Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Chính sách trợ cấp trợ cấp tai nạn lao động từ thực tiễn tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH KHANG

Nguyễn Đình Khang

CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG
CHUYÊN NGÀNH CHÍNH SÁCH CÔNG

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NĂM 2018

HÀ NỘI - 2018
I


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Đình Khang

CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH DƢƠNG
Chuyên ngành
Mã số



: Chính sách công
: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS LÊ THANH SANG

`

HÀ NỘI, 2018

II


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 ........................................................................................................................... 7
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG................. 7
1.1. Tổng quan về bảo hiểm xã hội ................................................................................ 7
Bảng 1.1: Phân biệt bảo hiểm xã hội với bảo hiểm thƣơng mại ..................................... 12
1.2. Lý luận cơ bản về chính sách trợ cấp tai nạn lao động ...................................... 21
1.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách trợ cấp tai nạn lao động..................... 30
32

1.4. Các nội dung cần hoàn thiện

Chƣơng 2 ......................................................................................................................... 33
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CHI TRẢ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG TẠI

TỈNH BÌNH DƢƠNG GIAI ĐOẠN 2012 – 2016 .......................................................... 33
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dƣơng ................ 33
2.2. Thực trạng về thực hiện chi trả chế độ tai nạn lao động tại tỉnh Bình
Dƣơng ............................................................................................................................. 35
Bảng 2.2: Tình hình tai nạn lao động tại tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn 2012 – 2016 ........ 38
Bảng 2.4: Tình hình giải quyết chế độ tai nạn lao động theo nội dung chế độ tại tỉnh
Bình Dƣơng ..................................................................................................................... 40
2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách chi trả chế độ tai nạn lao động tại
Bình Dƣơng .................................................................................................................... 42
Chƣơng 3 ......................................................................................................................... 53
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG
ĐẾN NĂM 2020 ............................................................................................................. 53
3.1. Kinh nghiệm quản lý chi trả chế độ tai nạn lao động ở một số quốc gia
trên thế giới và bài học cho Việt Nam ......................................................................... 53
3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách trợ cấp tai nạn lao động................................. 62

III


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AT,VSLĐ

An toàn, vệ sinh lao động

ASXH

An sinh xã hội

BNN


Bệnh nghề nghiệp

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

NLĐ

Ngƣời lao động

NSDLĐ

Ngƣời sử dụng lao động

TNLĐ

Tai nạn lao động

ILO

International Labour Organization
Tổ chức lao động quốc tế


IV


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Phân biệt bảo hiểm xã hội với bảo hiểm thƣơng mại ..................................... 12
Bảng 2.1: Tình hình doanh nghiệp và lao động tham gia bảo hiểm xã hội tại tỉnh
Bình Dƣơng ..................................................................................................................... 36
Bảng 2.2: Tình hình tai nạn lao động tại tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn 2012 –
2016.................................................................................................................................38
Bảng 2.3: Tình hình giải quyết chế độ tai nạn lao động theo loại chế độ trợ cấp tại
tỉnh Bình Dƣơng .............................................................................................................. 39
Bảng 2.4: Tình hình giải quyết chế độ tai nạn lao động theo nội dung chế độ tại tỉnh
Bình Dƣơng ..................................................................................................................... 40
Bảng 2.5: Tình hình giải quyết chế độ tai nạn lao động theo phƣơng thức chi trả tại
tỉnh Bình Dƣơng .............................................................................................................. 41

V


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói chính sách trợ TNLĐ là một trong những chế độ BHXH ra đời
sớm nhất trong lịch sử phát triển của BHXH, có vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo đời sống cho NLĐ sau khi bị rủi ro do quá trình lao động. Trong bối cảnh nền
kinh tế nƣớc ta đang trải qua quá trình cơ giới hóa, manh nha giai đoạn tự động hóa,
sự phát triển của các ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào máy móc, thiết bị thay cho
thao tác thủ công của NLĐ làm cho tình hình TNLĐ cũng tăng nhanh qua các năm.
TNLĐ gây ra những tổn thất lớn lao về ngƣời và của cho các cá nhân, gia đình và
toàn xã hội.

Theo quy định hiện hành, khi bị TNLĐ, NLĐ sẽ đƣợc hƣởng hai chế độ; thứ
nhất là chế độ bồi thƣờng hoặc trợ cấp từ phía NSDLĐ tùy thuộc vào yếu tố lỗi của
các bên trong vụ TNLĐ; thứ hai là chế độ trợ cấp TNLĐ từ tổ chức BHXH. Trong
những năm qua, chính sách, chế độ BHXH đối với ngƣời bị TNLĐ đã nhiều lần
đƣợc bổ sung, sửa đổi cho phù hợp, đặc biệt là sau khi có Luật BHXH. Tuy nhiên,
thực trạng chính sách TNLĐ còn tồn tại nhiều hạn chế nhƣ: chƣa có cơ chế tạo điều
kiện cho ngƣời bị TNLĐ tìm việc làm phù hợp; mức hƣởng thấp; chƣa có những
biện pháp hiệu quả để hạn chế TNLĐ; chƣa có cơ chế thƣởng, phạt rõ ràng đối với
các đơn vị thực hiện tốt hoặc không tốt công tác AT,VSLĐ; số lƣợng NLĐ tham gia
chế độ thấp…
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dƣơng là một tỉnh công
nghiệp có tốc độ phát triển cao so với các địa phƣơng khác trong cả nƣớc, đóng góp
đáng kể vào ngân sách nhà nƣớc, là một trong những địa phƣơng giữ vai trò đầu tàu
kinh tế. Tốc độ thu hút đầu tƣ và phát triển kinh tế của tỉnh kéo theo sự gia tăng rất
nhanh số lƣợng doanh nghiệp và NLĐ, là những đối tƣợng trực tiếp chịu tác động
của chính sách BHXH và chính sách trợ cấp TNLĐ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài “Chính sách trợ cấp trợ cấp tai nạn lao động từ thực tiễn tỉnh Bình
Dƣơng”, từ đó đƣa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những bất cập,
yếu điểm của chính sách, chế độ hiện hành là hết sức cần thiết.
1


