Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.98 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG THIÊN AN

TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN....................................5
1.1 Những vấn đề lý luận về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.............5
1.2.

Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý

làm hư
hỏng tài sản từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015.........14


1.3.

Khái quát quy định của pháp luật hình sự một số nước trên Thế giới về

tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.........................................................................32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI HỦY HOẠI
HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH
ĐỒNG NAI...............................................................................................................39
2.1 Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản......................................................................................................................39
2.2.

Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại hoặc

cố ý làm
hư hỏng tài sản tại tỉnh Đồng Nai............................................................................41
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI
SẢN TRONG XÉT XỬ..........................................................................................63


3.1.

Các yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội hủy hoại hoặc

cố ý
làm hư hỏng tài sản.................................................................................................63
3.2.


Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự năm

2015
trong xét xử.............................................................................................................67
KẾT LUẬN.............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự : Tòa án nhân dân : Thành
TAND
phố Hồ Chí Minh
TP.HCM


Bảng 2.1. Hình sự sơ thẩm (Thuộc thẩm quyền cấp tỉnh)
Bảng 2.2. Hình sự phúc thẩm
Bảng 2.3. Hình sự sơ thẩm (Thuộc thẩm quyền cấp huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách pháp luật phục vụ công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện tốt chủ trương trên, trong thời gian
ngắn, Bộ Chính trị đã ban hành hai Nghị quyết 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam định hướng đến 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp, mục tiêu chung là

nhằm hướng đến việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật tiến tới xây dựng thành công mô hình nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực tế chúng ta đã và đang triển khai nhiều biện pháp cấp bách, tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nằm trong nhóm các tội xâm phạm quyền sở hữu, là hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này không chỉ phương hại trực tiếp đến tài sản của cá nhân, tổ chức mà còn trực
tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Hậu quả của các hành vi xâm phạm sở hữu này gây ra vô cùng to lớn,
gây bức xúc trong nhân dân. Trong khi công tác xây dựng pháp luật hình sự, đấu tranh phòng, chống tội phạm có
nhiều chuyển biến tích cực, thì tình hình tội phạm đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ở nước ta
hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, đa dạng, thậm chí xác định xử lý khó khăn.Vì thế chúng
ta cần phải nghiên cứu những vấn đề liên quan đến loại tội phạm này diễn biến trên thực tế, từ đó xây dựng được
chính sách hình sự phù hợp, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về cơ bản và lâu
dài. Đó là công cụ sắc bén của Nhà nước để bảo vệ an ninh trật tự xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, chống các hành vi xâm phạm quyền sở hữu, giáo dục mọi người ý thức tôn trọng và tuân theo pháp luật, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Do đó, việc nghiên cứu loại tội phạm này là điều cần thiết và hết sức cấp bách hiện nay và đó là lý do tôi
chọn đề tài nghiên cứu về “ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản - tội phạm nằm trong nhóm các tội xâm phạm sở
hữu, là nghiên cứu về những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội và diễn biến phức tạp. Nội dung này đã được
một số nhà nghiên cứu luật học đề cập trong các sách chuyên khảo, luận văn và khóa luận tốt nghiệp.

1


Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài luận văn,
đó là:

- Giáo trình luật hình sự Việt Nam , Đại học luật Hà Nội (2011), Nhà xuất bản Công an nhân dân; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm xâm phạm sở hữu) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nhà

xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội (2002), Giáo trình sau đại học về luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm của
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (2014), Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà nội...
Tuy nhiên, hiện nay công trình nghiên cứu chuyên sâu đầy đủ riêng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản vẫn chưa nhiều. Nhất là vẫn chưa có công trình nghiên cứu về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản từ thực tiễn khoanh vùng một địa phương cụ thể. Do đó luận văn này sẽ đóng góp phần nào về việc nghiên
cứu lý luận cũng như thực tiễn đối với các hành vi cụ thể quy định trong Bộ luật hình sự đối với tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản trên thực tiễn địa bàn tỉnh Đồng Nai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực
tiễn đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam và các giải pháp bảo đảm
áp dụng đúng trong xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là :
- Nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam, cụ thể là làm rõ về khái niệm, dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản;
- Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và nghiên cứu
thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ở hai cấp xét xử (Tòa án nhân dân các huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai);
- Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và các giải pháp
bảo đảm áp dụng đúng trong xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


