VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Cao Xuân Cường
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH Sự ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THựC TIỄN
QUẬN TÂN BÌNH- THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Cao Xuân Cường
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN TÂN BÌNH- THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã
số
: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS HỒ SỸ SƠN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
: Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
CTTP
Cấu thành tội phạm
NQ
Nghị quyết
QPPL
Quy phạm pháp luật
PLHS
Pháp luật hình sự
TP HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân Tối cao
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TTHS
VKSND
Tố tụng hình sự
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
XPTDTE
Xâm phạm tình dục trẻ em.
Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là mầm non, là tương lai của đất nước, cần phải được sống trong môi
trường giáo dục, xã hội an toàn, lành mạnh để phát triển toàn diện. Vì vậy công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm XPTDTE cần được quan tâm hơn nữa, cần tăng
cường các biện pháp nhằm phát hiện nhanh chóng, chính xác và điều tra xử lý
nghiêm minh các tội XPTDTE. Từ khi giành được chính quyền đến nay, Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm, chăm lo, bảo vệ, trừng trị nghiêm khắc những hành vi
xâm phạm tình dục nói chung, xâm hại tình dục trẻ em nói riêng, nhiều bản án
nghiêm khắc, trong đó có cả bản án tử hình đối với người phạm tội đã được Tòa án
tuyên, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc đấu tranh không khoan nhượng
đối với loại tội phạm này, đây là bài học đắt giá đối với người phạm tội, đồng thời là
tiếng chuông cảnh tỉnh, răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung trong cộng đồng xã hội.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, loại tội phạm này không chỉ
xâm hại đến sự phát triển bình thường, lành mạnh của trẻ em, mà còn gây ảnh hưởng
xấu đến tâm, sinh lý của trẻ về lâu dài, làm tổn thương tinh thần trẻ em cũng như gia
đình của trẻ. Ở góc độ xã hội, hành vi này còn có tác động xấu đến môi trường xung
quanh, nhiều vụ án gây phẫn nộ, bức xúc, nhức nhối trong dư luận xã hội; việc xâm
hại tình dục trẻ em không chỉ diễn ra trong cộng đồng hay tại nơi làm việc mà còn
diễn ra ngay chính tại gia đình, nhà trường những nơi tưởng chừng như là an toàn với
trẻ. Đối tượng thực hiện hành vi thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi. Tính chất các vụ
việc XPTDTE ngày càng nghiêm trọng, đáng báo động về sự xuống cấp đạo đức của
một bộ phận dân cư, ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự an toàn xã hội, nếp sống văn
hóa, văn minh xã hội trong cộng đồng.
Quận Tân Bình là một trong những quận, huyện tại TP. Hồ Chí Minh có diện
tích 22, 39 km2, địa giới hành chính chia làm 15 Phường (từ Phường 1 đến Phường
15), mật độ dân cư đông, trong đó có số lượng lớn dân nhập cư sinh sống và làm
việc, cũng như là nơi có nhiều trung tâm thương mại và doanh nghiệp lớn, đặc biệt
5
có sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, một trong những cụm cảng hàng không lớn nhất
của Việt Nam cũng như trong khu vực. Điều này góp phần thúc đẩy kinh tế của Quận
phát triển nói riêng và đóng góp vào sự phát triển của Thành phố nói chung nhưng
mặt khác cũng kéo theo nhiều loại loại tội phạm phát triển có chiều hướng gia tăng
hết sức phức tạp, đặc biệt là các loại tội phạm XPTDTE đã đặt ra cho các cơ quan Tư
pháp quận Tân Bình những nhiệm vụ nặng nề trong công tác giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự trị an tại địa phương, nhất là trong công tác áp dụng PLHS, xét xử của
TAND Quận. Từ năm 2013 đến năm 2017, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành
phố Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử sơ thẩm 21 vụ án XPTDTE trên tổng số 27 vụ án
được thụ lý điều tra, đạt tỷ lệ giải quyết 77,78%.
Trong thời gian qua, việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này của các
ngành, các cấp, các cơ quan tư pháp quận Tân Bình ngày càng được nâng cao, đạt
được kết quả nhất định do có sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tuy nhiên vẫn gặp
phải những khó khăn khi thực tiễn áp dụng pháp luật còn một số vướng mắc. Việc
hạn chế, thiếu sót trong quy định của pháp luật hình sự cũng như những vướng mắc
khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn đã gây không ít trở ngại cho các cơ quan tư
pháp Quận, để kịp thời bảo vệ những đối tượng yếu thế bị xâm hại là trẻ em. Những
quy định của các điều luật về các tội XPTDTE nói chung cũng như các điều luật cụ
thể nói riêng, khi áp dụng vẫn gặp phải những quan điểm, đường lối xử lý thiếu
thống nhất, còn tùy nghi, do cách hiểu, cách tiếp cận những quy định pháp luật hình
sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn nhiều khác biệt. Điều này, dẫn
đến việc áp dụng PLHS vào thực tế các vụ án trên địa bàn quận Tân Bình, đôi lúc
không thể hiện được hết mức độ tương xứng giữa chế tài áp dụng với tính chất, mức
độ, hành vi nguy hiểm và hậu quả mà người phạm tội gây ra, không thể hiện hết
được tính nghiêm minh của pháp luật vào đời sống xã hội.