2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến BHXH, các chế độ BHXH và chế độ TNLĐ đã có những công
trình nghiên cứu đƣợc công bố nhƣ sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực hiện và định hƣớng hoàn thiện
tác nghiệp chi trả các chế độ BHXH hiện nay” năm 1996, mã số 96 – 03 – 03/ĐT,
do TS. Dƣơng Xuân Triệu làm Chủ nhiệm. Đề tài đã khái quát những vấn đề lý luận
về BHXH và quỹ BHXH; phân tích thực trạng hoạt động chi trả các chế độ BHXH
và quỹ BHXH; phân tích thực trạng hoạt động chi trả các chế độ BHXH ở Việt

Nam giai đoạn 1995 – 1996 thông qua việc phân tích các mặt nhƣ: cơ sở vật chất
phục vụ công tác chi trả, hệ thống sổ sách biểu mẫu chi trả BHXH, quản lý đối
tƣợng chi trả, quy trình chi trả và lệ phí chi trả; đồng thời qua việc phân tích các
phƣơng thức chi trả BHXH, phƣơng hƣớng hoàn thiện các phƣơng thức chi trả
BHXH ở nƣớc ta. Kết quả của đề tài này là:
+ Nêu lên đƣợc những ƣu điểm và nhƣợc điểm của phƣơng thức chi trả trực
tiếp và gián tiếp.
+ Đƣa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện tác nghiệp chi trả các chế độ
BHXH cho ngƣời lao động nhƣ: hoàn thiện các văn bản pháp lý để cơ quan BHXH
các cấp có cơ sở thực hiện; xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy chi trả hoàn chỉnh từ
Trung ƣơng đến cơ sở; tính toán mức phí chi trả giữa các vùng, các khu vực cho
hợp lý hơn; tăng cƣờng cơ sở vật chất cho cơ quan BHXH cấp huyện phục vụ cho
công tác chi trả trực tiếp; tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát tài chính trong
khâu nghiệp vụ, chuyên môn; đẩy mạnh công tác học tập, rèn luyện, năng cao trình
độ nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ làm công tác BHXH; tăng
cƣờng công tác tuyên truyền trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng về chính sách,
chế độ BHXH.
- Đề tài khoa học “Hoàn thiện phƣơng thức tổ chức, quản lý chi trả chế độ
ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN cho ngƣời tham gia BHXH”, năm 1998, do TS.
Dƣơng Xuân Triệu làm Chủ nhiệm. Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ
bản về chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và BNN cả trƣớc và sau khi BHXH
2


Việt Nam đi vào hoạt động. Đề tài đã phản ánh đƣợc quá trình tổ chức quản lý chi
ba chế độ theo cơ chế cũ, cũng nhƣ từ khi BHXH Việt Nam ra đời, đã phân tích
đƣợc những mặt mạnh, mặt yếu cùng với những tồn tại do các văn bản pháp luật về
BHXH gây ra. Qua đó, đề tài cũng đã đƣa ra những kiến nghị làm cơ sở cho việc
sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để đáp ứng các yêu cầu đổi mới cơ chế
chính sách về BHXH.

- Đề tài khoa học “Thực trạng và giải pháp về chế độ chính sách BHXH
TNLĐ, BNN đối với ngƣời lao động tham gia BHXH”, năm 2000, chủ nhiệm: Hà
Văn Chi, BHXH Việt Nam.
Đề tài đã nghiên cứu các nội dung:
+ Khái quát những vấn đề có tính lý luận về BHXH và chế độ TNLĐ, BNN
trên thế giới và ở Việt Nam nhƣ khái niệm, vai trò, nguyên tắc hoạt động của
BHXH, mối quan hệ giữa chế độ TNLĐ, BNN với các chế độ khác trong hệ thống
các chế độ BHXH.
+ Phân tích thực trạng TNLĐ, BNN ở nƣớc ta giai đoạn năm 1998 - 2000 và
các nhân tố ảnh hƣởng trực tiếp đến TNLĐ, BNN và đề tài phân tích hai nhóm nhân
tố cơ bản là điều kiện lao động và công tác an toàn lao động.
+ Đánh giá thực trạng thực hiện chế độ TNLĐ, BNN ở Việt Nam, bao gồm
đánh giá nội dung chế độ theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 và
tổ chức thực hiện chế độ trên cơ sở đó đƣa ra những hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ BHXH, TNLĐ, BNN
nhƣ giải pháp hoàn thiện chính sách, giải pháp về tổ chức thực hiện và giải pháp
nhằm hạn chế những nhân tố gây ra TNLĐ, BNN.
Tuy nhiên, do đề tài thực hiện nghiên cứu vào năm 2000, khi đó chƣa có Bộ
luật Lao động bổ sung, sửa đổi, Luật BHXH nên đề tài đánh giá chế độ, chính sách
BHXH theo Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, có
nhiều hạn chế mà đề tài đƣa ra đã đƣợc sửa đổi, bổ sung ở BLLĐ và Luật BHXH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về chế độ BHXH, chế độ trợ cấp TNLĐ.

3


- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế độ trợ cấp TNLĐ tại tỉnh Bình Dƣơng, từ
đó chỉ ra những mặt tồn tại và nguyên nhân.
- Đƣa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ trợ cấp TNLĐ và đề xuất cụ thể

cơ quan chịu trách nhiệm chính, cơ quan phối hợp thực hiện, nhằm phát huy hơn
nữa vai trò của chế độ TNLĐ trong việc đảm bảo đời sống của ngƣời lao động sau
khi bị TNLĐ, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Tác giả luận văn tiến hành nghiên cứu những tài liệu khoa học đã công bố,
những văn bản pháp luật hiện hành và những tƣ liệu, báo cáo kết quả công tác thực
hiện chính sách trợ cấp TNLĐ tại tỉnh Bình Dƣơng trong giai đoạn 2012 – 2016;
tiếp cận, khảo sát trực tiếp đối với NLĐ, nhân viên phụ trách thủ tục BHXH ở một
số doanh nghiệp tại tỉnh Bình Dƣơng để lắng nghe sự phản hồi, đánh giá và kiến
nghị, đề xuất của họ đối với chính sách BHXH và chính sách trợ cấp TNLĐ trong
thời gian sắp tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chính sách BHXH nói chung và chính sách trợ cấp
TNLĐ nói riêng, tình hình thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dƣơng và đánh giá phản
hồi của đối tƣợng có liên quan (NLĐ, nhân viên phụ trách thủ tục BHXH làm việc
tại một số doanh nghiệp).
Luận văn nghiên cứu chế độ BHXH, chế độ trợ cấp TNLĐ của Việt Nam và
thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dƣơng trong giai đoạn 2012 - 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận văn sử dụng kết hợp đồng thời cả phƣơng pháp diễn dịch và phƣơng
pháp quy nạp trong quá trình phân tích làm rõ vấn đề đặt ra hoặc chứng minh một
kết luận, một nhận xét của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp thu thập và phân tích thông tin nghiên
cứu sau:
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng

4



để thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các công trình khoa học, tài
liệu, các sách, báo, tạp chí, các văn kiện Nghị quyết, các chƣơng trình nghiên cứu
đã đƣợc xuất bản, các kết quả nghiên cứu đã công bố của các cơ quan nghiên cứu,
các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc, các tài liệu trên internet, các số liệu thu thập
từ các phòng nghiệp vụ của BHXH tỉnh Bình Dƣơng, Sở Lao động – Thƣơng binh
và Xã hội tỉnh Bình Dƣơng. Sau đó, tác giả tiến hành phân loại, sắp xếp thông tin
theo thứ tự ƣu tiên về độ quan trọng của thông tin và bằng các thao tác tƣ duy logic
để rút ra các kết luận.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để phân
tích và tổng hợp các nội dung lý thuyết và các số liệu về tình hình doanh nghiệp,
NLĐ, TNLĐ; tình hình thực hiện chế độ TNLĐ tại tỉnh Bình Dƣơng… để đánh giá
thực trạng chính sách và đƣa ra các giải pháp về chế độ TNLĐ.
- Phƣơng pháp nghiên cứu sơ cấp: Khảo sát thông qua phiếu đối với 500
NLĐ đang làm việc tại các doanh nghiệp, trong đó có 18 ngƣời đã từng bị TNLĐ và
482 ngƣời chƣa từng bị TNLĐ nhƣng có sự đánh giá về sự quan tâm, chấp hành quy
định của NSDLĐ khi có NLĐ bị TNLĐ, để thu thập thông tin về sự hài lòng của họ
đối với việc thực hiện chế độ trợ cấp TNLĐ tại tỉnh Bình Dƣơng. Những số liệu này
đƣợc chính tác giả thu thập từ việc điều tra, khảo sát đối tƣợng chi trả chế độ
BHXH và nhân viên phụ trách thủ tục BHXH tại một số doanh nghiệp. Phiếu điều
tra sau khi hoàn thành đƣợc kiểm tra về độ chính xác và sẽ đƣợc nhập vào máy tính
bằng phần mềm Excel để tiến hành tổng hợp, xử lý và phân tích thông tin thu thập
đƣợc. Kết quả phân tích các số liệu này cung cấp cho tác giả những phản ánh về
công tác chi trả chế độ TNLĐ và những bất cập về công tác chi trả chế độ TNLĐ tại
tỉnh Bình Dƣơng. Phiếu khảo sát nhằm tìm hiểu sự hài lòng, sự hy vọng có thể hiện
yếu tố định lƣợng của NLĐ đối với chính sách trợ cấp TNLĐ và việc thực hiện của
cơ quan chức năng tại tỉnh Bình Dƣơng.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp 10 ngƣời phụ trách thủ
tục BHXH đang làm việc tại một số doanh nghiệp và 10 ngƣời lao động đang
hƣởng chế độ trợ cấp TNLĐ để lắng nghe những đánh giá, đề xuất từ phía những


5


ngƣời lập thủ tục chế độ TNLĐ, qua đó làm rõ hơn các vấn đề nghiên cứu và để
nhận định, lập luận của tác giả mang tính khách quan. Đối với mỗi đối tƣợng đƣợc
phỏng vấn sâu thì tác giả thiết kế nội dung các câu hỏi có nội dung phù hợp, gắn với
hoạt động thực tiễn mà họ tiếp cận liên quan đến chính sách trợ cấp TNLĐ, trong đó
có nhấn mạnh sự đề xuất, nguyện vọng về chính sách trợ cấp TNLĐ của họ trong
thời gian sắp tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ BHXH và chế độ trợ cấp
TNLĐ.
- Đƣa ra những cơ sở hoàn thiện chính sách trợ cấp TNLĐ.
- Thông qua thực trạng chính sách trợ cấp TNLĐ ở tỉnh Bình Dƣơng trong
giai đoạn 2012 – 2016, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện chính sách trợ cấp
TNLĐ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu luận văn đƣợc kết cấu 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Lý luận cơ bản về chi trả chế độ TNLĐ
Chƣơng 2: Thực hiện chính sách chi trả chế độ TNLĐ tại tỉnh Bình Dƣơng
giai đoạn 2012 – 2016.
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách trợ cấp TNLĐ đến năm 2020.

6


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG
1.1. Tổng quan về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách bảo hiểm xã hội

Quyền đƣợc đảm bảo ASXH của công dân xuất phát từ quyền con ngƣời. Ở
Việt Nam, bảo đảm quyền con ngƣời luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc chú trọng bằng
việc ngày càng hoàn thiện các quy định của Hiến pháp và hệ thống các văn bản
pháp luật có liên quan, tạo ra cơ chế pháp lý đảm bảo những điều kiện cần thiết để
hiện thực hóa các quyền đó nhƣ Luật Ngƣời cao tuổi, Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ
em, Luật Ngƣời khuyết tật, Luật BHXH, Luật Việc làm, Luật AT,VSLĐ… Quyền
đƣợc đảm bảo ASXH cho ngƣời dân đã đƣợc xác định nhƣ một phần trách nhiệm
của Nhà nƣớc, Nhà nƣớc luôn là ngƣời đóng vai trò chủ đạo, tích cực trong việc tổ
chức thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo các quyền về ASXH cho ngƣời dân; và
một tất yếu khách quan là để đạt đạt đƣợc hiệu quả cao nhất thì không thể thiếu sự
chung tay đồng lòng của các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
Xuất phát từ nhận thức rằng ASXH đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển
của xã hội, Nhà nƣớc ta xác định Chiến lƣợc ASXH là một bộ phận cấu thành của
Chiến lƣợc tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Trong chiến lƣợc tổng thể về ASXH
giai đoạn 2011 – 2020, chúng ta đã xác định sáu mục tiêu lớn đƣợc thực hiện trong
mƣời năm là: Hỗ trợ tốt hơn ngƣời nghèo và các đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng tham
gia đào tạo để có việc làm, cải thiện cuộc sống; phát triển hệ thống BHXH tiên tiến;
tăng cƣờng hiệu quả chăm sóc y tế công; phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh
hoạt để ứng phó kịp thời với những rủi ro, biến cố; thực hiện giảm nghèo bền vững,
ngăn chặn gia tăng bất bình đẳng; nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của các dịch vụ
xã hội tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc [2].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định một trong
những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo quyền ASXH là “Tiếp tục sửa đổi, hoàn
chỉnh hệ thống BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng,
linh hoạt, có khả năng bảo vệ, trợ giúp mọi thành viên trong xã hội, nhất là các

