VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------
Cao Xuân Cường
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN TÂN BÌNH- THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------
Cao Xuân Cường
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN TÂN BÌNH- THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI - 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM.................................................................................................. 8
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em ......................................................................................... 8
1.2. Cơ sở pháp lý của áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
tình dục trẻ em ................................................................................................. 13
1.3. Các nhân tố xã hội tác động đến áp dụng pháp luật hình sự đối với các
tội xâm phạm tình dục trẻ em.......................................................................... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................. 39
2.1. Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn
Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh ........................................................ 39
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa bàn Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh .................................... 51
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM................................................................................................ 62
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
tình dục trẻ em ................................................................................................. 62
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với với các tội
xâm phạm tình dục trẻ em ............................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
: Bộ luật hình sự
: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
CTTP
NQ
QPPL
PLHS
TP HCM
: Cơ quan điều tra
: Cấu thành tội phạm
: Nghị quyết
: Quy phạm pháp luật
: Pháp luật hình sự
: Thành phố Hồ Chí Minh
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
TNHS
: Tòa án nhân dân Tối cao
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
XPTDTE
: Xâm phạm tình dục trẻ em.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu 2.1. Thống kê các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trong tổng số vụ án
hình sự sơ thẩm đã xét xử tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình (từ năm 20132017)................................................................................................................ 40
Biểu 2.2. Cơ cấu các loại tội xâm phạm tình dục trẻ em ................................ 40
Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả quyết định hình phạt trên địa bàn quận Tân Bình
về các tội xâm phạm tình dục trẻ em (từ năm 2013-2017) ............................. 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là mầm non, là tương lai của đất nước, cần phải được sống trong
môi trường giáo dục, xã hội an toàn, lành mạnh để phát triển toàn diện. Vì vậy
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm XPTDTE cần được quan tâm hơn
nữa, cần tăng cường các biện pháp nhằm phát hiện nhanh chóng, chính xác và
điều tra xử lý nghiêm minh các tội XPTDTE. Từ khi giành được chính quyền
đến nay, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, chăm lo, bảo vệ, trừng trị
nghiêm khắc những hành vi xâm phạm tình dục nói chung, xâm hại tình dục
trẻ em nói riêng, nhiều bản án nghiêm khắc, trong đó có cả bản án tử hình đối
với người phạm tội đã được Tòa án tuyên, thể hiện quan điểm của Nhà nước
trong việc đấu tranh không khoan nhượng đối với loại tội phạm này, đây là
bài học đắt giá đối với người phạm tội, đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh,
răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung trong cộng đồng xã hội.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, loại tội phạm này
không chỉ xâm hại đến sự phát triển bình thường, lành mạnh của trẻ em, mà
còn gây ảnh hưởng xấu đến tâm, sinh lý của trẻ về lâu dài, làm tổn thương
tinh thần trẻ em cũng như gia đình của trẻ. Ở góc độ xã hội, hành vi này còn
có tác động xấu đến môi trường xung quanh, nhiều vụ án gây phẫn nộ, bức
xúc, nhức nhối trong dư luận xã hội; việc xâm hại tình dục trẻ em không chỉ
diễn ra trong cộng đồng hay tại nơi làm việc mà còn diễn ra ngay chính tại gia
đình, nhà trường những nơi tưởng chừng như là an toàn với trẻ. Đối tượng
thực hiện hành vi thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi. Tính chất các vụ việc
XPTDTE ngày càng nghiêm trọng, đáng báo động về sự xuống cấp đạo đức
của một bộ phận dân cư, ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự an toàn xã hội, nếp
sống văn hóa, văn minh xã hội trong cộng đồng.
Quận Tân Bình là một trong những quận, huyện tại TP. Hồ Chí Minh có
diện tích 22, 39 km2, địa giới hành chính chia làm 15 Phường (từ Phường 1
1
đến Phường 15), mật độ dân cư đông, trong đó có số lượng lớn dân nhập cư
sinh sống và làm việc, cũng như là nơi có nhiều trung tâm thương mại và
doanh nghiệp lớn, đặc biệt có sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, một trong
những cụm cảng hàng không lớn nhất của Việt Nam cũng như trong khu vực.
Điều này góp phần thúc đẩy kinh tế của Quận phát triển nói riêng và đóng góp
vào sự phát triển của Thành phố nói chung nhưng mặt khác cũng kéo theo
nhiều loại loại tội phạm phát triển có chiều hướng gia tăng hết sức phức tạp,
đặc biệt là các loại tội phạm XPTDTE đã đặt ra cho các cơ quan Tư pháp
quận Tân Bình những nhiệm vụ nặng nề trong công tác giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự trị an tại địa phương, nhất là trong công tác áp dụng PLHS, xét xử
của TAND Quận. Từ năm 2013 đến năm 2017, Tòa án nhân dân quận Tân
Bình, thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử sơ thẩm 21 vụ án XPTDTE
trên tổng số 27 vụ án được thụ lý điều tra, đạt tỷ lệ giải quyết 77,78%.