Do đó, nhận thấy việc nghiên cứu các lý luận cơ bản những quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam, về áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE từ thực
6
tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết, qua đó phần nào
góp vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để tạo hành lang pháp lý chặt
chẽ, bảo vệ hiệu quả quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và
sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em. Vì vậy, tác giả quyết định
chọn đề tài “Áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ
thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh " làm đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học luật hình sự ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu lý
luận chuyên sâu về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Các công trình nghiên cứu sau
đây đã được tác giả nghiên cứu và tham khảo để thực hiện đề tài luận văn: “Giáo
trình luật hình sự Việt Nam- Phần chung" do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất
bản năm 2014 của GS. TS. Võ Khánh Vinh; “Giáo trình luật hình sự Việt NamPhần các tội phạm " do Nhà xuất bản Công an nhân dân, xuất bản năm 2008 của GS.
TS. Võ Khánh Vinh; “Lý luận chung về định tội danh " do Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, xuất bản năm 2013 của GS. TS. Võ Khánh Vinh; “Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017" do Nhà xuất bản Thế giới, xuất
bản năm 2017 của Tiến sĩ Đinh Thế Hưng và Trần Văn Biên; “Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự- Phần các tội phạm” do Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, xuất
bản năm 2002 của thạc sĩ Đinh Văn Quế; “Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sựNhững vấn đề lý luận và thực tiễn" do Nhà xuất bản Phương Đông, xuất bản năm
2000 của thạc sĩ Đinh Văn Quế; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam ” của trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2008; “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam ” do
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất bản năm 1995 của tác giải Nguyễn Ngọc Hòa;
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, năm 2004 “Phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ
em, theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân”, do Trần Phương Đạt làm chủ
nhiệm; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, năm 2005 “Tội phạm xâm phạm tình dục
7
trẻ em ở các tỉnh, thành phố phía Nam; thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu
tranh”, do Vũ Đức Trung làm chủ nhiệm.
Để phục vụ cho việc hoàn thành đề tài luận văn, tác giả luận văn còn tham
khảo các nghiên cứu khoa học về các tội XPTDTE, trong đó có thể kể đến: Khánh
Vân (2017) “Tìm hiểu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Bộ luật hình sự
2015”- Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp; Luận văn thạc sỹ năm 2001 “Thực trạng
và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em, ở nước ta hiện nay”, của tác giải Đặng Thị Thanh; Luận
văn thạc sỹ năm 2014 “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt
Nam, từ thực tiễn tỉnh Bình Phước ”, của tác giải Nguyễn Vinh Huy; Luận văn thạc
sỹ năm 2014 “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam”, của
tác giải Nguyễn Tấn Thiện.
Các công trình nghiên cứu khoa học nói trên đều nghiên cứu những vấn đề về
lý luận cơ bản, lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam; thực tiễn công tác đấu tranh
phòng, chống các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên phạm vi cả nước hoặc một
địa bàn cụ thể và đã có những kết luận, đưa ra những kiến nghị hữu ích áp dụng vào
thực tiễn. Tuy nhiên, có thể thấy các công trình khoa học này chưa có công trình nào
nghiên cứu áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE trên địa bàn quận Tân Bình. Đặc
biệt, từ ngày 01/01/2018, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có
hiệu lực thi hành, có những thay đổi, bổ sung thêm tội mới so với Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), nhằm phù hợp với thực tiễn xã hội và các quy
phạm pháp luật khác. Do vậy, đề tài “Ảp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh” là đề tài
mới, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
8
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận, các quy định pháp luật
về các tội XPTDTE, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
tình dục trẻ em trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 20132017, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với
các tội XPTDTE, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và giữ
vững trật tự, an toàn xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên đây, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
- Thứ nhất: Phân tích, tìm hiểu các vấn đề lý luận và quy định pháp luật về áp
dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE;
- Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các
tội XPTDTE, trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;
- Thứ ba: Xác định các nguyên nhân của những hạn chế, vi phạm, sai lầm
trong áp dụng pháp luật hình sự đối với tội XPTDTE trên địa bàn quận Tân Bình,
thành phố Hồ Chí Minh;
- Thứ tư: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và đề xuất các giải pháp bảo
đảm áp dụng pháp luật đúng cũng như nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng
ngừa loại tội phạm này trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định áp dụng pháp luật
hình sự về các tội XPTDTE; thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội này
trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
9
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài luận văn được nghiên cứu trong phạm vi chuyên ngành
Luật hình sự và Tố tụng hình sự; khía cạnh thực tiễn của đề tài được giới hạn ở định
tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội XPTDTE.
