Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Chính sách trợ cấp trợ cấp tai nạn lao động từ thực tiễn tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.11 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

N
G
U
Y
Ê
N
ĐI
N
H
K
H
A
N
G
C
H
U
Y
Ê
N
N
G
À
N
H
C
HI


N
H
S
A
C
H
C

N
G
N

M
20
18

Nguyễn Đình Khang

CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2018
1


2



VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Đình Khang

CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS LÊ THANH SANG

HÀ NỘI, 2018
1.1.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AT,VSLĐ
An toàn, vệ sinh lao động
ASXH

An sinh xã hội


BNN

Bệnh nghề nghiệp

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

TNLĐ

Tai nạn lao động

ILO


International Labour Organization
Tổ chức lao động quốc tế



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói chính sách trợ TNLĐ là một trong những chế độ BHXH ra đời
sớm nhất trong lịch sử phát triển của BHXH, có vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo đời sống cho NLĐ sau khi bị rủi ro do quá trình lao động. Trong bối cảnh nền
kinh tế nước ta đang trải qua quá trình cơ giới hóa, manh nha giai đoạn tự động hóa,
sự phát triển của các ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào máy móc, thiết bị thay cho
thao tác thủ công của NLĐ làm cho tình hình TNLĐ cũng tăng nhanh qua các năm.
TNLĐ gây ra những tổn thất lớn lao về người và của cho các cá nhân, gia đình và
toàn xã hội.
Theo quy định hiện hành, khi bị TNLĐ, NLĐ sẽ được hưởng hai chế độ; thứ
nhất là chế độ bồi thường hoặc trợ cấp từ phía NSDLĐ tùy thuộc vào yếu tố lỗi của
các bên trong vụ TNLĐ; thứ hai là chế độ trợ cấp TNLĐ từ tổ chức BHXH. Trong
những năm qua, chính sách, chế độ BHXH đối với người bị TNLĐ đã nhiều lần
được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp, đặc biệt là sau khi có Luật BHXH. Tuy nhiên,
thực trạng chính sách TNLĐ còn tồn tại nhiều hạn chế như: chưa có cơ chế tạo điều
kiện cho người bị TNLĐ tìm việc làm phù hợp; mức hưởng thấp; chưa có những
biện pháp hiệu quả để hạn chế TNLĐ; chưa có cơ chế thưởng, phạt rõ ràng đối với
các đơn vị thực hiện tốt hoặc không tốt công tác AT,VSLĐ; số lượng NLĐ tham gia
chế độ thấp...
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương là một tỉnh công
nghiệp có tốc độ phát triển cao so với các địa phương khác trong cả nước, đóng góp
đáng kể vào ngân sách nhà nước, là một trong những địa phương giữ vai trò đầu tàu
kinh tế. Tốc độ thu hút đầu tư và phát triển kinh tế của tỉnh kéo theo sự gia tăng rất
nhanh số lượng doanh nghiệp và NLĐ, là những đối tượng trực tiếp chịu tác động

của chính sách BHXH và chính sách trợ cấp TNLĐ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài “Chính sách trợ cấp trợ cấp tai nạn lao động từ thực tiễn tỉnh Bình
Dương”, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những bất cập,
yếu điểm của chính sách, chế độ hiện hành là hết sức cần thiết.

6


2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến BHXH, các chế độ BHXH và chế độ TNLĐ đã có những công
trình nghiên cứu được công bố như sau:
-

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực hiện và định hướng hoàn thiện tác
nghiệp chi trả các chế độ BHXH hiện nay” năm 1996, mã số 96 - 03 - 03/ĐT,
do TS. Dương Xuân Triệu làm Chủ nhiệm. Đề tài đã khái quát những vấn đề
lý luận về BHXH và quỹ BHXH; phân tích thực trạng hoạt động chi trả các
chế độ BHXH và quỹ BHXH; phân tích thực trạng hoạt động chi trả các chế
độ BHXH ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 1996 thông qua việc phân tích các
mặt như: cơ sở vật chất phục vụ công tác chi trả, hệ thống sổ sách biểu mẫu
chi trả BHXH, quản lý đối tượng chi trả, quy trình chi trả và lệ phí chi trả;
đồng thời qua việc phân tích các phương thức chi trả BHXH, phương hướng
hoàn thiện các phương thức chi trả BHXH ở nước ta. Kết quả của đề tài này
là:
+ Nêu lên được những ưu điểm và nhược điểm của phương thức chi trả trực

tiếp và gián tiếp.
+ Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện tác nghiệp chi trả các chế độ
BHXH cho người lao động như: hoàn thiện các văn bản pháp lý để cơ quan BHXH
các cấp có cơ sở thực hiện; xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy chi trả hoàn chỉnh từ

Trung ương đến cơ sở; tính toán mức phí chi trả giữa các vùng, các khu vực cho hợp
lý hơn; tăng cường cơ sở vật chất cho cơ quan BHXH cấp huyện phục vụ cho công
tác chi trả trực tiếp; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tài chính trong khâu
nghiệp vụ, chuyên môn; đẩy mạnh công tác học tập, rèn luyện, năng cao trình độ
nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ làm công tác BHXH; tăng
cường công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về chính sách,
chế độ BHXH.
-

Đề tài khoa học “Hoàn thiện phương thức tổ chức, quản lý chi trả chế độ ốm
đau, thai sản, TNLĐ và BNN cho người tham gia BHXH”, năm 1998, do TS.
Dương Xuân Triệu làm Chủ nhiệm. Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận

7


cơ bản về chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và BNN cả trước và sau
khi BHXH
Việt Nam đi vào hoạt động. Đề tài đã phản ánh được quá trình tổ chức quản lý chi
ba chế độ theo cơ chế cũ, cũng như từ khi BHXH Việt Nam ra đời, đã phân tích
được những mặt mạnh, mặt yếu cùng với những tồn tại do các văn bản pháp luật về
BHXH gây ra. Qua đó, đề tài cũng đã đưa ra những kiến nghị làm cơ sở cho việc
sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để đáp ứng các yêu cầu đổi mới cơ chế
chính sách về BHXH.
-

Đề tài khoa học “Thực trạng và giải pháp về chế độ chính sách BHXH
TNLĐ, BNN đối với người lao động tham gia BHXH”, năm 2000, chủ
nhiệm: Hà Văn Chi, BHXH Việt Nam.
Đề tài đã nghiên cứu các nội dung:

+ Khái quát những vấn đề có tính lý luận về BHXH và chế độ TNLĐ, BNN

trên thế giới và ở Việt Nam như khái niệm, vai trò, nguyên tắc hoạt động của
BHXH, mối quan hệ giữa chế độ TNLĐ, BNN với các chế độ khác trong hệ thống
các chế độ BHXH.
+ Phân tích thực trạng TNLĐ, BNN ở nước ta giai đoạn năm 1998 - 2000 và
các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến TNLĐ, BNN và đề tài phân tích hai nhóm nhân
tố cơ bản là điều kiện lao động và công tác an toàn lao động.
+ Đánh giá thực trạng thực hiện chế độ TNLĐ, BNN ở Việt Nam, bao gồm
đánh giá nội dung chế độ theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 và
tổ chức thực hiện chế độ trên cơ sở đó đưa ra những hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ BHXH, TNLĐ, BNN
như giải pháp hoàn thiện chính sách, giải pháp về tổ chức thực hiện và giải pháp
nhằm hạn chế những nhân tố gây ra TNLĐ, BNN.
Tuy nhiên, do đề tài thực hiện nghiên cứu vào năm 2000, khi đó chưa có Bộ
luật Lao động bổ sung, sửa đổi, Luật BHXH nên đề tài đánh giá chế độ, chính sách
BHXH theo Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, có
nhiều hạn chế mà đề tài đưa ra đã được sửa đổi, bổ sung ở BLLĐ và Luật BHXH.

8


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về chế độ BHXH, chế độ trợ cấp TNLĐ.
-

Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế độ trợ cấp TNLĐ tại tỉnh Bình Dương, từ
đó chỉ ra những mặt tồn tại và nguyên nhân.

-


Đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ trợ cấp TNLĐ và đề xuất cụ thể cơ
quan chịu trách nhiệm chính, cơ quan phối hợp thực hiện, nhằm phát huy hơn
nữa vai trò của chế độ TNLĐ trong việc đảm bảo đời sống của người lao
động sau khi bị TNLĐ, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Tác giả luận văn tiến hành nghiên cứu những tài liệu khoa học đã công bố,

những văn bản pháp luật hiện hành và những tư liệu, báo cáo kết quả công tác thực
hiện chính sách trợ cấp TNLĐ tại tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2012 - 2016; tiếp
cận, khảo sát trực tiếp đối với NLĐ, nhân viên phụ trách thủ tục BHXH ở một số
doanh nghiệp tại tỉnh Bình Dương để lắng nghe sự phản hồi, đánh giá và kiến nghị,
đề xuất của họ đối với chính sách BHXH và chính sách trợ cấp TNLĐ trong thời
gian sắp tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chính sách BHXH nói chung và chính sách trợ cấp
TNLĐ nói riêng, tình hình thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dương và đánh giá phản
hồi của đối tượng có liên quan (NLĐ, nhân viên phụ trách thủ tục BHXH làm việc
tại một số doanh nghiệp).
Luận văn nghiên cứu chế độ BHXH, chế độ trợ cấp TNLĐ của Việt Nam và
thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2012 - 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận văn sử dụng kết hợp đồng thời cả phương pháp diễn dịch và phương
pháp quy nạp trong quá trình phân tích làm rõ vấn đề đặt ra hoặc chứng minh một
kết luận, một nhận xét của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu:

9



Luận văn sử dụng các phương pháp thu thập và phân tích thông tin nghiên
cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phương pháp này được sử dụng
để thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các công trình khoa học, tài
liệu, các sách, báo, tạp chí, các văn kiện Nghị quyết, các chương trình nghiên cứu đã
được xuất bản, các kết quả nghiên cứu đã công bố của các cơ quan nghiên cứu, các
nhà khoa học trong và ngoài nước, các tài liệu trên internet, các số liệu thu thập từ
các phòng nghiệp vụ của BHXH tỉnh Bình Dương, Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội tỉnh Bình Dương. Sau đó, tác giả tiến hành phân loại, sắp xếp thông tin theo
thứ tự ưu tiên về độ quan trọng của thông tin và bằng các thao tác tư duy logic để rút
ra các kết luận.
-

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để phân
tích và tổng hợp các nội dung lý thuyết và các số liệu về tình hình doanh
nghiệp, NLĐ, TNLĐ; tình hình thực hiện chế độ TNLĐ tại tỉnh Bình
Dương... để đánh giá thực trạng chính sách và đưa ra các giải pháp về chế độ
TNLĐ.