Trong thời gian qua, việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này của
các ngành, các cấp, các cơ quan tư pháp quận Tân Bình ngày càng được nâng
cao, đạt được kết quả nhất định do có sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật,
tuy nhiên vẫn gặp phải những khó khăn khi thực tiễn áp dụng pháp luật còn
một số vướng mắc. Việc hạn chế, thiếu sót trong quy định của pháp luật hình
sự cũng như những vướng mắc khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn đã gây
không ít trở ngại cho các cơ quan tư pháp Quận, để kịp thời bảo vệ những đối
tượng yếu thế bị xâm hại là trẻ em. Những quy định của các điều luật về các
tội XPTDTE nói chung cũng như các điều luật cụ thể nói riêng, khi áp dụng
vẫn gặp phải những quan điểm, đường lối xử lý thiếu thống nhất, còn tùy
nghi, do cách hiểu, cách tiếp cận những quy định pháp luật hình sự của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn nhiều khác biệt. Điều này, dẫn đến
việc áp dụng PLHS vào thực tế các vụ án trên địa bàn quận Tân Bình, đôi lúc
không thể hiện được hết mức độ tương xứng giữa chế tài áp dụng với tính
2
chất, mức độ, hành vi nguy hiểm và hậu quả mà người phạm tội gây ra, không
thể hiện hết được tính nghiêm minh của pháp luật vào đời sống xã hội.
Do đó, nhận thấy việc nghiên cứu các lý luận cơ bản những quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam, về áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội
XPTDTE từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh là hết sức cần
thiết, qua đó phần nào góp vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để
tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, bảo vệ hiệu quả quyền bất khả xâm phạm về
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh
lý của trẻ em. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Áp dụng pháp luật hình
sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn quận Tân Bình,
thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học luật hình sự ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu
lý luận chuyên sâu về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Các công trình
nghiên cứu sau đây đã được tác giả nghiên cứu và tham khảo để thực hiện đề
tài luận văn: “Giáo trình luật hình sự Việt Nam- Phần chung” do Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 2014 của GS. TS. Võ Khánh Vinh; “Giáo
trình luật hình sự Việt Nam- Phần các tội phạm” do Nhà xuất bản Công an
nhân dân, xuất bản năm 2008 của GS. TS. Võ Khánh Vinh; “Lý luận chung
về định tội danh” do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 2013 của
GS. TS. Võ Khánh Vinh; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017” do Nhà xuất bản Thế giới, xuất bản năm 2017 của
Tiến sĩ Đinh Thế Hưng và Trần Văn Biên; “Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự- Phần các tội phạm” do Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản
năm 2002 của thạc sĩ Đinh Văn Quế; “Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sựNhững vấn đề lý luận và thực tiễn” do Nhà xuất bản Phương Đông, xuất bản
năm 2000 của thạc sĩ Đinh Văn Quế; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam”
3
của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008; “Quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất bản năm 1995
của tác giải Nguyễn Ngọc Hòa; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, năm 2004
“Phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ em, theo chức năng của lực lượng Cảnh
sát nhân dân”, do Trần Phương Đạt làm chủ nhiệm; Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ, năm 2005 “Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở các tỉnh, thành
phố phía Nam; thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh”, do Vũ Đức
Trung làm chủ nhiệm.
Để phục vụ cho việc hoàn thành đề tài luận văn, tác giả luận văn còn
tham khảo các nghiên cứu khoa học về các tội XPTDTE, trong đó có thể kể
đến: Khánh Vân (2017) “Tìm hiểu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Bộ
luật hình sự 2015”- Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp; Luận văn thạc sỹ
năm 2001 “Thực trạng và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, ở nước ta hiện nay”,
của tác giải Đặng Thị Thanh; Luận văn thạc sỹ năm 2014 “Các tội xâm phạm
tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Bình
Phước”, của tác giải Nguyễn Vinh Huy; Luận văn thạc sỹ năm 2014 “Các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam”, của tác giải Nguyễn
Tấn Thiện.
