy thuộc vào nội dung và tính chất của từng hợp
đồng cũng như tùy thuộc vào uy tín, độ tin cậy lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một
hình thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể.


Luật Thương mại 2005 thừa nhận HĐMBHH được thực hiện có thể bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, đối với những loại HĐMBHH mà pháp
luật quy định phải được giao kết bằng văn bản thì phải tuân theo quy định đó [19, Đ.24].
Hình thức bằng văn bản và các hình thức tương đương văn bản như: điện báo, telex, fax,
thông điệp dữ liệu.... yêu cầu nội dung, cam kết về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham
gia hợp đồng phải được quy định trong một văn bản với những điều khoản cụ thể. Văn bản
này có chữ ký của các bên. Thông thường, nó sẽ được lập thành nhiều bản, mỗi bên sẽ giữ
một bản. Bản hợp đồng này sẽ là bằng chứng chứng minh sự tồn tại cho thỏa thuận. Do đó,
hình thức bằng văn bản thường được áp dụng trong những giao dịch quan trọng. Ở một số
trường hợp, pháp luật còn quy định văn bản này phải được công chứng, chứng thực để đảm
bảo tính vững chắc hơn, vì thế, sẽ có giá trị chứng cứ cao nhất. Tuy nhiên, tất cả các hợp
đồng được lập ra một cách hợp pháp thì đều có giá trị pháp lý như nhau.
Trong những trường hợp nhất định, pháp luật yêu cầu hình thức bắt buộc phải là văn

bản, điển hình là hợp đồng giao thương quốc tế. Trên thực tế, tuy có nhiều hình thức khác
nhau nhưng trong hoạt động kinh doanh thương mại, nhất là hoạt động mua bán hàng hóa,
với đối tượng là hàng hóa có quy mô lớn và giá trị lớn, để đảm bảo tính an toàn, minh bạch
và lợi ích của các bên thì hình thức hợp đồng bằng văn bản hay được các bên ưu tiên lựa
chọn.
Thứ ba, về đối tượng của HĐMBHH. Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là
hàng hóa, cụ thể là tất cả các loại động sản, kể cả động sản được hình thành trong tương lai
hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại [19, Đ.3]. Theo quy định của pháp luật
dân sự, động sản là những tài sản không phải là bất động sản, còn bất động sản bao gồm:
đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà,
công trình xây dựng và tài sản khác theo quy định của
pháp luật [13, Đ.107].
Như vậy, với tư cách là đối tượng của HĐMBHH, hàng hóa trong pháp luật Việt Nam
được hiểu là hàng hóa đã tồn tại vào thời điểm thiết lập hợp đồng hoặc hàng hóa sẽ hình
thành trong tương lai. Đồng thời, hàng hóa trong HĐMBHH cũng không thuộc hàng cấm


kinh doanh, trường hợp hàng hóa thuộc danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có
điều kiện thì cần phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP
ngày 12 tháng 06 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm
kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện (Ngoại trừ khoản 3 của phụ lục
II đã bị bãi bỏ theo quy định của Nghị định 39/2009/NĐ-CP về vật liệu nổ công nghiệp).
Thứ tư, về nội dung của HĐMBHH. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa bắt
buộc theo quy định pháp luật của mỗi quốc gia. Cũng như một hợp đồng dân sự, HĐMBHH
yêu cầu phải có các điều khoản thể hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi bên giao kết theo thỏa
thuận. Nội dung này không trái với đạo đức xã hội và những quy định của pháp luật thương
mại và pháp luật có liên quan. Trong đó, phải đảm bảo những quyền và nghĩa vụ cơ bản
như: bên bán có nghĩa vụ chuyển hàng hóa và quyền sở hữu cho bên mua và nhận thanh
toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng hóa, quyền sở hữu từ bên bán. Luật
Thương mại 2005 không quy định cụ thể nội dung, tuy nhiên dựa vào đặc điểm chung của