về địa bàn nghiên cứu: Đề tài luận văn được nghiên cứu trong phạm vi quận
Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
về thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đối với các tội XPTDTE, trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, giai
đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, gồm số liệu thống kê tại Viện kiểm sát nhân dân
quận Tân Bình và 21 bản án sơ thẩm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật; các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền; về chính sách hình sự; về cải cách tư pháp;
về tội phạm và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng
hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp;
phương pháp thống kê, điều tra xã hội học... để tổng hợp các tri thức khoa học luật
hình sự và luận chứng, giải quyết những nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ
luận văn thạc sỹ luật học về việc áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE
1
0
từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng tham khảo để nâng cao hiệu
quả áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE, đặc biệt là công tác xét xử của Tòa án
khi giải quyết các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại quận Tân Bình nói riêng, thành
phố Hồ Chí Minh nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm
3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của áp dụng pháp luật hình sự
đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình
dục trẻ em trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự
đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội
xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.1. Khái niệm đặc điểm và nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối
với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Có nhiều nghiên cứu về khái niệm “trẻ em” nhưng trong PLHS Việt Nam, “Trẻ
em là người chưa đủ 16 tuổi và mọi hành vi xâm phạm quyền tự do, đến nhu cầu
1
1
phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao, xâm phạm đến thân thể, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm của trẻ em là “xâm hại tình dục trẻ em " [45].
Do đó, khi có các hành vi xâm hại tình dục trẻ em, thì sẽ đặt ra vấn đề áp dụng
pháp luật mang tính tổ chức quyền lực Nhà nước đối với người thực hiện chúng. Cụ
thể, Nhà nước thông qua các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều tra, truy tố,
xét xử và đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự để quy kết trách nhiệm hình
sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và buộc họ phải chấp hành không
phụ thuộc vào ý thức của họ.
Trong ngôn ngữ khoa học pháp lý hình sự, có quan điểm cho rằng, nội dung
của áp dụng pháp luật hình sự nhìn chung là “Toàn bộ những việc làm, những hoạt
động, những phương thức nhằm thực hiện những yêu cầu đặt ra trong pháp luật hình
sự trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội” [34, tr.227]. Trong nội hàm của quan
điểm này, thì áp dụng pháp luật hình sự bao gồm cả việc cụ thể hóa pháp luật hình sự
bằng những văn bản có tính hướng dẫn thi hành chi tiết như: Nghị định của Chính
phủ; Thông tư liên tịch của các cơ quan chức năng trong tố tụng hình sự; hướng dẫn
của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao... Có thể nói đây là quan điểm phản ánh tương đối rộng nội
dung của việc áp dụng hình sự của nước ta hiện nay.
Như vậy, có thể lý luận chung nhất về áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội
XPTDTE, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực Nhà nước, được thực hiện bởi
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (CQĐT, VKS, TA) nhằm vận dụng các quy định
của pháp luật hình sự để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội XPTDTE và được thực hiện theo một trình tự đặc biệt do pháp
luật tố tụng hình sự quy định.
Xuất phát từ khái niệm trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản nhất của áp dụng
pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, đó là:
1
2
- Thứ nhất, áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE là hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước, đúng quy định pháp luật và phù hợp với các chủ trương, chính
sách pháp luật khác của Nhà nước. Bởi vì, các hoạt động này do chủ thể có thẩm
quyền tiến hành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được Nhà nước giao. Cụ thể, do
các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA) tiến hành, thực hiện các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử.
Trong một số trường hợp cụ thể, hoạt động áp dụng PLHS đối với các tội
XPTDTE không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật hình sự mà có
thể được tiến hành theo ý chí đơn phương của chủ thể áp dụng. Ví dụ: mọi hành vi
giao cấu với người dưới 13 tuổi đều phạm vào tội hiếp dâm trẻ em (Điều 142 BLHS
năm 2015, trước đây là Điều 112 BLHS năm 1999) [15, tr 108; 16, tr 91]. Đặc điểm
này còn cho thấy, áp dụng PLHS có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
chủ thể có liên quan khác.
- Thứ hai, áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, là hoạt động
phải được tuân thủ nghiêm ngặt theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ. Cụ thể là
các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ đầy đủ những quy định về trình tự, thủ
tục, thẩm quyền đã được pháp luật TTHS quy định.
- Thứ ba, áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE là hoạt động điều chỉnh
mang tính chất cá biệt, cụ thể đối với những quan hệ xã hội nhất định khi có sự kiện
phạm tội trong lĩnh vực xâm hại tình dục trẻ em xảy ra.
- Thứ tư, áp dụng PLHS đòi hỏi tính sáng tạo trong phạm vi quy định của
pháp luật. Gắn liền với đặc điểm thứ ba, áp dụng PLHS đối với các tội XPTDTE là
áp dụng đối với từng tội phạm riêng biệt. Do đó, người áp dụng PLHS phải có kiến
thức, kinh nghiệm, trách nhiệm cao để có thể vận dụng đúng các quy định của pháp
luật tương ứng để định tội danh và áp dụng TNHS đối với từng tội phạm cụ thể.