2


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đối với tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trên cơ sở Bộ luật hình sự
năm 1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009, Bộ luật hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu khái niệm, dấu hiệu pháp lý và hình phạt đối với tội hủy hoại hoặc cố ý

làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 và tại Điều 178 Bộ luật hình sự 2015 từ thực
tiễn xét xử của tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Một số phương pháp cụ thể như: Phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên
những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cấp Tòa án. Phương pháp so sánh pháp luật
để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. Đề
tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định
hướng của Đảng về chính sách hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình
sự Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả
khi áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành xử lý đối với các hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản. Đồng thời qua đó tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng, hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về

khoa học luật hình sự, cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các sinh viên chuyên ngành luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lập pháp hình sự Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản
3


Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực
tiễn thi hành tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản trong xét xử
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI
HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
1.1 Những vấn đề lý luận về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1.1.1

Khái niệm

Tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, vì vậy khái niệm tội hủy
hoại hoặc làm hư hỏng tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa
mãn các các dấu hiệu đặc thù nói riêng.
Khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến
quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân.
Như vậy khái niệm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi có lỗi gây thiệt hại cho quan hệ
sở hữu và sự thiệt hại này phải phản ánh đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và cụ
thể hành vi này là hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.

Hành vi hủy hoại tài sản là hành vi làm mất hoàn toàn giá trị sử dụng của tài sản không thể khôi phục lại
được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn. Hành vi làm hư hỏng tài sản là hành vi làm giảm đáng kể giá
trị sử dụng của tài sản và giá trị sử dụng bị giảm đó có thể khôi phục được (có thể khôi phục lại như cũ, nhưng có
thể chỉ khôi phục lại được một phần).
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xâm hại quan hệ sở hữu và sự thiệt hại này phải phản ánh được
đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc
đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ trong các tội xâm phạm sở hữu chủ yếu là quan hệ tài sản, ngoài ra còn có các quan hệ khác như trật tự an
ninh, an toàn xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa, nhưng quan hệ về tài sản là quan hệ chủ yếu và là đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu nói
chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng.
4


Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm,
dấu hiệu này được coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị
quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã
gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, tính chất
quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến
mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh
ở hai đại lượng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt
hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính
chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy theo từng loại
thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh
giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm
"đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Bộ luật
hình sự qui định Tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản do nó đã xâm hại đến sở hữu của nhà nước, tập thể, cá
nhân là quan hệ xã hội được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài
sản của người khác, không những tội phạm xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự phát triển của các hoạt

động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm hại đến trật tự an toàn xã hội.
Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm
đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Đây là tội phạm gồm hai hành vi độc lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà
làm luật quy định chung trong cùng một điều luật. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội
hủy hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư hỏng tài sản. Nếu người phạm tội có cả hai hành vi hủy hoại và cố ý làm hư
hỏng tài sản thì phải định tội là hủy hoại và tội cố ý làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản.
Tóm lại, từ phân tích căn cứ tội phạm ta có thể đưa ra khái niệm “ tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố
ý xâm phạm đến tài sản của người khác (bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng) có giá trị do Bộ luật hình sự quy định”.
1.1.2.

1.1.2.1.

Các dấu hiệu pháp lý

Khách thể của tội phạm

Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xâm hại quan hệ sở hữu. Đối tượng của tội phạm này là tài sản.
5


Tài sản theo quy định của pháp luật dân sự bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các
quyền về tài sản.
Tuy nhiên khi xác định tài sản là đối tượng tác động của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cần
lưu ý:
- Một số loại tài sản là các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia lại không phải là đối
tượng tác động của tội này;
- Vật khi không còn là tài sản vì đã bị chủ tài sản hủy bỏ cũng sẽ không còn là đối tượng tác động của tội
phạm này;

- Tiền luôn có thể là đối tượng tác động của tội phạm này;
- Giấy tờ trị giá được bằng tiền có thể là phương tiện phạm tội giúp người phạm tội có thể xâm phạm sở
hữu. Trong một số trường hợp giấy tờ này có thể là đối tượng tác động của tội phạm này;
- Quyền về tài sản không thể là đối tượng của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Nhưng những
giấy tờ thể hiện quyền về tài sản như hóa đơn lãnh hàng v.v.. có thể là đối tượng tác động của tội phạm này trong
một số trường hợp nhất định.
Tài sản được pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng bảo vệ, về nguyên tắc phải là tài sản hợp
pháp. Tuy nhiên những hành vi xâm phạm tài sản khác, dù tài sản đó là bất hợp pháp, vẫn bị coi là trái pháp luật
có thể cấu thành tội phạm và xử lý về mặt hình sự. Điều này hoàn toàn cần thiết nhằm đảm bảo trật tự chung của
xã hội.
Như vậy, khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất
chiếm đoạt khác, nhưng tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà
chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì
vậy, nếu hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội đã gây ra hậu quả nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nếu hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhằm mục đích xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người thì hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trở thành thủ
đoạn của hành vi giết người hoặc cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
1.1.2.2.