Các công trình nghiên cứu khoa học nói trên đều nghiên cứu những vấn
đề về lý luận cơ bản, lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam; thực tiễn công tác
đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên phạm vi cả
nước hoặc một địa bàn cụ thể và đã có những kết luận, đưa ra những kiến
nghị hữu ích áp dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, có thể thấy các công trình
khoa học này chưa có công trình nào nghiên cứu áp dụng PLHS đối với các
tội XPTDTE trên địa bàn quận Tân Bình. Đặc biệt, từ ngày 01/01/2018, Bộ
luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có hiệu lực thi hành, có
4
những thay đổi, bổ sung thêm tội mới so với Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi bổ sung năm 2009), nhằm phù hợp với thực tiễn xã hội và các quy phạm
pháp luật khác. Do vậy, đề tài “Áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh” là
đề tài mới, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận, các quy định
pháp luật về các tội XPTDTE, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các
tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2013-2017, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, góp phần vào công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm và giữ vững trật tự, an toàn xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên đây, luận văn tập trung thực hiện các
nhiệm vụ:
- Thứ nhất: Phân tích, tìm hiểu các vấn đề lý luận và quy định pháp luật
về áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE;
- Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với
các tội XPTDTE, trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;
- Thứ ba: Xác định các nguyên nhân của những hạn chế, vi phạm, sai
lầm trong áp dụng pháp luật hình sự đối với tội XPTDTE trên địa bàn quận
Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;
- Thứ tư: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và đề xuất các giải pháp
bảo đảm áp dụng pháp luật đúng cũng như nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh, phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố
Hồ Chí Minh;
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định áp dụng pháp
luật hình sự về các tội XPTDTE; thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với
các tội này trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài luận văn được nghiên cứu trong phạm vi chuyên
ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự; khía cạnh thực tiễn của đề tài được
giới hạn ở định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội XPTDTE.
Về địa bàn nghiên cứu: Đề tài luận văn được nghiên cứu trong phạm vi
quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự đối với các tội XPTDTE, trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ
Chí Minh, giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, gồm số liệu thống kê tại
Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình và 21 bản án sơ thẩm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các chủ trương, đường lối của Đảng
và pháp luật của Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền; về chính sách
hình sự; về cải cách tư pháp; về tội phạm và áp dụng pháp luật hình sự đối với
các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
6
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học… để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng, giải quyết những
nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ luận văn thạc sỹ luật học về việc áp dụng pháp luật hình sự đối với các
tội XPTDTE từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn
có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng tham khảo để nâng
cao hiệu quả áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE, đặc biệt là công tác xét
xử của Tòa án khi giải quyết các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại quận
Tân Bình nói riêng, thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn
gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của áp dụng pháp luật
hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật
hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với các
tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.1. Khái niệm đặc điểm và nội dung của áp dụng pháp luật hình sự
đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Có nhiều nghiên cứu về khái niệm “trẻ em” nhưng trong PLHS Việt
Nam, “Trẻ em là người chưa đủ 16 tuổi và mọi hành vi xâm phạm quyền tự
do, đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao, xâm
phạm đến thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của trẻ em là “xâm hại
tình dục trẻ em” [45].
Do đó, khi có các hành vi xâm hại tình dục trẻ em, thì sẽ đặt ra vấn đề áp
dụng pháp luật mang tính tổ chức quyền lực Nhà nước đối với người thực
hiện chúng. Cụ thể, Nhà nước thông qua các Cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền để điều tra, truy tố, xét xử và đối chiếu với quy định của pháp luật hình
sự để quy kết trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm
tội và buộc họ phải chấp hành không phụ thuộc vào ý thức của họ.
Trong ngôn ngữ khoa học pháp lý hình sự, có quan điểm cho rằng, nội
dung của áp dụng pháp luật hình sự nhìn chung là “Toàn bộ những việc làm,
những hoạt động, những phương thức nhằm thực hiện những yêu cầu đặt ra
trong pháp luật hình sự trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội” [34,
tr.227]. Trong nội hàm của quan điểm này, thì áp dụng pháp luật hình sự bao
gồm cả việc cụ thể hóa pháp luật hình sự bằng những văn bản có tính hướng
dẫn thi hành chi tiết như: Nghị định của Chính phủ; Thông tư liên tịch của các
cơ quan chức năng trong tố tụng hình sự; hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán
8
Tòa án nhân dân Tối cao… Có thể nói đây là quan điểm phản ánh tương đối
rộng nội dung của việc áp dụng hình sự của nước ta hiện nay.