1
3
1.1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
tình dục trẻ em
Trên cơ sở khoa học pháp lý hình sự, có thể hiểu nội dung của áp dụng PLHS
đối với các tội XPTDTE là những hoạt động nhằm cụ thể hóa, vật chất hóa những
quy định của pháp luật hình sự về các hành vi xâm hại tình dục trẻ em đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể nói một cách khái quát và đơn giản nhất là pháp
luật hình sự quy định về hành vi xâm hại tình dục trẻ em như thế nào thì việc áp
dụng PLHS sẽ cá biệt hóa những quy định đó bằng những tội danh cụ thể và đối với
chủ thể cụ thể. Nhìn chung, về mặt lý luận và thực tiễn và với bản chất vốn có của
nó, thì nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE đặt ra là giải
quyết hai vấn đề: tội phạm và hình phạt. Hai vấn đề này khi được chuyển hóa vào
thực tế áp dụng pháp luật hình sự đối với nhóm hành vi này, chính là định tội danh
cho từng trường hợp xâm hại tình dục trẻ em cụ thể và quyết định hình phạt tương
xứng đối với các tội phạm này. Đây chính là 02 nội dung cơ bản của áp dụng PLHS
đối với tội phạm nói chung, đối với các tội XPTDTE nói riêng. Ngoài ra, áp dụng
PLHS còn bao hàm cả việc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm mức
hình phạt đã tuyên...Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, tác giả luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu 02 (hai) nội dung cơ bản của áp dụng PLHS đối với các
tội nói trên là định tội danh và quyết định hình phạt.
- Định tội danh là một trong những nội dung cơ bản của áp dụng pháp luật
hình sự đối với các tội XPTDTE. Đây là việc chủ thể áp dụng pháp luật (CQĐT,
VKS, TA) “xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có phù hợp với mô
hình pháp lý, tức cấu thành tội phạm của một tội nào đó” [35; 46, tr 10] trong các tội
XPTDTE hay không. Trách nhiệm xác định có tội hay không có tội là hoạt động của
Tòa án nhưng không có nghĩa định tội danh chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử, việc
định tội danh đúng trong quá trình điều tra và truy tố sẽ giúp việc xét xử được chính
1
4
xác và giản đơn, nhanh chóng hơn. Vì vậy, định tội danh là hoạt động diễn ra trong
tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự.
Định tội danh các tội XPTDTE có bản chất pháp lý là quá trình chuyển hóa nội
dung quy định tội phạm của BLHS bằng cách xác nhận sự đồng nhất, đầy đủ và
chính xác giữa hành vi xâm phạm tình dục trẻ em cụ thể đã được thực hiện trong
thực tế với các dấu hiệu của một CTTP cụ thể tương ứng được quy định trong Phần
các tội phạm của BLHS và trong những trường hợp cần thiết phải xác định sự phù
hợp với các quy định trong Phần chung của BLHS. Nói cách khác định tội danh là
một hoạt động thực tiễn, tức áp dụng PLHS.
- Quyết định hình phạt đối với các tội XPTDTE là một giai đoạn quan trọng
trong hoạt động áp dụng pháp luật đối với các tội XPTDTE do Tòa án thực hiện. Đây
là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong
các Điều luật cụ thể đối với các tội XPTDTE trong BLHS, tương ứng với một tội
phạm cụ thể đối với người phạm tội đã thực hiện trong thực tế và thể hiện trong bản
án.
Quyết định hình phạt đối với các tội XPTDTE cũng là việc chuyển hóa nội
dung quy định của PLHS về hình phạt vào việc xét xử những vụ án xâm hại tình dục
trẻ em nên cơ sở pháp lý của hoạt động này là BLHS, chỉ có BLHS mới có quy định
về tội phạm và hình phạt. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử, nhiều lúc các Cơ quan tiến
hành tố tụng cũng phải vận dụng các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm
quyền liên quan đến vấn đề quyết định hình phạt cũng như liên quan đến định tội
danh nhằm hướng dẫn việc áp dụng những quy định về tội phạm và hình phạt của
BLHS cho phù hợp với mục đích đấu tranh phòng ngừa tội phạm ở những giai đoạn
cụ thể nhất định.
Như vậy, định tội danh và quyết định hình phạt là hai nội dung cơ bản nhất của
áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, đây là hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (của các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm CQĐT, VKS,
1
5
TA), để chuyển hóa những vấn đề quy định về tội phạm, hình phạt và những quy
định liên quan của BLHS về các hành vi xâm hại tình dục trẻ em thành những quyền
và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể là đối tượng bị áp dụng PLHS. Bản chất pháp lý
của nó là áp dụng những quy định về tội phạm và hình phạt của BLHS để định tính
một hành vi xâm hại tình dục trẻ em là nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế
có CTTP hay không và định lượng trách nhiệm pháp lý đối với người thực hiện tội
phạm.