7


nhóm yếu thế, dễ bị tổn thƣơng vƣợt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”

[2].
Trong mục tiêu tổng thể phát triển vấn đề ASXH thì BHXH đóng một vai trò
hết sức quan trọng vì nó tác động vào lực lƣợng nòng cốt trong cơ cấu dân số của
một quốc gia, bao gồm những ngƣời đang làm việc và đã nghỉ hƣu sau một quá
trình cống hiến sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Tại Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng
cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH giai đoạn 2012 – 2020, Đảng
ta xác định rõ:
- BHXH là một chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống
ASXH, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế - xã hội.
- Mở rộng và hoàn thiện chế độ, chính sách BHXH có bƣớc đi, lộ trình phù
hợp với phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Phát triển hệ thống BHXH đồng bộ
với phát triển các dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân;
tạo điều kiện thuận lợi cho mọi ngƣời tham gia và thụ hƣởng các chế độ BHXH.
- BHXH phải theo nguyên tắc có đóng, có hƣởng, quyền lợi tƣơng ứng với
nghĩa vụ, có sự chia sẻ giữa các thành viên, bảo đảm công bằng và bền vững của hệ
thống BHXH.
- Thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH là trách nhiệm của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và của mỗi ngƣời dân.
Nhằm cụ thể hóa những quan điểm trên, Đảng ta đề ra mục tiêu là phải thực
hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH; tăng nhanh diện bao phủ đối tƣợng
tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện. Phấn đấu đến năm 2020, có khoảng
50% lực lƣợng lao động tham gia BHXH, 35% lực lƣợng lao động tham gia bảo
hiểm thất nghiệp. Sử dụng an toàn và bảo đảm cân đối quỹ BHXH trong dài hạn.
Xây dựng hệ thống BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế [1].

8



1.1.2. Khái niệm và vai trò của bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Trong quá trình tồn tại và phát triển, con ngƣời luôn có nhu cầu tối thiểu về
ăn, mặc, ở, đi lại, vui chơi, giải trí... Muốn thỏa mãn đƣợc tất cả các nhu cầu này,
con ngƣời phải không ngừng lao động tạo sản phẩm cung ứng cho xã hội và mang
lại thu nhập cho bản thân. Tuy nhiên, không phải lúc nào con ngƣời cũng gặp thuận
lợi, có đầy đủ thu nhập nhƣ mong muốn và đáp ứng điều kiện sống bình thƣờng của
mình vì đôi khi họ sẽ gặp những tình huống bất lợi, khó khăn nhƣ bị TNLĐ, ốm
đau, mất việc, tuổi già, sức khỏe giảm sút... Và những lúc này học sẽ cần đến sự san
sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà
nƣớc... Đây là những cách này hoàn toàn thụ động và không có sự đảm bảo chắc
chắn trong mọi tình huống.
Khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, việc thuê mƣớn nhân công trở nên
phổ biến thì mối quan hệ lao động giữa NLĐ làm thuê và giới chủ cũng trở nên
phức tạp hơn. Lúc này, ngoài việc cam kết trả công cho NLĐ thì NSDLĐ phải cam
kết những đảm bảo mở rộng nhƣ hỗ trợ thu nhập cho NLĐ trong khoảng thời gian
không may gặp rủi ro nhƣ ốm đau, tai nạn, thai sản... Tuy nhiên, việc này không
phải đƣợc giới chủ thực hiện một cách đầy đủ trong mọi tình huống nên tất yếu sẽ
phát sinh mâu thuẫn chủ - thợ, dẫn đến hiện tƣợng giới thợ liên kết lại đấu tranh đòi
hỏi giới chủ phải thực hiện cam kết. Và cuộc đấu tranh này ngày càng diễn ra gay
gắt, sâu rộng ảnh hƣởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy,
đến lúc Nhà nƣớc phải đứng ra can thiệp và điều hòa mâu thuẫn bằng cách buộc cả
giới chủ và giới thợ đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng đƣợc tính toán
chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro đối với ngƣời làm thuê. Số tiền đóng góp của
giới chủ và giới thợ đã hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, quỹ này còn đƣợc bổ
sung từ ngân sách Nhà nƣớc khi cần thiết để đảm bảo đời sống của NLĐ khi gặp
những rủi ro, bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi
của NLĐ đƣợc phân tán, cuộc sống của NLĐ và thân nhân ngày càng đƣợc đảm bảo
ổn định. Lúc này, giới chủ cũng nhận thấy đƣợc lợi ích của chính sách này. Vì vậy,


9


quy định về việc phải đóng góp vào nguồn quỹ tiền tệ tập trung đƣợc sự ủng hộ của
số đông trong giới chủ và giới thợ, quy mô của quỹ ngày càng phát triển và đƣợc
đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với mối quan hệ chặt chẽ như trên được thế giới
quan niệm là BHXH đối với NLĐ.
Ngày nay, hầu hết các nƣớc trên thế giới đều thực hiện chính sách BHXH và
đƣợc các nƣớc coi là trụ cột chính trong hệ thống ASXH. Mặc dù đã có quá trình
phát triển tƣơng đối lâu dài, nhƣng do tính phức tạp và đa dạng của BHXH nên đến
nay vẫn còn có sự nhận thức khác nhau về vấn đề này. Điều này đƣợc phản ánh qua
các khái niệm về BHXH từ các góc độ khác nhau. Cụ thể:
- BHXH là biện pháp bảo đảm, thay đổi hoặc bù đắp một phần thu nhập của
NLĐ do gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm thông qua một quỹ tiền tệ đƣợc tập trung từ sự đóng góp của NLĐ và gia đình
họ, đồng thời góp phần đảm bảo ASXH. BHXH là trụ cột chính trong hệ thống
ASXH ở mỗi nƣớc.
Các chế độ của BHXH đã hình thành khá lâu trƣớc khi xuất hiện thuật ngữ
ASXH. Hệ thống BHXH đầu tiên đƣợc thiết lập tại nƣớc Phổ (nay là Cộng hòa Liên
bang Đức) dƣới thời của Thủ tƣớng Otto Von Bismarck (1850) và sau đó đƣợc hoàn
thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo
hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: NLĐ, NSDLĐ và
Nhà nƣớc. Kinh nghiệm về BHXH ở Đức, sau đó, đƣợc lan dần sang nhiều nƣớc
trên thế giới, đầu tiên là các nƣớc Châu Âu (Anh: 1991, Ý: 1919, Pháp: từ 1918...),
tiếp đến là các nƣớc Châu Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canada (từ sau 1930) và cuối cùng
là các nƣớc châu Phi, Châu Á (giành độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ 2) [5].
- Theo ILO thì BHXH là sự bảo vệ đối với các thành viên của mình thông
qua các biện pháp công cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế - xã hội do bị
ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, TNLĐ, thất nghiệp, thƣơng