hợp đồng ta có thể xác định một HĐMBHH thông thường phải chứa đựng sự thỏa thuận về
đối tượng hàng hóa, chất lượng hàng hóa, giá cả hàng hóa, phương thức thanh toán, thời
hạn và địa điểm giao nhận hàng... Ngoài ra, các chủ thể trong hợp đồng còn bị ràng buộc
một cách đương nhiên bởi các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán, tức là những điều
khoản pháp luật quy định nhưng các bên không thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng, như quy
định về trách nhiệm pháp lý của các bên trong trường hợp vi phạm hợp đồng và lựa chọn
hình thức giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra.
Thứ năm, về mục đích của HĐMBHH. Trong trường hợp chủ thể của HĐMBHH là
các thương nhân thì mục đích của HĐMBHH là lợi nhuận, do hoạt động mua bán hàng hóa
là một hành vi thương mại với bản chất sinh lời. Trong trường hợp một bên trong quan hệ
HĐMBHH là các chủ thể khác, không phải là thương nhân và lựa chọn áp dụng Luật
Thương mại 2005 thì mục đích mua bán hàng hóa của chủ thể này là phục vụ cho việc sinh
hoạt, tiêu dùng hoặc các hoạt động của các cơ quan, tổ chức đó...
1.1.1.

Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa


Căn cư vao đăc điêm chu thê, đôi tương, nơi giao kêt hơp đông, HĐMBHH được
phân thành hai loại: HĐMBHH trong nước và HĐMBHH quốc tế.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước: là HĐMBHH được thực hiện trên lãnh thổ
của Việt Nam mà không có sự dịch chuyển hàng hóa qua biên giới quốc gia hoặc vào khu
vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định
của pháp luật. Ví dụ như khu chế xuất hoặc khu ngoại quan. Chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hóa trong nước là tổ chức, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam. Đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa trong nước là hàng hóa nằm trên lãnh thổ Việt Nam mà không có sự dịch
chuyển qua biên giới quốc gia hoặc vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ của Việt Nam
được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Thêm vào đó, hợp đồng
được giao kết trên lãnh thổ Việt Nam.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (còn gọi là hợp đồng ngoại thương) theo pháp

luật Việt Nam là HĐMBHH được thực hiện dưới một trong các hình thức: xuất khẩu, nhập
khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu [19, Đ27]. Hợp đồng này được
thực hiện bởi ít nhất một bên chủ thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài với đối tượng hàng hóa
là động sản. Hay nói cách khác, hàng hóa này có thể được dịch chuyển qua biên giới của
một quốc gia hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ của Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.

1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1.

Khái niệm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Hiểu theo nghĩa thông thường, tranh chấp là “giành nhau một cách giằng co cái
không rõ thuộc về bên nào, là đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong
vấn đề quyền lợi giữa hai bên" [11, tr 973]. Trong thực tiễn đời sống, quyền lợi đó có thể là
lao động, dân sự, kinh doanh thương mại... mà các bên mong muốn có được. Trên phương
diện pháp lý, tranh chấp là sự không thỏa thuận được các vấn đề về sự kiện pháp lý.
Trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại nói chung hay hoạt động mua bán
hàng hóa nói riêng, việc tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh là điều không thể tránh
khỏi. Vì hoạt động mua bán hàng hóa là một trong những hoạt động thương mại quy định


tại Luật thương mại 2005 nên có thể hiểu tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa chính là
tranh chấp thương mại theo quy định của pháp luật thương mại.
Trước đây, ở Việt Nam trong thời gian dài, khái niệm tranh chấp phát sinh từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh và chủ yếu từ hợp đồng kinh tế đầu tiên được sử dụng rộng rãi là
tranh chấp kinh tế. Song song tồn tại với khái niệm tranh chấp kinh tế là tranh chấp thương
mại được quy định tại điều 238 Luật thương mại năm 1997: “Tranh chấp thương mại là
tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong
hoạt động thương mại”.