Qua các phân tích trên cho thấy, định tội danh và quyết định hình phạt đối với
các tội phạm nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội
XPTDTE nói riêng, có bản chất là hoạt động áp dụng pháp luật và luật được áp dụng
ở đây là luật nội dung- luật hình sự. Mặc dù, “trong lý luận hình sự, việc áp dụng
các quy phạm PLHS nói chung được hiểu là một quá trình được tiến hành qua các
giai đoạn nhất định như: giải thích PLHS, xác định hiệu lực của văn bản pháp luật
về không gian và thời gian, định tội danh, quyết định hình phạt, xóa án ích... " [11, tr
39]. Song, nhìn từ khía cạnh bản chất của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, luật
được áp dụng có thể kết luận rằng, xét đến cùng việc định tội danh và quyết định
hình phạt trong áp dụng PLHS đối với các tội phạm nói chung, tội XPTDTE nói
riêng là các nội dung cơ bản nhất. Những hoạt động khác chỉ nhằm mục đích làm
sáng tỏ hoặc hỗ trợ hai nội dung này.
1.2. Cơ sở pháp lý của áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.2.1.1. Các quy định thuộc Phần chung của BLHS
Xuất phát từ đặc điểm “chỉ người nào (pháp nhân thương mại nào) phạm một
tội được quy định trong BLHS mới phải chịu TNHS” (Điều 2 Bộ luật hình sự năm
2015; trước đây cũng quy định tại Điều 2 BLHS năm 1999) [15, tr 47; 16, tr 6] và
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có
1
6
năng lực TNHS...thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”... (Điều 8 Bộ luật hình sự năm
2015; trước đây cũng quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999) [15, tr 51; 16, tr 11] nên
cơ sở pháp lý của định tội danh các tội XPTDTE, từ bản chất của nó phải dựa vào
BLHS là bước đầu tiên và quan trọng nhất để định tội danh chính xác hành vi phạm
tội mà người phạm tội đã thực hiện.
Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội XPTDTE như đã nhấn mạnh không chỉ
đơn thuần nằm ở nội dung của các điều luật quy định về tội phạm cụ thể mà còn bao
hàm cả các quy định thuộc phần chung của Bộ luật hình sự, vì mỗi mô hình về tội
phạm cụ thể của PLHS thường không phản ánh đầy đủ các đặc điểm, dấu hiệu của tội
phạm. Về mặt cấu trúc, các tội phạm được quy định trong Phần các tội phạm của
BLHS chỉ là sự mô tả những dấu hiệu về khách thể và mặt khách quan của tội phạm
(mô tả hành vi và quan hệ xã hội bị xâm phạm). Những dấu hiệu về chủ thể và mặt
chủ quan như lỗi hay năng lực chịu TNHS... của người phạm tội nói chung, phạm tội
XPTDTE nói riêng thường ít được quy định cụ thể mà mặc nhiên coi đây như là hệ
quả đương nhiên của hành vi phạm tội. Do đó, nếu chỉ căn cứ vào tội phạm cụ thể
được quy định ở Phần tội phạm trong BLHS khi áp dụng PLHS để định tội danh là
không đầy đủ, dễ mắc sai lầm. Mặc khác, trong thực tiễn áp dụng PLHS nói chung,
áp dụng PLHS đối với tội phạm về XPTDTE nói riêng, tội phạm có thể được thực
hiện chỉ một người hoặc do nhiều người cùng cố ý (chế định đồng phạm quy định tại
Điều 17 BLHS năm 2015; trước đây là Điều 20 BLHS năm 1999) hoặc các tội phạm
thực hiện cố ý nhưng không thực hiện tội phạm đến cùng vì nhận thức hoặc có lý do
khách quan nào đó (chế định chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 14; phạm tội chưa
đạt quy định tại Điều 15; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội quy định tại Điều
16 BLHS năm 2015; trước đây quy định tại các Điều 17, Điều 18 và Điều 19 BLHS
năm 1999). Trong các trường hợp này việc áp dụng PLHS để định tội danh các tội
XPTDTE phải căn cứ vào Phần chung của BLHS.
1
7
Như đã phân tích ở trên về các nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với
các tội XPTDTE, về mặt cấu trúc tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố: khách
thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm, vốn được gọi là bốn yếu tố
của cấu thành tội phạm. “Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có
tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự” [20, tr 55].
Cấu thành tội phạm được coi là mô hình pháp lý, là sự mô tả khái quát loại tội phạm
nhất định. Cũng như bất kỳ loại tội phạm nào, các tội XPTDTE cũng được hình
thành bởi bốn yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội
phạm. Việc nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của cấu thành các tội XPTDTE có ý
nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý của loại tội này, cho phép
xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đồng thời
cho phép phân biệt giữa các tội phạm này và tội phạm khác. Bởi vậy, cấu thành tội
phạm được dùng làm cơ sở pháp lý cho việc định tội danh và truy cứu trách nhiệm
hình sự cũng như làm tiền đề cho việc áp dụng pháp luật khi quyết định hình phạt.