tật, tuổi già, chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình
đông con. Với khái niệm này, đối tƣợng đƣợc bảo vệ bằng hệ thống BHXH thƣờng

10


là những NLĐ và thân nhân của họ, không phải là tất cả các thành viên trong xã hội
nói chung. Biện pháp công cộng đƣợc sử dụng trong BHXH thông thƣờng là biện
pháp lập quỹ chuyên dùng, từ sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ, không bao hàm sự
chu cấp từ ngân sách nhà nƣớc hoặc từ các quỹ xã hội.
- Theo cách tiếp cận từ góc độ chính sách, chính sách BHXH là những
nguyên tắc và biện pháp của Nhà nƣớc về vấn đề BHXH cho NLĐ nhằm đảm bảo
thực hiện quyền tham gia và thụ hƣởng BHXH cho mọi thành viên xã hội, góp phần
ổn định, công bằng và phát triển xã hội.
- Theo cách tiếp cận từ góc độ tài chính, BHXH là quá trình thành lập và sử
dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng những NLĐ, có sự bảo trợ của Nhà nƣớc, để
san sẻ rủi ro, đảm bảo thu nhập cho họ và thân nhân trong những trƣờng hợp cần
thiết theo quy định của pháp luật.
- Theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật, BHXH đƣợc hiểu là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào
quỹ BHXH.
Các khái niệm nêu trên đều có nội hàm tƣơng đối thống nhất, thể hiện ở một
số điểm sau đây:


BHXH là sự bảo vệ của xã hội, của Nhà nước đối với NLĐ;




NLĐ sẽ được BHXH trợ giúp vật chất và các dịch vụ y tế cần thiết để

ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ;


Chỉ trong các trường hợp có những rủi ro liên quan đến thu nhập của

NLĐ thì mới được hưởng BHXH;


BHXH được thực hiện trên cơ sở một quỹ tiền tệ.

Qua nghiên cứu Luật BHXH năm 2014 và Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2000, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2009, tác giả rút ra những điểm khác biệt cơ bản
giữa BHXH và bảo hiểm thƣơng mại:

11


Bảng 1.1: Phân biệt bảo hiểm xã hội với bảo hiểm thƣơng mại
Tiêu thức
Tính chất
Đối tƣợng đƣợc bảo
hiểm

Bảo hiểm thƣơng mại
Phi nhân thọ
- Kinh doanh

Nhân thọ

- Kinh doanh

- Tài sản
- Con ngƣời

- Con ngƣời

- Trách nhiệm

Những sự kiện đƣợc
bảo hiểm (chi trả)

- Các hƣ hỏng, thiệt

- Sống đến thời hạn

hại về tài sản;

nhất định;

- Ốm đau, tai nạn, nằm

- Ốm đau, thƣơng tật,

viện đối với con

nằm viện, chế độ chăm

ngƣời;


sóc;

- Các nghĩa vụ pháp lý

- Hƣu trí ;

phát sinh.

- Chết.

Bảo hiểm xã hội
- Chính sách xã hội
- Con ngƣời (thu nhập
của con ngƣời).
- Ốm đau
- Thai sản
- Tai nạn lao động,
BNN;
- Hƣu trí;
- Tử tuất.
- Sự đóng góp của

Nguồn hình thành quỹ

- Phí đóng của ngƣời - Phí đóng của ngƣời
tham gia.

tham gia.

NSDLĐ, NLĐ.

- Sự hỗ trợ từ NSNN
và nguồn viện trợ
khác.

- Nhà nƣớc và các - Nhà nƣớc và các - Nhà nƣớc là chủ thể
doanh nghiệp tƣ nhân doanh nghiệp tƣ nhân duy nhất (thực hiện
Cơ quan chủ quản

(các tập đoàn, công ty, (các tập đoàn, công ty, bởi cơ quan BHXH
chi nhánh, đại lý…).

chi nhánh, đại lý…).

đƣợc tổ chức từ trung
ƣơng đến địa phƣơng).

Từ các khái niệm nêu trên nghiên cứu về BHXH có thể hiểu:
BHXH là biện pháp ASXH mà Nhà nước sử dụng nhằm đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập từ lao động của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất khả
năng lao động do gặp phải các rủi ro như ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết dựa trên cơ sở hình thành quỹ tiền tệ tập trung
từ sự tham gia đóng góp của NSDLĐ, NLĐ và được sự bảo trợ của Nhà nước nhằm
ổn định đời sống cho NLĐ và thân nhân.

12


1.1.2.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội
Trong nền kinh tế thị trƣờng, BHXH là một lĩnh vực không thể thiếu đƣợc
đối với NLĐ và NSDLĐ, bởi vì:

- Thứ nhất, đối với NLĐ:
Có thể nói, TNLĐ, đặc biệt là những vụ TNLĐ nghiêm trọng, là một biến cố
lớn lao đối với cuộc đời của NLĐ, nó có thể khiến cho cuộc sống của NLĐ bƣớc
sang một giai đoạn mới đầy khó khăn, đòi hỏi một nghị lực, tinh thần phấn đấu, sự
lạc quan mới có thể vƣợt qua và thích nghi trong quãng đời còn lại. Chế độ BHXH
đã trực tiếp góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ và thân nhân khi NLĐ gặp rủi ro
hay sự kiện bảo hiểm. Đồng thời, thông qua quỹ BHXH, NLĐ thực hiện trách
nhiệm tƣơng trợ cho những khó khăn của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro
trong lao động sản xuất và trong đời sống NLĐ đƣợc khống chế và dàn trải, hậu quả
của rủi ro đƣợc khắc phục kịp thời.
Tham gia BHXH còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá nhân,
giúp họ tiết kiệm những khoản tiền nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi
dùng khi tuổi già hay mất sức lao động… Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà
còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm
cho họ ổn định về tâm lý, giảm lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già… Nhờ có
BHXH, cuộc sống của những thành viên trong gia đình NLĐ, nhất là trẻ em, những
ngƣời tàn tật, goá bụa… cũng đƣợc đảm bảo an toàn hơn.
Chính vì tính chất quan trọng, thiết yếu đối với đời sống của tất cả mọi
ngƣời, ngay tại Điều 34 Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Công dân có quyền đƣợc đảm bảo ASXH”. Trong đó, BHXH đƣợc
xem là một nội dung cơ bản trong các quyền về ASXH mà con ngƣời phải đƣợc
hƣởng theo luật định.
- Thứ hai, đối với NSDLĐ:
Mặc dù phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định để bảo hiểm
cho NLĐ làm việc cho mình, điều đó ít nhiều cũng ảnh hƣởng đến thu nhập của
NSDLĐ. Song về lâu dài, BHXH giúp họ ổn định sản xuất kinh doanh thông qua

13



việc quản lý đƣợc một nguồn nhân lực ổn định, có tay nghề, đồng hành gắn bó và
nhiệt tình trong lao động. Nếu không có BHXH, các đơn vị sử dụng lao động trả
tiền bảo hiểm cùng với tiền lƣơng hàng tháng để NLĐ tự lo thì nguồn tiền này có
thể bị NLĐ sử dụng vào những mục đích khác. Đến khi NLĐ ốm đau, tai nạn không
có nguồn thu nhập, không có chi phí thuốc men…, đời sống của họ bị ảnh hƣởng thì
quan hệ lao động, chất lƣợng lao động sẽ bị ảnh hƣởng.
BHXH còn làm cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ, không chỉ khi trực
tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời họ. Nếu không có quy định chế độ
BHXH bắt buộc thì sẽ có nhiều trƣờng hợp vì những khoản lợi trƣớc mắt mà
NSDLĐ cắt xén quyền lợi, thiếu trách nhiệm với NLĐ.
BHXH còn giúp cho NSDLĐ ổn định nguồn chi, ngay cả khi có rủi ro lớn
xảy ra thì cũng không lâm vào tình trạng nợ nần hay phá sản. Nhờ đó, các chi phí
đƣợc chủ động hạch toán, ổn định và tạo điều kiện để phát triển không phụ thuộc
nhiều vào hoàn cảnh khách quan. Tuy nhiên, BHXH hầu nhƣ không mang lại các
lợi ích trực tiếp và tác động ngắn hạn nên không phải lúc nào NSDLĐ cũng nhận
thức đúng đƣợc điều này.
- Thứ ba, đối với Nhà nước và xã hội:
Trƣớc tiên, BHXH tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã
hội, củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội, từ đó
góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, một yếu tố quan trọng nhất của lực
lƣợng sản xuất. Điều đó đã thúc đẩy sự ra đời và trở thành lý do tồn tại của BHXH.
Tuy không nhằm mục đích mang lại lợi nhuận nhƣng BHXH là công cụ phân phối,
sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua BHXH, những rủi ro trong đời sống của
NLĐ đƣợc dàn trải theo nhiều chiều, tạo ra khả năng giải quyết an toàn nhất, với chi
phí thấp nhất.
BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia. Nếu kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém thì hệ
thống BHXH cũng chậm phát triển ở mức tƣơng ứng. Khi kinh tế càng phát triển,


14


đời sống của NLĐ đƣợc nâng cao thì nhu cầu tham gia BHXH càng lớn. Thông qua
hệ thống BHXH, trình độ tổ chức, quản lý rủi ro xã hội của các nhà nƣớc cũng ngày
càng đƣợc nâng cao thể hiện bằng việc mở rộng đối tƣợng tham gia, đa dạng về
hình thức bảo hiểm, quản lý đƣợc nhiều trƣờng hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các
chế độ BHXH…
Hoạt động BHXH còn góp phần vào việc huy động vốn đầu tƣ, làm cho thị
trƣờng tài chính phong phú và kinh tế - xã hội phát triển. Đặc biệt, với bảo hiểm
hƣu trí, nguồn vốn tích luỹ trong thời gian dài, kết dƣ tƣơng đối lớn, có thể đầu tƣ
vào các doanh nghiệp, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các
bên: ngƣời tham gia BHXH, cơ quan BHXH và nền kinh tế xã hội.
1.1.3. Bản chất của bảo hiểm xã hội
BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, là một trong những chính sách
ASXH cốt lõi củanhiều quốc gia trên thế giới, là một tiêu chí đánh giá chỉ số “lý
tƣởng” của một đất nƣớc, là nhân tố quan trọng đóng góp vào chỉ số hạnh phúc của
ngƣời dân. Nó thể hiện trình độ văn minh và sức mạnh nội lực của nền kinh tế một
đất nƣớc, khả năng tổ chức và quản lý của Chính phủ. Để thấy rõ bản chất của
BHXH, cần phải xem xét trên tất cả các phƣơng diện: xã hội, kinh tế, chính trị và
pháp lý…
Về phƣơng diện xã hội: BHXH ra đời là tất yếu khách quan, xuất hiện trong
những điều kiện nhất định của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi tất cả sản
phẩm cung ứng cho xã hội đều thông qua quá trình sản xuất công nghiệp đồng
nghĩa với những rủi ro nghề nghiệp phát sinh càng nhiều và ảnh hƣởng đến NLĐ
ngày càng nghiêm trọng. Rủi ro trong BHXH bao gồm cả những rủi ro thuần túy,
phát sinh ngẫu nhiên nhƣ: ốm đau, TNLĐ… và cả những rủi ro về việc làm nhƣ
NLĐ bị thất nghiệp. Điều đó làm cho NLĐ ngày càng cần đến các hình thức chia sẻ
rủi ro của bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng. Trong BHXH, sự chia sẻ rủi ro
đƣợc thực hiện theo nhiều chiều và giữa nhiều đối tƣợng. Cụ thể:

- Sự chia sẻ giữa những NSDLĐ với nhau và giữa Nhà nƣớc, NSDLĐ với
NLĐ. Bởi vì, trong các đơn vị sử dụng lao động, có những đơn vị, trong những

15


khoản thời gian nhất định nhƣng không phát sinh những rủi ro liên quan đến NLĐ
hoặc khả năng xảy ra rủi ro là rất thấp. Ngƣợc lại, có những đơn vị do đặc thù
ngành nghề sản xuất nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, nên quá trình lao động của
NLĐ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Giữa những đơn vị này cần san sẻ rủi ro cho nhau thông
qua quỹ bảo hiểm TNLĐ, quỹ ốm đau… để có thể vừa làm tròn trách nhiệm với
NLĐ, vừa chủ động kiểm soát về chi phí sản xuất, góp phần đảm bảo mục tiêu lợi
nhuận đề ra. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc luôn là ngƣời bảo trợ để đề phòng rủi ro cho
quỹ BHXH.
- Thông qua BHXH, các rủi ro còn đƣợc chia sẻ cả về mặt không gian và thời
gian. Chẳng hạn, trên cơ sở mức đóng góp vào quỹ BHXH là thống nhất, nhƣng tại
một thời điểm nhất định, những vùng phát triển kinh tế vƣợt trội, những ngành nghề
sản xuất có mức độ rủi ro thấp hoặc ít khi gánh chịu các rủi ro thiên nhiên khác nhƣ
thiên tai, dịch bệnh…, thì cần san sẻ cho những vùng, ngành nghề còn lại; trong khi
đó, sau những khoản thời gian phát triển ổn định, trong từng vùng, từng ngành,
cũng không thể tránh khỏi những biến cố rơi vào giai đoạn kém phát triển, tỷ lệ thất
nghiệp gia tăng, sẽ lại cần có sự san sẻ rủi ro của thời kỳ trƣớc đó và của những đơn
vị, những vùng, những ngành kinh tế khác.
- Việc chia sẻ rủi ro còn đƣợc thực hiện ngay trong nội bộ những NLĐ nhƣ:
chia sẻ giữa lao động nam với lao động nữ; giữa NLĐ trẻ, khoẻ, ổn định với NLĐ
hay bị ốm đau, tai nạn rủi ro; giữa những ngƣời còn trong độ tuổi lao động với
ngƣời già yếu đã nghỉ hƣu, giữa những NLĐ có việc làm với những NLĐ bị thất
nghiệp…
- Chia sẻ rủi ro còn đƣợc thực hiện trong việc chia sẻ nguồn tài chính, nguồn
thu nhập trong cuộc đời mỗi NLĐ, giữa giai đoạn khoẻ mạnh với những lúc ốm

đau, bệnh tật; giữa lúc trẻ trung với lúc già yếu, hết tuổi lao động; giữa thời điểm
thu nhập cao với thời điểm việc làm bấp bênh, thất nghiệp…
Nhƣ vậy, BHXH cũng mang bản chất chung của bảo hiểm, đó là sự chia sẻ
rủi ro, trước hết là giữa các đối tượng tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, khác với hình
thức bảo hiểm thƣơng mại, những rủi ro cần sự chia sẻ thông qua BHXH thƣờng là

16


những rủi ro liên quan đến thu nhập của NLĐ. Nó có thể đồng thời là những rủi ro
thuần túy của họ nhƣ ốm đau, tai nạn, cũng có thể là những sự kiện trong cuộc sống
nhƣ: thai sản, tuổi già… Ngoài ra, tính xã hội của BHXH còn thể hiện ở mục đích
của nó, thể hiện qua việc BHXH chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu đƣợc chia sẻ rủi ro của
NLĐ, không nhằm mục đích hƣớng tới yếu tố lợi nhuận, đối với cả ngƣời tham gia
và tổ chức thực hiện bảo hiểm. Vì vậy, bản chất xã hội của BHXH là quá trình quản
lý và chia sẻ các rủi ro giữa những người tham gia BHXH, góp phần bảo đảm đời
sống cho NLĐ và thân nhân họ, từ đó đảm bảo ASXH nói chung.
Về phƣơng diện kinh tế: BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập giữa
những ngƣời tham gia, thông qua việc hình thành quỹ tiền tệ dùng để đáp ứng nhu
cầu chi trả bảo hiểm cho NLĐ và thân nhân khi gặp rủi ro về thu nhập trong lao
động sản xuất hoặc mất nguồn nuôi dƣỡng... Vì vậy, thực hiện BHXH là quá trình
tính toán, cân đối các yếu tố kinh tế nhƣ thu nhập, khả năng đóng góp, mức hƣởng
có thể đảm bảo, thông qua thống kê xác xuất rủi ro và dự toán, hạch toán quỹ
BHXH…
Quỹ BHXH là một bộ phận của thu nhập quốc nội, trƣớc hết, đƣợc sử dụng
để đảm bảo an toàn đời sống cho NLĐ, tái sản xuất sức lao động. Quỹ BHXH còn
có thể dùng để đầu tƣ, phát triển sản xuất, đóng góp một khối lƣợng nhất định
nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc… Đó là quá trình tổ
chức, sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm quốc nội nhằm thoả mãn nhu cầu
an toàn về tài chính trong đời sống NLĐ và an toàn trong đời sống kinh tế - xã hội

nói chung.
Về phƣơng diện chính trị, pháp lý: BHXH khi đƣợc Nhà nƣớc điều chỉnh
bằng pháp luật, đã trở thành quyền cơ bản của NLĐ, xét trên cả bình diện quốc gia
và quốc tế. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm của bản thân NLĐ và NSDLĐ. Đây
đƣợc xem là cơ sở thực tiễn và khoa học cho chế định về tính bắt buộc của chế độ
BHXH hiện hành ở nƣớc ta.