Như vậy, có thể lý luận chung nhất về áp dụng pháp luật hình sự đối với
các tội XPTDTE, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực Nhà nước, được
thực hiện bởi Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (CQĐT, VKS, TA) nhằm
vận dụng các quy định của pháp luật hình sự để giải quyết các vấn đề liên
quan đến trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội XPTDTE và được thực
hiện theo một trình tự đặc biệt do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Xuất phát từ khái niệm trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản nhất của
áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, đó là:
- Thứ nhất, áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE là hoạt động mang
tính quyền lực Nhà nước, đúng quy định pháp luật và phù hợp với các chủ
trương, chính sách pháp luật khác của Nhà nước. Bởi vì, các hoạt động này do
chủ thể có thẩm quyền tiến hành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được
Nhà nước giao. Cụ thể, do các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA)
tiến hành, thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Trong một số trường hợp cụ thể, hoạt động áp dụng PLHS đối với các tội
XPTDTE không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật hình sự
mà có thể được tiến hành theo ý chí đơn phương của chủ thể áp dụng. Ví dụ:
mọi hành vi giao cấu với người dưới 13 tuổi đều phạm vào tội hiếp dâm trẻ
em (Điều 142 BLHS năm 2015, trước đây là Điều 112 BLHS năm 1999) [15,
tr 108; 16, tr 91]. Đặc điểm này còn cho thấy, áp dụng PLHS có tính chất bắt
buộc đối với chủ thể bị áp dụng và chủ thể có liên quan khác.
- Thứ hai, áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, là hoạt
động phải được tuân thủ nghiêm ngặt theo những hình thức và thủ tục chặt
chẽ. Cụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ đầy đủ những quy
định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền đã được pháp luật TTHS quy định.
9
- Thứ ba, áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE là hoạt động điều
chỉnh mang tính chất cá biệt, cụ thể đối với những quan hệ xã hội nhất định
khi có sự kiện phạm tội trong lĩnh vực xâm hại tình dục trẻ em xảy ra.
- Thứ tư, áp dụng PLHS đòi hỏi tính sáng tạo trong phạm vi quy định
của pháp luật. Gắn liền với đặc điểm thứ ba, áp dụng PLHS đối với các tội
XPTDTE là áp dụng đối với từng tội phạm riêng biệt. Do đó, người áp dụng
PLHS phải có kiến thức, kinh nghiệm, trách nhiệm cao để có thể vận dụng
đúng các quy định của pháp luật tương ứng để định tội danh và áp dụng
TNHS đối với từng tội phạm cụ thể.
1.1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em
Trên cơ sở khoa học pháp lý hình sự, có thể hiểu nội dung của áp dụng
PLHS đối với các tội XPTDTE là những hoạt động nhằm cụ thể hóa, vật chất
hóa những quy định của pháp luật hình sự về các hành vi xâm hại tình dục trẻ
em đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể nói một cách khái quát
và đơn giản nhất là pháp luật hình sự quy định về hành vi xâm hại tình dục trẻ
em như thế nào thì việc áp dụng PLHS sẽ cá biệt hóa những quy định đó bằng
những tội danh cụ thể và đối với chủ thể cụ thể. Nhìn chung, về mặt lý luận
và thực tiễn và với bản chất vốn có của nó, thì nội dung của áp dụng pháp luật
hình sự đối với các tội XPTDTE đặt ra là giải quyết hai vấn đề: tội phạm và
hình phạt. Hai vấn đề này khi được chuyển hóa vào thực tế áp dụng pháp luật
hình sự đối với nhóm hành vi này, chính là định tội danh cho từng trường hợp
xâm hại tình dục trẻ em cụ thể và quyết định hình phạt tương xứng đối với các
tội phạm này. Đây chính là 02 nội dung cơ bản của áp dụng PLHS đối với tội
phạm nói chung, đối với các tội XPTDTE nói riêng. Ngoài ra, áp dụng PLHS
còn bao hàm cả việc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm mức
hình phạt đã tuyên...Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, tác
10
giả luận văn chỉ tập trung nghiên cứu 02 (hai) nội dung cơ bản của áp dụng
PLHS đối với các tội nói trên là định tội danh và quyết định hình phạt.
- Định tội danh là một trong những nội dung cơ bản của áp dụng pháp
luật hình sự đối với các tội XPTDTE. Đây là việc chủ thể áp dụng pháp luật
(CQĐT, VKS, TA) “xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có
phù hợp với mô hình pháp lý, tức cấu thành tội phạm của một tội nào đó”
[35; 46, tr 10] trong các tội XPTDTE hay không. Trách nhiệm xác định có tội
hay không có tội là hoạt động của Tòa án nhưng không có nghĩa định tội danh
chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử, việc định tội danh đúng trong quá trình
điều tra và truy tố sẽ giúp việc xét xử được chính xác và giản đơn, nhanh
chóng hơn. Vì vậy, định tội danh là hoạt động diễn ra trong tất cả các giai
đoạn của tố tụng hình sự.