Đến Luật Thương mại 2005, khái niệm tranh chấp thương mại không còn được quy
định rõ, nhưng có thể hiểu, tranh chấp thương mại phải hội đủ các yếu tố sau đây:
- Tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn, bất đồng về việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ cụ thể;
- Những mâu thuẫn đó phải phát sinh từ hoạt động thương mại;
- Những mâu thuẫn đó phát sinh chủ yếu giữa các chủ thể là thương nhân.
Qua đó có thể hiểu tranh chấp hợp đồng thương mại mà cụ thể là tranh chấp
HĐMBHH là những bất đồng, mâu thuẫn trong hoạt động mua bán hàng hóa giữa các bên
mà chủ yếu là liên quan đến việc thực hiện, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
quyền và nghĩa vụ theo HĐMBHH. Tranh chấp HĐMBHH phát sinh từ nhiều nguyên nhân
khác nhau. Đó có thể là từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, có
thể tranh chấp về nội dung hợp đồng, về thực hiện hợp đồng hay trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Xuất phát từ khái niệm tranh chấp HĐMBHH là những bất đồng, mâu thuẫn trong
hoạt động mua bán hàng hóa giữa các bên mà chủ yếu là liên quan đến việc thực hiện,
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo HĐMBHH, có thể
thấy tranh chấp này bao gồm những đặc điểm sau:


Thứ nhất, tranh chấp HĐMBHH là tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng
hóa. Căn cứ phát sinh tranh chấp là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật làm
xâm hại đến lợi ích của nhau.
Thứ hai, các tranh chấp HĐMBHH chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các
thương nhân với nhau. Trong một số trường hợp luật định, ngoài thương nhân là chủ thể
chủ yếu của tranh chấp HĐMBHH, các cá nhân, tổ chức khác không phải là thương nhân
cũng có thể là chủ thể của tranh chấp khi trong giao dịch các bên lựa chọn áp dụng luật
thương mại.
Thứ ba, nội dung của tranh chấp HĐMBHH là những bất đồng, mâu thuẫn về quyền
và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ mua bán hàng hóa cụ thể. Trong hoạt động

thương mại, các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục
đích đề ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp HĐMBHH do các bên tranh chấp tự định đoạt.
Pháp luật không áp đặt mà ghi nhận nhiều phương thức giải quyết tranh chấp HĐMBHH
như: thương lượng, hòa giải, Trọng tài và Tòa án. Do đó, các bên trong tranh chấp có thể tự
do lựa chọn phương pháp phù hợp để đạt được kết quả tốt nhất trên cơ sở tôn trọng pháp
luật về giải quyết tranh chấp HĐMBHH.
1.2.3. Khái niệm, yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa Hoạt
động mua bán hàng hóa diễn ra thường xuyên và liên tục trên thương trường. Cùng với đó,
là những hệ quả phát sinh có thể do sự cố ý của một trong các bên chủ thể hoặc cũng có thể
phát sinh ngoài phạm vi kiểm soát của các chủ thể tham gia. Để bảo vệ quyền lợi và lợi ích
chính đáng của các chủ thể, tạo nên một môi trường kinh doanh công bằng, lành mạnh, bên
cạnh sự tất yếu là phải có khung pháp lý bao quát, chặt chẽ thì sự cần thiết phải có những
giải pháp phù hợp nhằm giải quyết khi tranh chấp xảy ra.
Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa có thể hiểu là những cách thức,
phương pháp nhằm hạn chế, xóa bỏ những bất đồng, xung đột, loại trừ những tranh chấp đã
phát sinh và khắc phục hậu quả không mong muốn.