17


1.1.4. Đặc điểm của chế độ bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi
quốc gia. Nó là những quy định chung, rất khái quát về cả đối tƣợng, phạm vi các
mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt đƣợc mục tiêu chung đã đề ra. Chế
độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và
chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phƣơng tiện để thực hiện chính sách BHXH đối với
NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định đƣợc pháp luật hoá về đối
tƣợng thụ hƣởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trƣờng hợp BHXH cụ thể.
Chế độ BHXH thƣờng đƣợc biểu hiện dƣới dạng các văn bản pháp quy (luật, nghị
định, thông tƣ...). Tuy nhiên, dù có cụ thể đến mức nào thì các chế độ BHXH cũng
khó có thể bao hàm đƣợc đầy đủ mọi tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện
chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thƣờng phải nắm vững những
quan điểm mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và
nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu:
- Số lƣợng các chế độ và nội dung mỗi chế độ đều đƣợc luật hoá nhƣ là một
chế định bắt buộc, tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Việc quy
định các chế độ cụ thể do nhận thức của Đảng chính trị cầm quyền trong từng thời
điểm nhất định, đƣợc xem nhƣ là một thành tố hình thành bắt buộc trong cƣơng lĩnh
xây dựng và phát triển đất nƣớc. Chế độ BHXH là công cụ trực tiếp để Nhà nƣớc

thực hiện vai trò chăm lo, bảo hộ đối với ngƣời dân.
- Hệ thống chế độ BHXH thực chất là sự san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính giữa
NLĐ với NLĐ, giữa NLĐ với NSDLĐ và giữa những NSDLĐ với nhau.
Đặc điểm này biểu hiện khá rõ giữa những ngƣời khoẻ mạnh với những NLĐ
bị ốm đau; giữa nam và nữ; giữa những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
dễ xảy ra TNLĐ hoặc BNN với những ngành nghề hoặc công việc bình thƣờng;
giữa những NLĐ có công ăn việc làm và thu nhập cao với những NLĐ không may
bị thất nghiệp. Phân tán rủi ro, san sẻ tài chính còn biểu hiện giữa những doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ với những doanh nghiệp sử dụng lao động nữ ít

18


hơn; giữa các doanh nghiệp làm ăn phát đạt có mức lợi nhuận cao với các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ gặp nhiều khó khăn bị phá sản...Tuy nhiên, sự san sẻ này
không phải lúc nào cũng nhận đƣợc sự đồng thuận của tất cả các đối tƣợng trong
cùng nhóm hoặc giữa các nhóm khác nhau nên việc quy định BHXH nhƣ là một chế
định có giá trị bắt buộc áp dụng trong quan hệ lao động là cần thiết để đảm bảo tính
ổn định cho quá trình quản lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô.
- Mỗi chế độ đều có sự tƣơng quan giữa mức đóng góp và mức thụ hƣởng
BHXH. BHXH hoạt động theo nguyên tắc có đóng góp mới đƣợc hƣởng, đóng
nhiều hƣởng nhiều, đóng ít hƣởng ít. Mức đóng góp và mức trợ cấp BHXH theo các
chế độ phải luôn luôn tỷ lệ thuận với nhau. Mối quan hệ này là cơ sở chủ yếu để cân
đối quỹ BHXH. Ngoài ra, hoạt động tái đầu tƣ trong quá trình điều hành quản lý của
Hội đồng quản lý quỹ cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và
nâng cao các chế độ BHXH. Việc tái đầu tƣ hiệu quả sẽ bảo tồn và gia tăng nguồn
quỹ để giải quyết chế độ, trong trƣờng hợp ngƣợc lại, Nhà nƣớc sẽ phải chi ngân
sách để bổ sung vào nguồn quỹ này, đảm bảo quyền lợi của NLĐ, duy trì sự ổn định
của xã hội.
- Hầu hết các chế độ BHXH đều đƣợc chi trả định kỳ, đồng tiền đƣợc sử

dụng làm phƣơng tiện chi trả và thanh quyết toán. Điều này xuất phát từ đối tƣợng
của BHXH là thu nhập của NLĐ do NSDLĐ chi trả hàng tháng. Chính vì thế, khoản
trợ cấp BHXH để bù đắp, thay thế phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi đƣợc tiến
hành định kỳ theo tháng là rất phù hợp với chu kỳ tiếp nhận thu nhập của NLĐ.
- Trong hệ thống chế độ BHXH, có cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Các
chế độ BHXH ngắn hạn chỉ mang tính nhất thời đột xuất nhằm hỗ trợ NLĐ khi các
rủi ro và sự kiện bảo hiểm xảy ra nhƣ: nghỉ ốm đau, nghỉ thai sản, suy giảm khả
năng lao động do TNLĐ và BNN, mất việc làm... Các chế độ BHXH dài hạn đƣợc
thực hiện nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho NLĐ khi đã già yếu hết tuổi lao động,
mất sức lao động vĩnh viễn và qua đời mà bất kỳ NLĐ nào cũng phải trải qua. Các
chế độ BHXH dài hạn đƣợc thực hiện sau quá trình lao động, quan hệ phân phối có
tính chất hoàn trả, lợi ích hƣởng thụ tƣơng ứng với nghĩa vụ đóng góp.

19


- Mỗi chế độ trong hệ thống thƣờng đƣợc hoàn thiện dần theo thời gian cho
phù hợp với điều kiện cụ thể.
Nhìn chung hệ thống chế độ BHXH có tính ổn định tƣơng đối. Tuy nhiên,
theo thời gian, khi có những biến động lớn về kinh tế - xã hội, các chính sách kinh
tế - xã hội liên quan có nhiều thay đổi thì mỗi tất yếu các chế độ trong hệ thống các
chế độ BHXH sẽ có sự điều chỉnh ngày càng hoàn thiện, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của đất nƣớc.
1.1.5. Nguyên tắc quản lý bảo hiểm xã hội
Quản lý quỹ BHXH đƣợc chia theo chức năng: quản lý nhà nƣớc và hoạt
động sự nghiệp.
Chức năng quản lý nhà nƣớc về BHXH chủ yếu đƣợc giao cho Bộ Lao động
– Thƣơng binh và Xã hội đảm nhận, bao gồm:



Xây dựng chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển BHXH.



Xây dựng chính sách, pháp luật về BHXH; trình cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản pháp luật về BHXH.


Xây dựng và trình Chính phủ chỉ tiêu phát triển đối tƣợng tham gia

BHXH.


Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH.



Chỉ đạo, hƣớng dẫn tổ chức triển khai thực hiện chính sách, pháp luật

về BHXH.


Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố

cáo về BHXH.


Trình Chính phủ quyết định biện pháp xử lý trong trƣờng hợp cần


thiết để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng về BHXH của NLĐ.


Thực hiện công tác thống kê, thông tin về BHXH.



Tổ chức tập huấn, đào tạo về BHXH.



Tổ chức nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về BHXH.



Hằng năm, báo cáo Chính phủ về tình hình thực hiện BHXH.

20


×