Cũng bởi vậy, để định tội danh đúng cần làm sáng tỏ cấu thành các tội XPTDTE,
theo đó:
- Khách thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: là quyền bất khả xâm phạm
về tính mạng, sức khỏe, tình dục, nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Mặt khác, hành vi
này còn xâm hại đến sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em và gây
ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Cũng như các hành vi phạm tội khác, để
xâm phạm đến các khách thể của các tội XPTDTE, thì người phạm tội cũng phải tác
động đến con người cụ thể (đối tượng vật chất), đối tượng tác động của các tội
XPTDTE là con người mà cụ thể là người dưới 16 tuổi.
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: Cũng như các loại tội
phạm khác, mặt khách quan của tội phạm XPTDTE là những biểu hiện bên ngoài của
tội phạm, bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi khách
1
8
quan được phản ảnh hầu hết trong mọi cấu thành cơ bản của tội phạm. Hành vi nguy
hiểm cho xã hội là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện ra bên ngoài thế
giới quan dưới hình thức hành động hoặc không hành động xâm phạm hoặc đe dọa
xâm phạm một cách trái pháp luật đến những quan hệ xã hội (ở đây là khách thể tội
phạm XPTDTE) được PLHS bảo vệ. Còn hậu quả nguy hiểm cho xã hội là những
thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc thiệt hại khác (ở đây là sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm trẻ em).
- Chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: Là con người cụ thể đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật
định...thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Như vậy, chỉ những người có đủ các điều
kiện sau mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm, đó là: một người cụ thể, đang
sống; có năng lực trách nhiệm hình sự; đạt đến một độ tuổi theo luật định và không ở
vào tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (quy định tại Điều 12 và Điều
21 BLHS 2015; trước đây quy định tại Điều 12 và Điều 13 BLHS năm 1999). BLHS
năm 2015, quy định chủ thể của tội phạm là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại,
nhưng căn cứ theo giới hạn đề tài luận văn mà tác giả nghiên cứu hướng tới và theo
quy định của BLHS năm 2015, thì chủ thể của các tội phạm này chỉ là cá nhân.
Từ bản chất chung của tội phạm thì chủ thể của các tội phạm XPTDTE cũng
phải đảm bảo đầy đủ các dấu hiệu chung của chủ thể tội phạm. Tuy nhiên, trong một
số tội phạm cụ thể của nhóm tội phạm này, đòi hỏi dấu hiệu phải có thêm dấu hiệu
khác (chủ thể đặc biệt). Ví dụ: Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (quy định tại Điều 145 BLHS 2015; trước
đây quy định tại Điều 115 BLHS năm 1999); tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
(quy định tại Điều 146 BLHS 2015; trước đây quy định tại Điều 116 BLHS năm
1999) và tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (quy định tại Điều
147 BLHS 2015- điều luật mới bổ sung so với BLHS năm 1999) thì đòi hỏi chủ thể
phải là người từ đủ 18 trở lên
1
9
- Mặt chủ quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em: Khoa học pháp lý hình
sự chỉ ra rằng, tội phạm là một thể thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan.
Nếu như mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ
quan là hoạt động, thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội. Với ý nghĩa là một mặt
của hiện tượng thống nhất giữa các yếu tố cấu thành tội phạm, mặt chủ quan của tội
phạm không tồn tại một cách độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội
phạm. Nói cách khác, hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn gắn liền
với biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục
đích và động cơ phạm tội. Trong đó, lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP, còn
động cơ, mục đích phạm tội chỉ là dấu hiệu bắt buộc trong một số CTTP cơ bản, đôi
khi có thể là dấu hiệu định khung.
Nghiên cứu Phần chung của BLHS (quy định tại Điều 10 BLHS năm 2015;
trước đây quy định tại Điều 9 BLHS năm 1999) và nhóm tội phạm XPTDTE trong
BLHS cho thấy, chủ thể của các tội phạm luôn thực hiện với lỗi cố ý. Bởi vì, về lý
trí, người xâm hại tình dục trẻ em nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi trên cơ sở nhận biết đối tượng sẽ xâm hại là quyền bất khả xâm phạm tình
dục của trẻ em, nhận biết tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội... sẽ gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tình dục, danh dự, nhân phẩm trẻ em. Về ý chí,
người phạm tội mong muốn thỏa mãn cho được tình dục của bản thân. Trong một số
trường hợp người phạm tội bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó, lỗi của người thực
hiện hành vi xâm hại tình dục trẻ em là cố ý, không thể có trường hợp vô ý.
Đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em, động cơ và mục đích thường không
được quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt (ngoại trừ tội sử dụng
người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm, quy định tại Điều 147 BLHS 2015- đây
là điều luật mới quy định về tội phạm mới ở nhóm tội này) nhưng có ý nghĩa trong
việc xác định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mặt khác cũng đánh giá mức độ
2
0
lỗi. Vì thể, chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Trong các tội
XPTDTE, động cơ và mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục tuy không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm nhưng cũng cần phải được làm rõ.