-

Phương pháp nghiên cứu sơ cấp: Khảo sát thông qua phiếu đối với 500 NLĐ
đang làm việc tại các doanh nghiệp, trong đó có 18 người đã từng bị TNLĐ
và 482 người chưa từng bị TNLĐ nhưng có sự đánh giá về sự quan tâm, chấp
hành quy định của NSDLĐ khi có NLĐ bị TNLĐ, để thu thập thông tin về sự
hài lòng của họ đối với việc thực hiện chế độ trợ cấp TNLĐ tại tỉnh Bình
Dương. Những số liệu này được chính tác giả thu thập từ việc điều tra, khảo
sát đối tượng chi trả chế độ BHXH và nhân viên phụ trách thủ tục BHXH tại
một số doanh nghiệp. Phiếu điều tra sau khi hoàn thành được kiểm tra về độ

chính xác và sẽ được nhập vào máy tính bằng phần mềm Excel để tiến hành
tổng hợp, xử lý và phân tích thông tin thu thập được. Kết quả phân tích các
số liệu này cung cấp cho tác giả những phản ánh về công tác chi trả chế độ
TNLĐ và những bất cập về công tác chi trả chế độ TNLĐ tại tỉnh Bình
Dương. Phiếu khảo sát nhằm tìm hiểu sự hài lòng, sự hy vọng có thể hiện yếu

1
0


tố định lượng của NLĐ đối với chính sách trợ cấp TNLĐ và việc thực hiện
của cơ quan chức năng tại tỉnh Bình Dương.
-

Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp 10 người phụ trách thủ tục
BHXH đang làm việc tại một số doanh nghiệp và 10 người lao động đang
hưởng chế độ trợ cấp TNLĐ để lắng nghe những đánh giá, đề xuất từ phía
những người lập thủ tục chế độ TNLĐ, qua đó làm rõ hơn các vấn đề nghiên
cứu và để nhận định, lập luận của tác giả mang tính khách quan. Đối với mỗi
đối tượng được phỏng vấn sâu thì tác giả thiết kế nội dung các câu hỏi có nội
dung phù hợp, gắn với hoạt động thực tiễn mà họ tiếp cận liên quan đến
chính sách trợ cấp TNLĐ, trong đó có nhấn mạnh sự đề xuất, nguyện vọng về
chính sách trợ cấp TNLĐ của họ trong thời gian sắp tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ BHXH và chế độ trợ cấp
TNLĐ.
- Đưa ra những cơ sở hoàn thiện chính sách trợ cấp TNLĐ.


-

Thông qua thực trạng chính sách trợ cấp TNLĐ ở tỉnh Bình Dương trong giai
đoạn 2012 - 2016, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện chính sách trợ cấp
TNLĐ.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu luận văn được kết cấu 3
chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về chi trả chế độ TNLĐ
Chương 2: Thực hiện chính sách chi trả chế độ TNLĐ tại tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2012 - 2016.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách trợ cấp TNLĐ đến năm 2020.

1
1


Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP TAI NẠN LAO ĐỘNG
.1. Tổng quan vê bảo hiểm xã hội
1.1.1.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách bảo hiểm xã hội

Quyền được đảm bảo ASXH của công dân xuất phát từ quyền con người. Ở
Việt Nam, bảo đảm quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước chú trọng bằng
việc ngày càng hoàn thiện các quy định của Hiến pháp và hệ thống các văn bản pháp
luật có liên quan, tạo ra cơ chế pháp lý đảm bảo những điều kiện cần thiết để hiện
thực hóa các quyền đó như Luật Người cao tuổi, Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em,

Luật Người khuyết tật, Luật BHXH, Luật Việc làm, Luật AT,VSLĐ... Quyền được
đảm bảo ASXH cho người dân đã được xác định như một phần trách nhiệm của Nhà
nước, Nhà nước luôn là người đóng vai trò chủ đạo, tích cực trong việc tổ chức thực
hiện các biện pháp nhằm đảm bảo các quyền về ASXH cho người dân; và một tất
yếu khách quan là để đạt đạt được hiệu quả cao nhất thì không thể thiếu sự chung tay
đồng lòng của các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
Xuất phát từ nhận thức rằng ASXH đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển
của xã hội, Nhà nước ta xác định Chiến lược ASXH là một bộ phận cấu thành của
Chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Trong chiến lược tổng thể về ASXH
giai đoạn 2011 - 2020, chúng ta đã xác định sáu mục tiêu lớn được thực hiện trong
mười năm là: Hỗ trợ tốt hơn người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương tham gia
đào tạo để có việc làm, cải thiện cuộc sống; phát triển hệ thống BHXH tiên tiến; tăng
cường hiệu quả chăm sóc y tế công; phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt để
ứng phó kịp thời với những rủi ro, biến cố; thực hiện giảm nghèo bền vững, ngăn
chặn gia tăng bất bình đẳng; nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ xã hội
tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc [2].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định một trong
những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo quyền ASXH là “Tiếp tục sửa đổi, hoàn
chỉnh hệ thống BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh
hoạt, có khả năng bảo vệ, trợ giúp mọi thành viên trong xã hội, nhất là các


nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống” [2].
Trong mục tiêu tổng thể phát triển vấn đề ASXH thì BHXH đóng một vai trò
hết sức quan trọng vì nó tác động vào lực lượng nòng cốt trong cơ cấu dân số của
một quốc gia, bao gồm những người đang làm việc và đã nghỉ hưu sau một quá trình
cống hiến sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Tại Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH giai đoạn 2012 - 2020, Đảng ta
xác định rõ:

-

BHXH là một chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống
ASXH, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định
chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội.

-

Mở rộng và hoàn thiện chế độ, chính sách BHXH có bước đi, lộ trình phù hợp
với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển hệ thống BHXH đồng
bộ với phát triển các dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và thụ hưởng các
chế độ BHXH.

-

BHXH phải theo nguyên tắc có đóng, có hưởng, quyền lợi tương ứng với
nghĩa vụ, có sự chia sẻ giữa các thành viên, bảo đảm công bằng và bền vững
của hệ thống BHXH.

-

Thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH là trách nhiệm của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người
dân.
Nhằm cụ thể hóa những quan điểm trên, Đảng ta đề ra mục tiêu là phải thực

hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng
tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện. Phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50%
lực lượng lao động tham gia BHXH, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất

nghiệp. Sử dụng an toàn và bảo đảm cân đối quỹ BHXH trong dài hạn. Xây dựng hệ
thống BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế [1].