1.2.4. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong quá trình hoạt động kinh doanh thương mại mua bán hàng hóa, tranh chấp
xảy ra là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, một khi tranh chấp xảy ra, việc cần thiết là tìm được
một giải pháp thật sự phù hợp nhằm giải quyết hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích của bên
bị vi phạm, hàn gắn quan hệ kinh doanh giữa các bên tranh chấp và ở mặt nào đó hạn chế
những thiệt hại cho nền kinh tế.
Pháp luật dân sự Việt Nam nói chung và thương mại hàng hóa nói riêng không bắt
buộc các chủ thể phải giải quyết tranh chấp bằng một biện pháp cụ thể nào mà tôn trọng sự
thỏa thuận, tự định đoạt của các chủ thể. Do đó, có nhiều hình thức giải quyết tranh chấp
mà các bên tự do lựa chọn phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Đó có thể là thương lượng,

hòa giải hay thông qua các cơ quan tài phán như Tòa án hoặc Trọng tài [19, Đ317].
1.2.4. !. Thương lượng
Xuất phát từ bản chất của Thương lượng là hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của các
bên tranh chấp, có thể dễ dàng nhận ra Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp
phổ biến nhất thông qua việc các bên cùng nhau gặp gỡ, bàn bạc, thỏa thuận loại bỏ tranh
chấp mà không cần có sự giúp đỡ hay can thiệp của bên thứ ba.
Giải quyết tranh chấp HĐMBHH bằng phương thức thương lượng cũng có những ưu
điểm và những hạn chế nhất định:
Về ưu điểm: Giải quyết tranh chấp HĐMBHH bằng thương lượng là giải pháp đơn
giản, nhanh chóng, tiện lợi, ít tốn kém và mang lại hiệu quả cho các bên chủ thể. Hơn thế
nữa, giải pháp này cũng không gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, quan hệ kinh doanh giữa các
bên. Do đó, đây là giải pháp được ưu tiên hàng đầu trước khi các bên tìm đến các giải pháp
khác để giải quyết tranh chấp.
Về hạn chế: Với đặc điểm là phương thức giải quyết không dựa trên trình tự, thủ tục
nào được quy định trong những quy phạm pháp luật hiện hành mà các bên tranh chấp tự do
thỏa thuận cả về cách thức, nội dung và phương án giải quyết nên quá trình thương lượng sẽ
không có kết quả nếu một hoặc cả hai bên tranh chấp không thực hiện đúng thỏa thuận. Mặt
khác, mặc dù kết quả thương lượng thông thường được ghi nhận bằng văn bản với tính chất


như một thỏa thuận hợp pháp để giải quyết tranh chấp, sự thương lượng cũng không có tính
cưỡng chế bắt buộc thi hành mà hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên. Thêm vào
đó, khi các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vực tranh chấp, không nhận thức được vị thế của
mình và khả năng thắng thua nếu theo đuổi vụ kiện tại cơ quan tài phán thì khả năng đạt
được thành công rất khó.
I.2.4.2. Hòa giải
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải từ lâu đã được khuyến khích sử
dụng nhiều trong quy định của pháp luật các quốc gia. Nó được coi là phương thức giải
quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba độc lập. Trên cơ sở sự hỗ trợ, giúp đỡ,
thuyết phục của bên thứ ba đó, các bên tranh chấp thỏa thuận tìm kiếm giải pháp nhằm

chấm dứt những mâu thuẫn đang tồn tại.
Giải quyết tranh chấp từ HĐMBHH bằng phương thức hòa giải có những ưu điểm và
hạn chế sau:
về ưu điểm: Hình thức này cũng giống thương lượng có ưu điểm là đơn giản, thuận
tiện, nhanh chóng và linh hoạt, ít tốn kém vì hơn ai hết, các bên tranh chấp là những người
hiểu rõ nhất tranh chấp của mình. Với hòa giải, các bên còn có thể chủ động xử lý trong
nhiều tình huống khác nhau vì họ không bị ràng buộc trong việc thực hiện các trình tự, thủ
tục cụ thể nào. Thêm vào đó, bên trung gian hòa giải thường là người có trình độ chuyên
môn và kinh nghiệm về lĩnh vực tranh chấp, họ có khả năng làm cho ý chí của các bên đồng
thuận và dễ gặp nhau, do đó hiệu quả thành công cao. Kết quả hòa giải được ghi nhận và
chứng kiến cuả người thứ ba nên mức độ tôn trọng và khả năng tuân thủ cam kết cũng cao
hơn. Thêm một ưu điểm không nhỏ của hòa giải là quá trình giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải các bên được phép bảo mật mọi thông tin. Trong khi giải quyết tại Tòa án thì điều này
không được đảm bảo do Tòa án thực hiện xét xử theo nguyên tắc công khai. Trong tố tụng,
việc hòa giải thành còn giảm áp lực xét xử đáng kể cho Tòa án.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải cũng có
những hạn chế như việc hoà giải thành hay không còn phụ thuộc phần nhiều vào ý chí tự
nguyện của các bên. Bên cạnh đó, so với thương lượng, phương thức này tốn kém hơn do