Định tội danh các tội XPTDTE có bản chất pháp lý là quá trình chuyển
hóa nội dung quy định tội phạm của BLHS bằng cách xác nhận sự đồng nhất,
đầy đủ và chính xác giữa hành vi xâm phạm tình dục trẻ em cụ thể đã được
thực hiện trong thực tế với các dấu hiệu của một CTTP cụ thể tương ứng được
quy định trong Phần các tội phạm của BLHS và trong những trường hợp cần
thiết phải xác định sự phù hợp với các quy định trong Phần chung của BLHS.
Nói cách khác định tội danh là một hoạt động thực tiễn, tức áp dụng PLHS.
- Quyết định hình phạt đối với các tội XPTDTE là một giai đoạn quan
trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật đối với các tội XPTDTE do Tòa án
thực hiện. Đây là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể
được quy định trong các Điều luật cụ thể đối với các tội XPTDTE trong
BLHS, tương ứng với một tội phạm cụ thể đối với người phạm tội đã thực
hiện trong thực tế và thể hiện trong bản án.
Quyết định hình phạt đối với các tội XPTDTE cũng là việc chuyển hóa
nội dung quy định của PLHS về hình phạt vào việc xét xử những vụ án xâm
11
hại tình dục trẻ em nên cơ sở pháp lý của hoạt động này là BLHS, chỉ có
BLHS mới có quy định về tội phạm và hình phạt. Tuy nhiên, trong thực tế xét
xử, nhiều lúc các Cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải vận dụng các văn bản
hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến vấn đề quyết định
hình phạt cũng như liên quan đến định tội danh nhằm hướng dẫn việc áp dụng
những quy định về tội phạm và hình phạt của BLHS cho phù hợp với mục
đích đấu tranh phòng ngừa tội phạm ở những giai đoạn cụ thể nhất định.
Như vậy, định tội danh và quyết định hình phạt là hai nội dung cơ bản
nhất của áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, đây là hoạt động
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (của các cơ quan tiến hành tố tụng
bao gồm CQĐT, VKS, TA), để chuyển hóa những vấn đề quy định về tội
phạm, hình phạt và những quy định liên quan của BLHS về các hành vi xâm
hại tình dục trẻ em thành những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể là
đối tượng bị áp dụng PLHS. Bản chất pháp lý của nó là áp dụng những quy
định về tội phạm và hình phạt của BLHS để định tính một hành vi xâm hại
tình dục trẻ em là nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế có CTTP hay
không và định lượng trách nhiệm pháp lý đối với người thực hiện tội phạm.
Qua các phân tích trên cho thấy, định tội danh và quyết định hình phạt
đối với các tội phạm nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với
các tội XPTDTE nói riêng, có bản chất là hoạt động áp dụng pháp luật và luật
được áp dụng ở đây là luật nội dung- luật hình sự. Mặc dù, “trong lý luận
hình sự, việc áp dụng các quy phạm PLHS nói chung được hiểu là một quá
trình được tiến hành qua các giai đoạn nhất định như: giải thích PLHS, xác
định hiệu lực của văn bản pháp luật về không gian và thời gian, định tội
danh, quyết định hình phạt, xóa án ích...” [11, tr 39]. Song, nhìn từ khía cạnh
bản chất của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, luật được áp dụng có thể
kết luận rằng, xét đến cùng việc định tội danh và quyết định hình phạt trong
12
áp dụng PLHS đối với các tội phạm nói chung, tội XPTDTE nói riêng là các
nội dung cơ bản nhất. Những hoạt động khác chỉ nhằm mục đích làm sáng tỏ
hoặc hỗ trợ hai nội dung này.
1.2. Cơ sở pháp lý của áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ
em
1.2.1.1. Các quy định thuộc Phần chung của BLHS
Xuất phát từ đặc điểm “chỉ người nào (pháp nhân thương mại nào)
phạm một tội được quy định trong BLHS mới phải chịu TNHS” (Điều 2 Bộ
luật hình sự năm 2015; trước đây cũng quy định tại Điều 2 BLHS năm 1999)
[15, tr 47; 16, tr 6] và “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có năng lực TNHS...thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý”... (Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015; trước đây cũng quy định tại Điều 8
BLHS năm 1999) [15, tr 51; 16, tr 11] nên cơ sở pháp lý của định tội danh các
tội XPTDTE, từ bản chất của nó phải dựa vào BLHS là bước đầu tiên và quan
trọng nhất để định tội danh chính xác hành vi phạm tội mà người phạm tội đã
thực hiện.
Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội XPTDTE như đã nhấn mạnh
không chỉ đơn thuần nằm ở nội dung của các điều luật quy định về tội phạm
cụ thể mà còn bao hàm cả các quy định thuộc phần chung của Bộ luật hình sự,
vì mỗi mô hình về tội phạm cụ thể của PLHS thường không phản ánh đầy đủ
các đặc điểm, dấu hiệu của tội phạm. Về mặt cấu trúc, các tội phạm được quy
định trong Phần các tội phạm của BLHS chỉ là sự mô tả những dấu hiệu về
khách thể và mặt khách quan của tội phạm (mô tả hành vi và quan hệ xã hội
bị xâm phạm). Những dấu hiệu về chủ thể và mặt chủ quan như lỗi hay năng
lực chịu TNHS... của người phạm tội nói chung, phạm tội XPTDTE nói riêng
13
thường ít được quy định cụ thể mà mặc nhiên coi đây như là hệ quả đương
nhiên của hành vi phạm tội. Do đó, nếu chỉ căn cứ vào tội phạm cụ thể được
quy định ở Phần tội phạm trong BLHS khi áp dụng PLHS để định tội danh là
không đầy đủ, dễ mắc sai lầm. Mặc khác, trong thực tiễn áp dụng PLHS nói
chung, áp dụng PLHS đối với tội phạm về XPTDTE nói riêng, tội phạm có
thể được thực hiện chỉ một người hoặc do nhiều người cùng cố ý (chế định
đồng phạm quy định tại Điều 17 BLHS năm 2015; trước đây là Điều 20
BLHS năm 1999) hoặc các tội phạm thực hiện cố ý nhưng không thực hiện tội
phạm đến cùng vì nhận thức hoặc có lý do khách quan nào đó (chế định chuẩn
bị phạm tội quy định tại Điều 14; phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15; tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội quy định tại Điều 16 BLHS năm 2015;
trước đây quy định tại các Điều 17, Điều 18 và Điều 19 BLHS năm 1999).
Trong các trường hợp này việc áp dụng PLHS để định tội danh các tội
XPTDTE phải căn cứ vào Phần chung của BLHS.
Như đã phân tích ở trên về các nội dung của áp dụng pháp luật hình sự
đối với các tội XPTDTE, về mặt cấu trúc tội phạm được hợp thành bởi bốn
yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm, vốn
được gọi là bốn yếu tố của cấu thành tội phạm. “Cấu thành tội phạm là tổng
hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được
quy định trong luật hình sự” [20, tr 55]. Cấu thành tội phạm được coi là mô
hình pháp lý, là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định. Cũng như bất kỳ
loại tội phạm nào, các tội XPTDTE cũng được hình thành bởi bốn yếu tố:
khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Việc
nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của cấu thành các tội XPTDTE có ý nghĩa
quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý của loại tội này, cho phép
xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
đồng thời cho phép phân biệt giữa các tội phạm này và tội phạm khác. Bởi
14
vậy, cấu thành tội phạm được dùng làm cơ sở pháp lý cho việc định tội danh
và truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như làm tiền đề cho việc áp dụng pháp
luật khi quyết định hình phạt. Cũng bởi vậy, để định tội danh đúng cần làm
sáng tỏ cấu thành các tội XPTDTE, theo đó:
- Khách thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: là quyền bất khả xâm
phạm về tính mạng, sức khỏe, tình dục, nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Mặt
khác, hành vi này còn xâm hại đến sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh
lý của trẻ em và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Cũng như các
hành vi phạm tội khác, để xâm phạm đến các khách thể của các tội XPTDTE,
thì người phạm tội cũng phải tác động đến con người cụ thể (đối tượng vật
chất), đối tượng tác động của các tội XPTDTE là con người mà cụ thể là
người dưới 16 tuổi.
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: Cũng như các
loại tội phạm khác, mặt khách quan của tội phạm XPTDTE là những biểu
hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội. Hành vi khách quan được phản ảnh hầu hết trong mọi cấu
thành cơ bản của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là những xử sự cụ
thể của con người được thể hiện ra bên ngoài thế giới quan dưới hình thức
hành động hoặc không hành động xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm một cách
trái pháp luật đến những quan hệ xã hội (ở đây là khách thể tội phạm
XPTDTE) được PLHS bảo vệ. Còn hậu quả nguy hiểm cho xã hội là những
thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc thiệt hại khác (ở đây là sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm trẻ em).
- Chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: Là con người cụ thể đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS, đạt độ
tuổi luật định...thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Như vậy, chỉ những người
15
có đủ các điều kiện sau mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm, đó là: một
người cụ thể, đang sống; có năng lực trách nhiệm hình sự; đạt đến một độ tuổi
theo luật định và không ở vào tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình
sự (quy định tại Điều 12 và Điều 21 BLHS 2015; trước đây quy định tại Điều
12 và Điều 13 BLHS năm 1999). BLHS năm 2015, quy định chủ thể của tội
phạm là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại, nhưng căn cứ theo giới hạn đề
tài luận văn mà tác giả nghiên cứu hướng tới và theo quy định của BLHS năm
2015, thì chủ thể của các tội phạm này chỉ là cá nhân.