1.1.2.

Khái niệm và vai trò của bảo hiểm xã

hội 1.1.21. Khái niệm bảo hiểm xã hội

Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người luôn có nhu cầu tối thiểu về
ăn, mặc, ở, đi lại, vui chơi, giải trí... Muốn thỏa mãn được tất cả các nhu cầu này, con
người phải không ngừng lao động tạo sản phẩm cung ứng cho xã hội và mang lại thu
nhập cho bản thân. Tuy nhiên, không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có
đầy đủ thu nhập như mong muốn và đáp ứng điều kiện sống bình thường của mình vì
đôi khi họ sẽ gặp những tình huống bất lợi, khó khăn như bị TNLĐ, ốm đau, mất
việc, tuổi già, sức khỏe giảm sút... Và những lúc này học sẽ cần đến sự san sẻ, đùm
bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước... Đây là
những cách này hoàn toàn thụ động và không có sự đảm bảo chắc chắn trong mọi
tình huống.
Khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến thì mối quan hệ lao động giữa NLĐ làm thuê và giới chủ cũng trở nên phức
tạp hơn. Lúc này, ngoài việc cam kết trả công cho NLĐ thì NSDLĐ phải cam kết
những đảm bảo mở rộng như hỗ trợ thu nhập cho NLĐ trong khoảng thời gian không
may gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn, thai sản... Tuy nhiên, việc này không phải được
giới chủ thực hiện một cách đầy đủ trong mọi tình huống nên tất yếu sẽ phát sinh
mâu thuẫn chủ - thợ, dẫn đến hiện tượng giới thợ liên kết lại đấu tranh đòi hỏi giới
chủ phải thực hiện cam kết. Và cuộc đấu tranh này ngày càng diễn ra gay gắt, sâu
rộng ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, đến lúc

Nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hòa mâu thuẫn bằng cách buộc cả giới chủ
và giới thợ đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ
dựa trên cơ sở xác suất rủi ro đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của giới chủ
và giới thợ đã hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, quỹ này còn được bổ sung từ
ngân sách Nhà nước khi cần thiết để đảm bảo đời sống của NLĐ khi gặp những rủi
ro, bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của NLĐ
được phân tán, cuộc sống của NLĐ và thân nhân ngày càng được đảm bảo ổn định.
Lúc này, giới chủ cũng nhận thấy được lợi ích của chính sách này. Vì vậy, quy định


về việc phải đóng góp vào nguồn quỹ tiền tệ tập trung được sự ủng hộ của số đông
trong giới chủ và giới thợ, quy mô của quỹ ngày càng phát triển và được đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với mối quan hệ chặt chẽ như trên được thế giới
quan niệm là BHXH đối với NLĐ.
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện chính sách BHXH và
được các nước coi là trụ cột chính trong hệ thống ASXH. Mặc dù đã có quá trình
phát triển tương đối lâu dài, nhưng do tính phức tạp và đa dạng của BHXH nên đến
nay vẫn còn có sự nhận thức khác nhau về vấn đề này. Điều này được phản ánh qua
các khái niệm về BHXH từ các góc độ khác nhau. Cụ thể:
-

BHXH là biện pháp bảo đảm, thay đổi hoặc bù đắp một phần thu nhập của
NLĐ do gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm thông qua một quỹ tiền tệ được tập trung từ sự đóng góp của NLĐ
và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo ASXH. BHXH là trụ cột chính
trong hệ thống ASXH ở mỗi nước.
Các chế độ của BHXH đã hình thành khá lâu trước khi xuất hiện thuật ngữ

ASXH. Hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên
bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Otto Von Bismarck (1850) và sau đó được hoàn

thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo
hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: NLĐ, NSDLĐ và
Nhà nước. Kinh nghiệm về BHXH ở Đức, sau đó, được lan dần sang nhiều nước trên
thế giới, đầu tiên là các nước Châu Âu (Anh: 1991, Ý: 1919, Pháp: từ 1918...), tiếp
đến là các nước Châu Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canada (từ sau 1930) và cuối cùng là
các nước châu Phi, Châu Á (giành độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ 2) [5].
-

Theo ILO thì BHXH là sự bảo vệ đối với các thành viên của mình thông qua
các biện pháp công cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế - xã hội do
bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, TNLĐ, thất nghiệp,
thương tật, tuổi già, chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho
các gia đình đông con. Với khái niệm này, đối tượng được bảo vệ bằng hệ
thống BHXH thường là những NLĐ và thân nhân của họ, không phải là tất cả


các thành viên trong xã hội nói chung. Biện pháp công cộng được sử dụng
trong BHXH thông thường là biện pháp lập quỹ chuyên dùng, từ sự đóng góp
của NLĐ và NSDLĐ, không bao hàm sự chu cấp từ ngân sách nhà nước hoặc
từ các quỹ xã hội.
-

Theo cách tiếp cận từ góc độ chính sách, chính sách BHXH là những nguyên
tắc và biện pháp của Nhà nước về vấn đề BHXH cho NLĐ nhằm đảm bảo
thực hiện quyền tham gia và thụ hưởng BHXH cho mọi thành viên xã hội,
góp phần ổn định, công bằng và phát triển xã hội.

-

Theo cách tiếp cận từ góc độ tài chính, BHXH là quá trình thành lập và sử

dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng những NLĐ, có sự bảo trợ của Nhà
nước, để san sẻ rủi ro, đảm bảo thu nhập cho họ và thân nhân trong những
trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật.