các bên tranh chấp phải trả chi phí cho bên trung gian hòa giải; vấn đề đảm bảo uy tín và bí
mật kinh doanh cũng hạn chế hơn do chịu ảnh hưởng ít nhiều của bên thứ ba.
I.2.4.3. Trọng tài
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp được sử dụng phổ biến trên thế
giới, đặc biệt để giải quyết những tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài.
Đây là một biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án với cách thức giải quyết do các
bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn thông qua hoạt động của hội đồng Trọng tài hoặc Trọng
tài viên theo trình tự, thủ tục luật định. Hội đồng Trọng tài hoặc Trọng tài viên có vai trò là
bên thứ ba độc lập sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm tháo gỡ mâu thuẫn, đưa ra một
phán quyết pháp lý buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Tại Việt Nam, tổ chức và hoạt

động của Trọng tài được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật Trọng tài thương mại 2010.
Là một hình thức giải quyết tranh chấp hiệu quả được thực hiện phổ biến trên thể
giới, Trọng tài có những ưu điểm như: Thủ tục Trọng tài không quá phức tạp, các bên có thể
linh động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều thủ tục như Tòa
án nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc của các bên tranh chấp. Nguyên tắc xét xử
của Trọng tài không công khai và chủ động trong việc cung cấp chứng cứ nên bảo đảm uy
tín và bí mật kinh doanh của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, Trọng tài giải quyết tranh
chấp nhân danh ý chí của các bên, không nhân danh quyền lực nhà nước nên thường phù
hợp để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Đặc biệt, khác với quyết định công
nhận hòa giải thành và thương lượng thành công, quyết định của Trọng tài là chung thẩm
nên có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp.
Bên cạnh những ưu điểm trên, Trọng tài thương mại cũng có những hạn chế như:
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài không mang tính đương nhiên, mà Trọng
tài chỉ có thẩm quyền khi các bên trao quyền giải quyết tranh chấp thông qua một điều
khoản Trọng tài trong hợp đồng hoặc một thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết trước
Trọng tài. Đồng thời, việc thực hiện các phán quyết của Trọng tài cũng phụ thuộc vào ý chí
tự nguyện của các bên. Nếu các bên không thiện chí, việc giải quyết tranh chấp cũng sẽ
không dễ dàng. Hơn nữa, khác với Tòa án, Trọng tài không phải là cơ quan quyền lực nhà


nước nên phán quyết của Trọng tài không đương nhiên được bảo đảm thi hành bằng sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước mà cần có sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước trong đó đặc biệt
là sự hỗ trợ của Tòa án.
I.2.4.4. Tòa án
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực
nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Bản án hay quyết định
của Tòa án về vụ tranh chấp mang tính ràng buộc pháp lý và được đảm bảo thi hành bằng
sức mạnh cưỡng chế Nhà nước. Các tranh chấp kinh doanh thương mại được giải quyết
bằng con đường Tòa án luôn chiếm tỷ lệ lớn. Thông thường thì hình thức giải quyết tranh
chấp thông qua Tòa án được tiến hành khi mà việc áp dụng các biện pháp thương lượng,