Từ bản chất chung của tội phạm thì chủ thể của các tội phạm XPTDTE
cũng phải đảm bảo đầy đủ các dấu hiệu chung của chủ thể tội phạm. Tuy
nhiên, trong một số tội phạm cụ thể của nhóm tội phạm này, đòi hỏi dấu hiệu
phải có thêm dấu hiệu khác (chủ thể đặc biệt). Ví dụ: Tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (quy
định tại Điều 145 BLHS 2015; trước đây quy định tại Điều 115 BLHS năm
1999); tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (quy định tại Điều 146 BLHS
2015; trước đây quy định tại Điều 116 BLHS năm 1999) và tội sử dụng người
dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (quy định tại Điều 147 BLHS 2015điều luật mới bổ sung so với BLHS năm 1999) thì đòi hỏi chủ thể phải là
người từ đủ 18 trở lên.....
- Mặt chủ quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: Khoa học pháp lý
hình sự chỉ ra rằng, tội phạm là một thể thống nhất giữa hai mặt khách quan
và chủ quan. Nếu như mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm thì mặt chủ quan là hoạt động, thái độ tâm lý bên trong của người phạm
tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra cho
xã hội. Với ý nghĩa là một mặt của hiện tượng thống nhất giữa các yếu tố cấu
thành tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại một cách độc lập mà
luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Nói cách khác, hoạt động tâm
16
lý bên trong của người phạm tội luôn gắn liền với biểu hiện bên ngoài của tội
phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm
tội. Trong đó, lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP, còn động cơ, mục
đích phạm tội chỉ là dấu hiệu bắt buộc trong một số CTTP cơ bản, đôi khi có
thể là dấu hiệu định khung.
Nghiên cứu Phần chung của BLHS (quy định tại Điều 10 BLHS năm
2015; trước đây quy định tại Điều 9 BLHS năm 1999) và nhóm tội phạm
XPTDTE trong BLHS cho thấy, chủ thể của các tội phạm luôn thực hiện với
lỗi cố ý. Bởi vì, về lý trí, người xâm hại tình dục trẻ em nhận thức rõ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi trên cơ sở nhận biết đối tượng sẽ xâm hại là
quyền bất khả xâm phạm tình dục của trẻ em, nhận biết tính chất, mức độ, hậu
quả của hành vi phạm tội... sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tình dục,
danh dự, nhân phẩm trẻ em. Về ý chí, người phạm tội mong muốn thỏa mãn
cho được tình dục của bản thân. Trong một số trường hợp người phạm tội bỏ
mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó, lỗi của người thực hiện hành vi xâm hại tình
dục trẻ em là cố ý, không thể có trường hợp vô ý.
Đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em, động cơ và mục đích thường
không được quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt (ngoại trừ
tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm, quy định tại Điều
147 BLHS 2015- đây là điều luật mới quy định về tội phạm mới ở nhóm tội
này) nhưng có ý nghĩa trong việc xác định tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, mặt khác cũng đánh giá mức độ lỗi. Vì thể, chúng có ý nghĩa trong
việc quyết định hình phạt. Trong các tội XPTDTE, động cơ và mục đích
nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm nhưng cũng cần phải được làm rõ.
Như vậy, cơ sở pháp lý của áp dụng pháp luật hình sự để định tội danh
các tội XPTDTE, trước hết nằm ở các quy định thuộc Phần chung của BLHS,
17
vì mô hình pháp lý về các tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội
phạm cụ thể chỉ mô tả hành vi của người trực tiếp thực hiện tội phạm và tội
phạm họ thực hiện ở giai đoạn hoàn thành chứ không mô tả các chế định liên
quan khác phục vụ cho việc định tội danh như: tuổi chịu TNHS, năng lực
TNHS, TNHS và các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, phạm nhiều
tội...Tóm lại, các quy định trong Phần chung của BLHS có tính chất định
hướng, đảm bảo cho hoạt động áp dụng PLHS để định tội danh đối với các tội
phạm được quy định trong Phần các tội phạm được đúng đắn.