-

Theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật, BHXH được hiểu là sự bảo đảm thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ BHXH.
Các khái niệm nêu trên đều có nội hàm tương đối thống nhất, thể hiện ở một

số điểm sau đây:



BHXH là sự bảo vệ của xã hội, của Nhà nước đối với NLĐ;

NLĐ sẽ được BHXH trợ giúp vật chất và các dịch vụ y tế cần thiết để ổn định
cuộc sống cho bản thân và gia đình họ;



Chỉ trong các trường hợp có những rủi ro liên quan đến thu nhập của NLĐ
thì mới được hưởng BHXH;


BHXH được thực hiện trên cơ sở một quỹ tiền tệ.

Qua nghiên cứu Luật BHXH năm 2014 và Luật Kinh doanh bảo hiểm năm

2000, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tác giả rút ra những điểm khác biệt cơ bản
giữa BHXH và bảo hiểm thương mại:


Bảng 1.1: Phân biệt bảo hiểm xã hội với bảo hiểm thương mại
Bảo hiêm thương mại
Tiêu thức
Tính chất

Đối tượng được bảo hiểm

Phi nhân thọ
- Kinh doanh

- Kinh doanh

-

Tài sản

-

Con người

-

Trách nhiệm

-


Các hư hỏng,

- Con người

-

hiểm (chi trả)

-

Nguồn hình thành quỹ

Ồm đau, thương

Ồm đau, tai nạn,

tật, nằm viện, chế

nằm viện đối với

độ chăm

con người;
-

Sống đến thời
hạn nhất định;

sản;
-


Các

nghĩa

sóc;
vụ

-

Hưu trí ;

pháp lý phát sinh.

-

Chết.

- Phí đóng của người - Phí đóng của người
tham gia.

- Chính sách xã hội
- Con người (thu nhập của
con người).

thiệt hại về tài
Những sự kiện được bảo

Bảo hiêm xã hôi


Nhân thọ

tham gia.

-

Ồm đau

-

Thai sản

-

Tai nạn lao động,
BNN;

-

Hưu trí;

-

Tử tuất.

-

Sự đóng góp của
NSDLĐ, NLĐ.


-

Sự

hỗ

trợ

từ

NSNN và nguồn
viện trợ khác.

- Nhà nước và các doanh - Nhà nước và các doanh - Nhà nước là chủ thể duy
nghiệp tư nhân (các tập nghiệp tư nhân (các tập nhất (thực hiện bởi cơ
Cơ quan chủ quản

đoàn, công ty, chi nhánh, đoàn, công ty, chi nhánh, quan BHXH được tổ chức
đại lý...).

đại lý.).

- ---------------------------------------------- 1-------------------------------------------------------------------------- V———-----------------------------------------------------f 1—f

từ trung ương đến địa
phương).

Từ các khái niệm nêu trên nghiên cứu về BHXH có thể hiểu:

BHXH là biện pháp ASXH mà Nhà nước sử dụng nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù

đắp một phần thu nhập từ lao động của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động
do gặp phải các rủi ro như ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết dựa trên cơ sở hình thành quỹ tiền tệ tập trung từ sự tham gia đóng góp của
NSDLĐ, NLĐ và được sự bảo trợ của Nhà nước nhằm ổn định đời sống cho NLĐ và
thân nhân.


1.1.2.2.

Vai trò của bảo hiểm xã hội

Trong nền kinh tế thị trường, BHXH là một lĩnh vực không thể thiếu được đối với
NLĐ và NSDLĐ, bởi vì:
- Thứ nhất, đối với NLĐ:
Có thể nói, TNLĐ, đặc biệt là những vụ TNLĐ nghiêm trọng, là một biến cố lớn
lao đối với cuộc đời của NLĐ, nó có thể khiến cho cuộc sống của NLĐ bước sang một
giai đoạn mới đầy khó khăn, đòi hỏi một nghị lực, tinh thần phấn đấu, sự lạc quan mới có
thể vượt qua và thích nghi trong quãng đời còn lại. Chế độ BHXH đã trực tiếp góp phần
ổn định cuộc sống cho NLĐ và thân nhân khi NLĐ gặp rủi ro hay sự kiện bảo hiểm.
Đồng thời, thông qua quỹ BHXH, NLĐ thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó
khăn của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro trong lao động sản xuất và trong đời sống
NLĐ được khống chế và dàn trải, hậu quả của rủi ro được khắc phục kịp thời.
Tham gia BHXH còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá nhân, giúp
họ tiết kiệm những khoản tiền nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi
tuổi già hay mất sức lao động... Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn
động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ ổn định về
tâm lý, giảm lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già. Nhờ có BHXH, cuộc sống của những
thành viên trong gia đình NLĐ, nhất là trẻ em, những người tàn tật, goá bụa. cũng được
đảm bảo an toàn hơn.
Chính vì tính chất quan trọng, thiết yếu đối với đời sống của tất cả mọi người,

ngay tại Điều 34 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: “Công dân có quyền được đảm bảo ASXH”. Trong đó, BHXH được xem là một nội
dung cơ bản trong các quyền về ASXH mà con người phải được hưởng theo luật định.
- Thứ hai, đối với NSDLĐ:
Mặc dù phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định để bảo hiểm cho
NLĐ làm việc cho mình, điều đó ít nhiều cũng ảnh hưởng đến thu nhập của NSDLĐ.
Song về lâu dài, BHXH giúp họ ổn định sản xuất kinh doanh thông qua việc quản lý
được một nguồn nhân lực ổn định, có tay nghề, đồng hành gắn bó và nhiệt tình trong lao
động. Nếu không có BHXH, các đơn vị sử dụng lao động trả tiền bảo hiểm cùng với tiền