Như vậy, cơ sở pháp lý của áp dụng pháp luật hình sự để định tội danh các tội
XPTDTE, trước hết nằm ở các quy định thuộc Phần chung của BLHS, vì mô hình
pháp lý về các tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm cụ thể chỉ mô
tả hành vi của người trực tiếp thực hiện tội phạm và tội phạm họ thực hiện ở giai
đoạn hoàn thành chứ không mô tả các chế định liên quan khác phục vụ cho việc định
tội danh như: tuổi chịu TNHS, năng lực TNHS, TNHS và các giai đoạn thực hiện tội
phạm, đồng phạm, phạm nhiều tội...Tóm lại, các quy định trong Phần chung của
BLHS có tính chất định hướng, đảm bảo cho hoạt động áp dụng PLHS để định tội
danh đối với các tội phạm được quy định trong Phần các tội phạm được đúng đắn.
1.2.1.2.
Các quy định thuộc Phần các tội phạm của BLHS
Kế thừa và phát triển Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm
2015 cụ thể hóa tại các Điều 142- Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Điều
144- Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 145- Tội
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 146- Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi;
Điều 329- Tội mua dâm người dưới 18 tuổi và bổ sung mới Điều 147- Tội
sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm; Các tội danh được
khái niệm, cụ thể hóa và mở rộng khái niệm “giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác” nhằm phù hợp với thực tiễn áp dụng
PLHS, vì theo quy định của BLHS năm 1999 và theo quan điểm áp dụng
PLHS trước đây thì nếu những trẻ em là nam giới bị giao cấu trái ý muốn
thì chỉ có thể xử lý được về hành vi “dâm ô với trẻ em” hoặc “làm nhục
người khác”, điều này cũng có nghĩa chủ thể thực hành của tội hiếp dâm
nói chung, hiếp dâm trẻ em nói riêng chỉ có thể là nam giới và nạn nhân
chỉ có thể là nữ giới, theo quan điểm này trẻ em là nam giới không được
bảo vệ đầy đủ. Thực tiễn cuộc sống và áp dụng PLHS cho thấy, hành vi
giao cấu không chỉ giữa nam với nữ theo truyền thống, bản năng tính
giao mà còn có cả nam với nam hoặc nữ với nữ, vì vậy sự điều chỉnh này
trong BLHS năm 2015 là đúng đắn và phù hợp. Tuy nhiên trong thực tế áp
2
1
dụng PLHS thì chế định “giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”
chưa rõ ràng và cần có văn bản hướng dẫn cụ thể của các cơ quan chức năng để áp
dụng đúng đắn và có hiệu quả. Ngoài ra, khái niệm, cụ thể hóa lại một số quy định
như “người đã thành niên” được thay bằng “người đủ 18 tuổi trở lên”; “nhiều người,
nhiều lần” được thay bằng “từ 02 trở lên”.... để đảm bảo tính thống nhất trong cách
hiểu và quá trình áp dụng pháp luật.
Để có thể định tội danh đúng các tội cụ thể XPTDTE, ngoài những điều đã
phân tích tại tiểu mục 1.2.1.1 trên đây, cần tập trung phân tích nội dung của các cấu
thành tội cụ thể XPTDTE được quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
- Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 của BLHS năm
2015. Đây không phải là tội mới mà kế thừa Điều 112 của BLHS năm 1999. Tuy
nhiên, Điều 142 BLHS năm 2015, mô tả cụ thể hơn khái niệm về hiếp dâm trẻ em, cụ
thể “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được
của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ” hoặc
“giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi”
[16, tr 91].
Do đó, khi áp dụng PLHS định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, ngoài
việc đảm bảo các quy định tại Phần chung của BLHS năm 2015, thì phải hội đủ các
dấu hiệu riêng thuộc về bản chất tội phạm cụ thể, như sau:
* Khách thể của tội phạm: là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức
khỏe, tình dục, nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Mặt khác, hành vi này còn xâm hại
đến sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em và gây ảnh hưởng xấu
đến trật tự an toàn xã hội.
* Mặt khách quan của tội phạm: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi chia
làm hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
19
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ
đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ; trường hợp thứ hai, là giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi, ở trường hợp này thì
dù có dùng hoặc không dùng hành vi, thủ đoạn như đối với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi đều CTTP hiếp dâm người dưới 16 tuổi, quy định này nhằm bảo vệ
người dưới 13 tuổi là đối tượng yếu thế, chưa đủ khả năng nhận thức để tự bảo vệ
mình.