1.2.1.2. Các quy định thuộc Phần các tội phạm của BLHS
Kế thừa và phát triển Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm
2015 cụ thể hóa tại các Điều 142- Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Điều 144Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 145- Tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi; Điều 146- Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; Điều 329- Tội
mua dâm người dưới 18 tuổi và bổ sung mới Điều 147- Tội sử dụng người
dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm; Các tội danh được khái niệm, cụ thể
hóa và mở rộng khái niệm “giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác” nhằm phù hợp với thực tiễn áp dụng PLHS, vì theo quy định của BLHS
năm 1999 và theo quan điểm áp dụng PLHS trước đây thì nếu những trẻ em là
nam giới bị giao cấu trái ý muốn thì chỉ có thể xử lý được về hành vi “dâm ô
với trẻ em” hoặc “làm nhục người khác”, điều này cũng có nghĩa chủ thể thực
hành của tội hiếp dâm nói chung, hiếp dâm trẻ em nói riêng chỉ có thể là nam
giới và nạn nhân chỉ có thể là nữ giới, theo quan điểm này trẻ em là nam giới
không được bảo vệ đầy đủ. Thực tiễn cuộc sống và áp dụng PLHS cho thấy,
hành vi giao cấu không chỉ giữa nam với nữ theo truyền thống, bản năng tính
giao mà còn có cả nam với nam hoặc nữ với nữ, vì vậy sự điều chỉnh này
trong BLHS năm 2015 là đúng đắn và phù hợp. Tuy nhiên trong thực tế áp
18
dụng PLHS thì chế định “giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác” chưa rõ ràng và cần có văn bản hướng dẫn cụ thể của các cơ quan chức
năng để áp dụng đúng đắn và có hiệu quả. Ngoài ra, khái niệm, cụ thể hóa lại
một số quy định như “người đã thành niên” được thay bằng “người đủ 18 tuổi
trở lên”; “nhiều người, nhiều lần” được thay bằng “từ 02 trở lên”.... để đảm
bảo tính thống nhất trong cách hiểu và quá trình áp dụng pháp luật.
Để có thể định tội danh đúng các tội cụ thể XPTDTE, ngoài những điều
đã phân tích tại tiểu mục 1.2.1.1 trên đây, cần tập trung phân tích nội dung của
các cấu thành tội cụ thể XPTDTE được quy định tại Phần các tội phạm của
Bộ luật hình sự.
- Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 của BLHS
năm 2015. Đây không phải là tội mới mà kế thừa Điều 112 của BLHS năm
1999. Tuy nhiên, Điều 142 BLHS năm 2015, mô tả cụ thể hơn khái niệm về
hiếp dâm trẻ em, cụ thể “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ” hoặc “giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi” [16, tr 91].
Do đó, khi áp dụng PLHS định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
ngoài việc đảm bảo các quy định tại Phần chung của BLHS năm 2015, thì
phải hội đủ các dấu hiệu riêng thuộc về bản chất tội phạm cụ thể, như sau:
* Khách thể của tội phạm: là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức
khỏe, tình dục, nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Mặt khác, hành vi này còn
xâm hại đến sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em và gây
ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
* Mặt khách quan của tội phạm: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi chia
làm hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
19
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng
thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ; trường hợp thứ
hai, là giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới
13 tuổi, ở trường hợp này thì dù có dùng hoặc không dùng hành vi, thủ đoạn
như đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đều CTTP hiếp dâm người
dưới 16 tuổi, quy định này nhằm bảo vệ người dưới 13 tuổi là đối tượng yếu
thế, chưa đủ khả năng nhận thức để tự bảo vệ mình.
Hành vi dùng vũ lực ở tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi cũng tương tự
như ở một số tội phạm khác nhưng hành vi dùng vũ lực ở đây là nhằm giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi
(người bị tấn công), hành vi thông thường đó là: đánh, vật lộn, xô đẩy, giữ
chân tay, bóp cổ, trói, xé quần áo...nhằm làm tê liệt sự kháng cự của bị hại để
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Thực tế áp dụng
PLHS cho thấy, có trường hợp nạn nhân bị bất tỉnh do hành vi dùng vũ lực
nhưng người phạm tội vẫn thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác đến cùng dẫn đến nạn nhân chết thì ngoài việc áp dụng
Điều 142, cần áp dụng thêm Điều 123 BLHS năm 2015 để truy cứu TNHS
đối với người phạm tội do ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực, là hành vi dùng lời nói hoặc hành động uy
hiếp tinh thần người dưới 16 tuổi, như: dọa giết, dọa đánh, dọa tạt a xít, dọa
bắn... làm cho người bị hại sợ hãi, tê liệt ý thức tạm thời để giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ. Tuy nhiên,
hành vi đe dọa này phải đến mức đủ mạnh, đủ trấn áp tinh thần, làm tê liệt ý
chí kháng cự của người bị hại để thực hiện được hành vi xâm hại.
Hành vi lợi dụng tinh thần không thể tự vệ được của nạn nhân, là trường
hợp nạn nhân không có khả năng chống trả khi bị người khác giao cấu hoặc
20