lương hàng tháng để NLĐ tự lo thì nguồn tiền này có thể bị NLĐ sử dụng vào những
mục đích khác. Đến khi NLĐ ốm đau, tai nạn không có nguồn thu nhập, không có chi phí
thuốc men..., đời sống của họ bị ảnh hưởng thì quan hệ lao động, chất lượng lao động sẽ
bị ảnh hưởng.
BHXH còn làm cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ, không chỉ khi trực tiếp sử
dụng lao động mà trong suốt cuộc đời họ. Nếu không có quy định chế độ BHXH bắt
buộc thì sẽ có nhiều trường hợp vì những khoản lợi trước mắt mà NSDLĐ cắt xén quyền
lợi, thiếu trách nhiệm với NLĐ.
BHXH còn giúp cho NSDLĐ ổn định nguồn chi, ngay cả khi có rủi ro lớn xảy ra
thì cũng không lâm vào tình trạng nợ nần hay phá sản. Nhờ đó, các chi phí được chủ
động hạch toán, ổn định và tạo điều kiện để phát triển không phụ thuộc nhiều vào hoàn
cảnh khách quan. Tuy nhiên, BHXH hầu như không mang lại các lợi ích trực tiếp và tác
động ngắn hạn nên không phải lúc nào NSDLĐ cũng nhận thức đúng được điều này.
- Thứ ba, đối với Nhà nước và xã hội:
Trước tiên, BHXH tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội,
củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, một yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất.
Điều đó đã thúc đẩy sự ra đời và trở thành lý do tồn tại của BHXH. Tuy không nhằm mục
đích mang lại lợi nhuận nhưng BHXH là công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự

phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Thông qua BHXH, những rủi ro trong đời sống của NLĐ được dàn trải theo nhiều chiều,
tạo ra khả năng giải quyết an toàn nhất, với chi phí thấp nhất.
BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Nếu kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém thì hệ thống
BHXH cũng chậm phát triển ở mức tương ứng. Khi kinh tế càng phát triển, đời sống của
NLĐ được nâng cao thì nhu cầu tham gia BHXH càng lớn. Thông qua hệ thống BHXH,
trình độ tổ chức, quản lý rủi ro xã hội của các nhà nước cũng ngày càng được nâng cao
thể hiện bằng việc mở rộng đối tượng tham gia, đa dạng về hình thức bảo hiểm, quản lý
được nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH...


Hoạt động BHXH còn góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị trường
tài chính phong phú và kinh tế - xã hội phát triển. Đặc biệt, với bảo hiểm hưu trí, nguồn
vốn tích luỹ trong thời gian dài, kết dư tương đối lớn, có thể đầu tư vào các doanh
nghiệp, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các bên: người tham gia
BHXH, cơ quan BHXH và nền kinh tế xã hội.
1.1.3.

Bản chất của bảo hiểm xã hội

BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, là một trong những chính sách
ASXH cốt lõi củanhiều quốc gia trên thế giới, là một tiêu chí đánh giá chỉ số “lý tưởng”
của một đất nước, là nhân tố quan trọng đóng góp vào chỉ số hạnh phúc của người dân.
Nó thể hiện trình độ văn minh và sức mạnh nội lực của nền kinh tế một đất nước, khả
năng tổ chức và quản lý của Chính phủ. Để thấy rõ bản chất của BHXH, cần phải xem
xét trên tất cả các phương diện: xã hội, kinh tế, chính trị và pháp lý.
Về phương diện xã hội: BHXH ra đời là tất yếu khách quan, xuất hiện trong
những điều kiện nhất định của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi tất cả sản phẩm
cung ứng cho xã hội đều thông qua quá trình sản xuất công nghiệp đồng nghĩa với những

rủi ro nghề nghiệp phát sinh càng nhiều và ảnh hưởng đến NLĐ ngày càng nghiêm trọng.
Rủi ro trong BHXH bao gồm cả những rủi ro thuần túy, phát sinh ngẫu nhiên như: ốm
đau, TNLĐ... và cả những rủi ro về việc làm như NLĐ bị thất nghiệp. Điều đó làm cho
NLĐ ngày càng cần đến các hình thức chia sẻ rủi ro của bảo hiểm nói chung và BHXH
nói riêng. Trong BHXH, sự chia sẻ rủi ro được thực hiện theo nhiều chiều và giữa nhiều
đối tượng. Cụ thể:
- Sự chia sẻ giữa những NSDLĐ với nhau và giữa Nhà nước, NSDLĐ với NLĐ.
Bởi vì, trong các đơn vị sử dụng lao động, có những đơn vị, trong những khoản thời gian
nhất định nhưng không phát sinh những rủi ro liên quan đến NLĐ hoặc khả năng xảy ra
rủi ro là rất thấp. Ngược lại, có những đơn vị do đặc thù ngành nghề sản xuất nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm, nên quá trình lao động của NLĐ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Giữa những
đơn vị này cần san sẻ rủi ro cho nhau thông qua quỹ bảo hiểm TNLĐ, quỹ ốm đau... để
có thể vừa làm tròn trách nhiệm với NLĐ, vừa chủ động kiểm soát về chi phí sản xuất,


góp phần đảm bảo mục tiêu lợi nhuận đề ra. Bên cạnh đó, Nhà nước luôn là người bảo
trợ để đề phòng rủi ro cho quỹ BHXH.
- Thông qua BHXH, các rủi ro còn được chia sẻ cả về mặt không gian và thời
gian. Chẳng hạn, trên cơ sở mức đóng góp vào quỹ BHXH là thống nhất, nhưng tại một
thời điểm nhất định, những vùng phát triển kinh tế vượt trội, những ngành nghề sản xuất
có mức độ rủi ro thấp hoặc ít khi gánh chịu các rủi ro thiên nhiên khác như thiên tai, dịch
bệnh., thì cần san sẻ cho những vùng, ngành nghề còn lại; trong khi đó, sau những khoản
thời gian phát triển ổn định, trong từng vùng, từng ngành, cũng không thể tránh khỏi
những biến cố rơi vào giai đoạn kém phát triển, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, sẽ lại cần có sự
san sẻ rủi ro của thời kỳ trước đó và của những đơn vị, những vùng, những ngành kinh tế
khác.
- Việc chia sẻ rủi ro còn được thực hiện ngay trong nội bộ những NLĐ như: chia
sẻ giữa lao động nam với lao động nữ; giữa NLĐ trẻ, khoẻ, ổn định với NLĐ hay bị ốm
đau, tai nạn rủi ro; giữa những người còn trong độ tuổi lao động với người già yếu đã
nghỉ hưu, giữa những NLĐ có việc làm với những NLĐ bị thất nghiệp.