hòa giải không đạt hiệu quả trong khi hình thức Trọng tài vẫn còn khá mới mẻ trong vấn đề
giải quyết tranh chấp ở nước ta.
Giải quyết tranh chấp HĐMBHH bằng Tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nguyên tắc theo pháp luật tố tụng mà cụ thể là theo
quy định của BLTTDS 2015 và dựa trên các văn bản pháp luật liên quan như Bộ luật dân
sự, Luật Thương mại... Việc giải quyết tranh chấp có thể trải qua hai cấp xét xử là sơ thẩm
và phúc thẩm. Điều này tạo cho các bên tranh chấp thực hiện quyền tố tụng của mình, được
đảm bảo quyền lợi khi Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm xét xử không
đúng. Trong một số trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật còn có thể được xét lại theo
thủ tục đặc biệt: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Vì là hình thức giải quyết mang tính chất
quyền lực nhà nước nên các phán quyết của Tòa án bị ràng buộc về mặt pháp lý. Nếu một
trong các bên không tuân thủ sẽ bị cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật bằng bộ
máy cưỡng chế nhà nước. Do đó, quyền lợi của bên bị vi phạm sẽ được đảm bảo cao nhất.
Thêm vào đó, nguyên tắc xét xử công khai gây áp lực để Tòa án xét xử khách quan, minh
bạch và đúng pháp luật, mặt khác còn có tính răn đe đối với
những chủ thể kinh doanh cố tình sai phạm.
Tuy nhiên, do trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nghiêm ngặt, khuôn
khổ nên các bên buộc phải tuân theo trình tự, thủ tục đó, dẫn đến việc thiếu linh hoạt, thời


gian xét xử kéo dài gây ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. Thời hạn giải
quyết tranh chấp HĐMBHH được BLTTDS 2015 quy định là là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý
vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài. Tuy
nhiên, đối với những trường hợp vụ án bị đình chỉ do sai sót trong quá trình xét xử, vụ án có
thể kéo dài vài năm.
Thêm vào đó, việc Tòa án xét xử công khai vừa là ưu điểm vừa là hạn chế khi không
đảm bảo được bí mật kinh doanh, vấn đề sở hữu trí tuệ... của các doanh nghiệp. Khi đưa vụ
án ra giải quyết trước Tòa, uy tín của doanh nghiệp cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Như thế,
quan hệ hợp tác giữa các bên khó có thể duy trì, việc kinh doanh của doanh nghiệp cũng
phần nào bị tổn thất.

Vì những nhược điểm trên mà Tòa án thường là phương án lựa chọn cuối cùng của
các bên khi mà những phương thức giải quyết tranh chấp khác không mang lại kết quả.
Tóm lại, Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài hay Tòa án, mỗi phương thức giải quyết
tranh chấp đều có những ưu và nhược điểm riêng. Trên thực tế, những phương thức này
cũng bổ sung, hỗ trợ qua lại lẫn nhau. Ví dụ: Trong giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì
hòa giải là một thủ tục bắt buộc trước khi Tòa án mở phiên tòa xét xử; trong giải quyết
tranh chấp bằng Trọng tài thì Tòa án sẽ hỗ trợ trong những trường hợp nhất định nhằm bảo
vệ quyền lợi cho các bên tranh chấp. Tùy vào tình trạng tranh chấp mà các bên có thể cân
nhắc lựa chọn một giải pháp phù hợp, hiệu quả nhất để áp dụng.

1.3. Khái quát pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa bằng tòa án ở Việt Nam
1.3.1. Sự phát triển của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa bằng Tòa án ở Việt Nam
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại nói chung và tranh chấp
HĐMBHH nói riêng được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật mà quan trọng
nhất là Bộ luật tố tụng dân sự. Cùng với sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế đất nước,
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐMBHH bằng Tòa án
ở Việt Nam nói riêng cũng trải qua một quá trình hình thành và phát triển.


×