Hành vi dùng vũ lực ở tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi cũng tương tự như ở
một số tội phạm khác nhưng hành vi dùng vũ lực ở đây là nhằm giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi (người bị tấn công), hành
vi thông thường đó là: đánh, vật lộn, xô đẩy, giữ chân tay, bóp cổ, trói, xé quần
áo...nhằm làm tê liệt sự kháng cự của bị hại để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác. Thực tế áp dụng PLHS cho thấy, có trường hợp nạn nhân bị bất
tỉnh do hành vi dùng vũ lực nhưng người phạm tội vẫn thực hiện hành vi giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đến cùng dẫn đến nạn nhân chết thì
ngoài việc áp dụng Điều 142, cần áp dụng thêm Điều 123 BLHS năm 2015 để truy
cứu TNHS đối với người phạm tội do ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực, là hành vi dùng lời nói hoặc hành động uy hiếp
tinh thần người dưới 16 tuổi, như: dọa giết, dọa đánh, dọa tạt a xít, dọa bắn... làm
cho người bị hại sợ hãi, tê liệt ý thức tạm thời để giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ. Tuy nhiên, hành vi đe dọa này phải
đến mức đủ mạnh, đủ trấn áp tinh thần, làm tê liệt ý chí kháng cự của người bị hại để
thực hiện được hành vi xâm hại.
Hành vi lợi dụng tinh thần không thể tự vệ được của nạn nhân, là trường hợp
nạn nhân không có khả năng chống trả khi bị người khác giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác là do yếu tố khách quan, như: người dưới 16 tuổi đang
23
trong tình trạng được gây mê trước khi phẫu thuật, bị ngất xỉu không do người phạm
tội tác động. Tuy nhiên, cũng có trường hợp do chính người phạm tội tạo ra để thực
hiện hành vi xâm hại tình dục, như: lén lút bỏ thuốc mê vào ly nước cho bị hại
uống...
Hành vi dùng thủ đoạn khác, là chế định mở nhằm phục vụ cho việc áp dụng
PLHS trong thực tế, do thực tiễn cuộc sống có nhiều hành vi với những thủ đoạn tinh
vi mà nếu không nhận biết được sẽ bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng chế định
này để “nhận dạng” tội phạm, áp dụng chính xác PLHS cần lưu ý, đánh giá các thủ
đoạn này phải là những thủ đoạn đưa người dưới 16 tuổi vào tình trạng không làm
chủ được bản thân, không nhận thức được họ sẽ trở thành nạn nhân bị xâm hại tình
dục, như: lén lút bỏ thuốc kích dục vào ly nước, lợi dụng sự thiếu hiểu biết về tâm,
sinh lý của người dưới 16 tuổi về y khoa, thẩm mỹ
để xâm hại.
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ, là dấu hiệu hết sức quan trọng trong áp
dụng PLHS. Bởi vì, để định tội danh hiếp dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
thì ý thức chủ quan của người bị hại là hết sức quan trọng. Do đó, phải đánh giá tổng
hợp, toàn diện nội dung vụ án, sử dụng nhiều yếu tố khác để xác định ý thức chủ
quan (thể hiện qua lời khai, hiện trường, vật chứng..) của bị hại và chỉ khi nào chứng
minh được việc giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý
muốn của người bị hại, thì mới định đúng tội danh này, còn không chứng minh được
thì áp dụng tội danh khác cho phù hợp (Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc tội mua dâm người dưới 18
tuổi).
Dấu hiệu trái ý muốn của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là dấu hiệu bắt
buộc của CTTP tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, dấu hiệu này chỉ có ý
nghĩa trong trường hợp người bị xâm hại là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
còn nếu người bị hại chưa đủ 13 tuổi thì dù có trái ý muốn hoặc có sự đồng thuận từ
24
họ, người có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người dưới 13 tuổi đều bị truy cứu TNHS về tội này, vì ở độ tuổi dưới 13 trẻ em
chưa có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị lôi kéo, rủ rê, mua chuộc nên cần
được bảo vệ một cách đặc biệt nhằm đảm bảo sự phát triển tâm, sinh lý bình thường
của trẻ, do đó mọi hành vi xâm hại tình dục trẻ em dưới 13 tuổi cần bị trừng trị
nghiêm khắc.
Một vấn đề quan trọng đặt ra là giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người dưới 16 tuổi, là một trong những hành vi khách quan của tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên trường hợp người phạm tội mới có hành vi dùng
vũ lực nhằm giao cấu nhưng chưa giao cấu được (chưa thực hiện được hết hành vihậu quả chưa xảy ra) thì việc áp dụng PLHS đặt ra trong trường hợp này như thế
nào. Quan điểm của tác giả luận văn là vẫn phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
trường hợp này là hiếp dâm chưa đạt. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là tội có
CTTP vật chất, nội hàm điều luật đã thể hiện, hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi là dấu hiệu khách quan bắt buộc của
CTTP này, cụ thể “người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
trái với ý muốn của họ ” hoặc “giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người dưới 13 tuổi” [16, tr 91]. Cho thấy, giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác là hành vi, đồng thời cũng là hậu quả xảy ra của CTTP tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi, ở đây hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác không là nguyên nhân của hậu quả bị giao cấu hoặc bị thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác mà hậu quả bị giao cấu hoặc bị thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác là kết quả của hành vi dùng vũ lực nhằm giao cấu hoặc thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác.
25