- Chia sẻ rủi ro còn được thực hiện trong việc chia sẻ nguồn tài chính, nguồn thu
nhập trong cuộc đời mỗi NLĐ, giữa giai đoạn khoẻ mạnh với những lúc ốm đau, bệnh
tật; giữa lúc trẻ trung với lúc già yếu, hết tuổi lao động; giữa thời điểm thu nhập cao với
thời điểm việc làm bấp bênh, thất nghiệp.
Như vậy, BHXH cũng mang bản chất chung của bảo hiểm, đó là sự chia sẻ rủi ro,
trước hết là giữa các đối tượng tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, khác với hình thức bảo
hiểm thương mại, những rủi ro cần sự chia sẻ thông qua BHXH thường là những rủi ro
liên quan đến thu nhập của NLĐ. Nó có thể đồng thời là những rủi ro thuần túy của họ
nhu ốm đau, tai nạn, cũng có thể là những sự kiện trong cuộc sống nhu: thai sản, tuổi
già... Ngoài ra, tính xã hội của BHXH còn thể hiện ở mục đích của nó, thể hiện qua việc
BHXH chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu đuợc chia sẻ rủi ro của NLĐ, không nhằm mục đích
huớng tới yếu tố lợi nhuận, đối với cả nguời tham gia và tổ chức thực hiện bảo hiểm. Vì
vậy, bản chất xã hội của BHXH là quá trình quản lý và chia sẻ các rủi ro giữa những


người tham gia BHXH, góp phần bảo đảm đời sống cho NLĐ và thân nhân họ, từ đó đảm
bảo ASXH nói chung.
Về phuơng diện kinh tế: BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những
nguời tham gia, thông qua việc hình thành quỹ tiền tệ dùng để đáp ứng nhu cầu chi trả
bảo hiểm cho NLĐ và thân nhân khi gặp rủi ro về thu nhập trong lao động sản xuất hoặc
mất nguồn nuôi duỡng... Vì vậy, thực hiện BHXH là quá trình tính toán, cân đối các yếu
tố kinh tế nhu thu nhập, khả năng đóng góp, mức huởng có thể đảm bảo, thông qua thống
kê xác xuất rủi ro và dự toán, hạch toán quỹ BHXH...
Quỹ BHXH là một bộ phận của thu nhập quốc nội, truớc hết, đuợc sử dụng để
đảm bảo an toàn đời sống cho NLĐ, tái sản xuất sức lao động. Quỹ BHXH còn có thể
dùng để đầu tu, phát triển sản xuất, đóng góp một khối luợng nhất định nguồn lực phục
vụ cho nhiệm vụ tăng truởng kinh tế đất nuớc. Đó là quá trình tổ chức, sử dụng thu nhập
cá nhân và tổng sản phẩm quốc nội nhằm thoả mãn nhu cầu an toàn về tài chính trong đời
sống NLĐ và an toàn trong đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Về phuơng diện chính trị, pháp lý: BHXH khi đuợc Nhà nuớc điều chỉnh bằng

pháp luật, đã trở thành quyền cơ bản của NLĐ, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế.
Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm của bản thân NLĐ và NSDLĐ. Đây đuợc xem là cơ sở
thực tiễn và khoa học cho chế định về tính bắt buộc của chế độ BHXH hiện hành ở nuớc
ta.
1.1.4.

Đặc điểm của chế độ bảo hiểm xã hội

Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi
quốc gia. Nó là những quy định chung, rất khái quát về cả đối tượng, phạm vi các mối
quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung đã đề ra. Chế độ BHXH
là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố
trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện chính sách BHXH đối với NLĐ. Nói cách khác,
đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng thụ hưởng, nghĩa vụ và
mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện
dưới dạng các văn bản pháp quy (luật, nghị định, thông tư...). Tuy nhiên, dù có cụ thể đến
mức nào thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi tình huống


phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ
thường phải nắm vững những quan điểm mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để
đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu:
- Số lượng các chế độ và nội dung mỗi chế độ đều được luật hoá như là một chế
định bắt buộc, tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Việc quy định các
chế độ cụ thể do nhận thức của Đảng chính trị cầm quyền trong từng thời điểm nhất định,
được xem như là một thành tố hình thành bắt buộc trong cương lĩnh xây dựng và phát
triển đất nước. Chế độ BHXH là công cụ trực tiếp để Nhà nước thực hiện vai trò chăm lo,
bảo hộ đối với người dân.
- Hệ thống chế độ BHXH thực chất là sự san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính giữa NLĐ

với NLĐ, giữa NLĐ với NSDLĐ và giữa những NSDLĐ với nhau.
Đặc điểm này biểu hiện khá rõ giữa những người khoẻ mạnh với những NLĐ bị
ốm đau; giữa nam và nữ; giữa những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm dễ xảy
ra TNLĐ hoặc BNN với những ngành nghề hoặc công việc bình thường; giữa những
NLĐ có công ăn việc làm và thu nhập cao với những NLĐ không may bị thất nghiệp.
Phân tán rủi ro, san sẻ tài chính còn biểu hiện giữa những doanh nghiệp sử dụng nhiều
lao động nữ với những doanh nghiệp sử dụng lao động nữ ít hơn; giữa các doanh nghiệp
làm ăn phát đạt có mức lợi nhuận cao với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ gặp nhiều khó
khăn bị phá sản...Tuy nhiên, sự san sẻ này không phải lúc nào cũng nhận được sự đồng
thuận của tất cả các đối tượng trong cùng nhóm hoặc giữa các nhóm khác nhau nên việc
quy định BHXH như là một chế định có giá trị bắt buộc áp dụng trong quan hệ lao động
là cần thiết để đảm bảo tính ổn định cho quá trình quản lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô.
- Mỗi chế độ đều có sự tương quan giữa mức đóng góp và mức thụ hưởng BHXH.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc có đóng góp mới được hưởng, đóng nhiều hưởng
nhiều, đóng ít hưởng ít. Mức đóng góp và mức trợ cấp BHXH theo các chế độ phải luôn
luôn tỷ lệ thuận với nhau. Mối quan hệ này là cơ sở chủ yếu để cân đối quỹ BHXH.
Ngoài ra, hoạt động tái đầu tư trong quá trình điều hành quản lý của Hội đồng quản lý
quỹ cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và nâng cao các chế độ


BHXH. Việc tái đầu tư hiệu quả sẽ bảo tồn và gia tăng nguồn quỹ để giải quyết chế độ,
trong trường hợp ngược lại, Nhà nước sẽ phải chi ngân sách để bổ sung vào nguồn quỹ
này, đảm bảo quyền lợi của NLĐ, duy trì sự ổn định của xã hội.
- Hầu hết các chế độ BHXH đều được chi trả định kỳ, đồng tiền được sử dụng
làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Điều này xuất phát từ đối tượng của BHXH
là thu nhập của NLĐ do NSDLĐ chi trả hàng tháng. Chính vì thế, khoản trợ cấp BHXH
để bù đắp, thay thế phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi được tiến hành định kỳ theo tháng
là rất phù hợp với chu kỳ tiếp nhận thu nhập của NLĐ.
- Trong hệ thống chế độ BHXH, có cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Các chế độ
BHXH ngắn hạn chỉ mang tính nhất thời đột xuất nhằm hỗ trợ NLĐ khi các rủi ro và sự

kiện bảo hiểm xảy ra như: nghỉ ốm đau, nghỉ thai sản, suy giảm khả năng lao động do
TNLĐ và BNN, mất việc làm... Các chế độ BHXH dài hạn được thực hiện nhằm đảm
bảo nguồn thu nhập cho NLĐ khi đã già yếu hết tuổi lao động, mất sức lao động vĩnh
viễn và qua đời mà bất kỳ NLĐ nào cũng phải trải qua. Các chế độ BHXH dài hạn được
thực hiện sau quá trình lao động, quan hệ phân phối có tính chất hoàn trả, lợi ích hưởng
thụ tương ứng với nghĩa vụ đóng góp.
- Mỗi chế độ trong hệ thống thường được hoàn thiện dần theo thời gian cho phù
hợp với điều kiện cụ thể.
Nhìn chung hệ thống chế độ BHXH có tính ổn định tương đối. Tuy nhiên, theo
thời gian, khi có những biến động lớn về kinh tế - xã hội, các chính sách kinh tế - xã hội
liên quan có nhiều thay đổi thì mỗi tất yếu các chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH
sẽ có sự điều chỉnh ngày càng hoàn thiện, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
đất nước.
1.1.5.

Nguyên tắc quản lý bảo hiểm xã hội

Quản lý quỹ BHXH được chia theo chức năng: quản lý nhà nước và hoạt động sự
nghiệp.
Chức năng quản lý nhà nước về BHXH chủ yếu được giao cho Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đảm nhận, bao gồm:

Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển BHXH.




Xây dựng chính sách, pháp luật về BHXH; trình cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản pháp luật về BHXH.



Xây dựng và trình Chính phủ chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH.



Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH.



Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về

BHXH.


Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về

BHXH.


Trình Chính phủ quyết định biện pháp xử lý trong trường hợp cần thiết để

bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng về BHXH của NLĐ.


Thực hiện công tác thống kê, thông tin về BHXH.



Tổ chức tập huấn, đào tạo về BHXH.




Tổ chức nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về BHXH.



Hằng năm, báo cáo Chính phủ về tình hình thực hiện BHXH.

Hoạt động sự nghiệp về BHXH được giao cho cơ quan BHXH, tổ chức bộ máy từ
trung ương đến địa phương, bao gồmnhiệm vụquản lý về thu, chi, bảo toàn, phát triển và
cân đối quỹ.
Từ 01/01/2016, cơ quan BHXH được giao thêm nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành
về đóng BHXH [6].
Ngoài ra, tham gia vào quá trình tổ chức và giám sát thực hiện chính sách, chế độ
BHXH còn có các cơ quan liên quan như đại diện chủ sử dụng lao động, đại diện NLĐ.
1.2.

Lý luận cơ bản về chính sách trợ cấp tai nạn lao động

1.2.1.

Khái niệm về tai nạn lao động

TNLĐ xuất hiện cùng với quá trình lao động sản xuất của con người. TNLĐ có
thể xảy ra ở mọi ngành, nghề, mọi quốc gia. Mặc dù đã có nhiều biện pháp được thực
hiện nhằm giảm thiểu TNLĐ như sử dụng máy móc thay thế, trang bị phương tiện bảo hộ
lao động... nhưng dù cố gắng đến đâu thì TNLĐ vẫn xảy ra. Chính vì vậy, TNLĐ không
chỉ là vấn đề quan tâm của mỗi quốc gia mà là vấn đề quan tâm chung của toàn cầu. ILO



×