Mặt khách quan của tội phạm
6


Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là tội có cấu thành tội phạm vật chất. Về mặt khách quan, cấu
thành tội phạm tội này có ba dấu hiệu:
- Hành vi khách quan của tội này là hành vi hủy hoại tài sản hoặc hành vi làm hư hỏng tài sản.
Hủy hoại tài sản là hành vi làm mất hoàn toàn giá trị sử dụng của tài sản không thể khôi phục lại được và
như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn.


Hành vi làm hư hỏng tài sản là hành vi làm giảm giá trị sử dụng của tài sản và giá trị ban đầu của tài sản
có thể khôi phục lại được (có thể khôi phục lại như cũ, nhưng có thể chỉ khôi phục lại được một phần).
Hành vi hủy hoại hoặc hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác có thể được thực hiện bằng bất kỳ
phương pháp nào, có thể là hành động như đập phá, đốt v.v. hoặc không hành động. Hành vi hủy hoại có thể được
thực hiện bằng phương pháp và với phương tiện hoặc công cụ phạm tội khác nhau. Người phạm tội có thể đập
phá tài sản bằng tay không hoặc có công cụ phạm tội. Họ có thể hủy hoại tài sản bằng thuốc nổ hoặc thuốc độc,
bằng hóa chất hoặc bằng cách đốt cháy. Hình thức hành vi phạm tội (hành động hay không hành động) cũng như
phương pháp, phương tiện hay công cụ phạm tội không có ý nghĩa về mặt định tội mà chỉ có thể có ý nghĩa đối
với việc quyết định hình phạt. Cụ thể, một số phương pháp hay phương tiện phạm tội được quy định là tình tiết
định khung tăng nặng của tội này.
Như vậy, hai hành vi nói trên được thực hiện dưới dạnh hành động hoặc không hành động với lỗi cố ý.
Khi xác định hành vi khách quan của tội phạm này cần chú ý: do tính chất đặc biệt nên một số loại tài sản
(công trình quan trọng về an ninh quốc gia, tài nguyên rừng v.v.) không được coi là đối tượng của hành vi hủy
hoại hoặc làm hư hỏng trong nhóm tội xâm phạm sở hữu. Hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng các loại tài sản này
cấu thành tội tương ứng trong các chương khác của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định thì sự phân biệt rạch ròi hành vi hủy hoại với hành vi cố ý làm
hư hỏng tài sản không phải trong trường hợp nào cũng được xác định khác nhau hoàn toàn. Sự khác biệt giữa hủy
hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản chủ yếu căn cứ vào hậu quả của hành vi gây ra đối với tài sản, nếu tài sản bị hư
hỏng hoàn toàn không có khả năng khôi phục thì coi là hủy hoại, nếu tài sản không bị mất hẳn giá trị sử dụng và
có khả năng khôi phục lại toàn bộ hoặc một phần giá trị sử dụng thì coi là cố ý làm hư hỏng tài sản.
Đây là tội phạm gồm hai hành vi độc lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà làm luật quy định chung trong
cùng một điều luật. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội hủy hoại tài sản hay chỉ cố ý
làm hư hỏng tài sản. Nếu người phạm tội có cả hai hành vi hủy hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản thì phải định tội
là hủy hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
7


- Hậu quả của tội phạm:
Cấu thành tội phạm tội này đòi hỏi có hậu quả là tài sản bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng. Tội phạm được

coi là hoàn thành khi hậu quả này đã xảy ra. Khác với tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và tội thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, dấu hiệu hậu quả ở tội này không đòi hỏi phải là
thiệt hại nghiêm trọng. Điều luật đòi hỏi mức độ thiệt hại của hậu quả của tội phạm trong trường hợp bình thường
phải từ 2.000.000 đồng trở lên. Trong các trường hợp khác, hậu quả của tội phạm không đòi hỏi phải ở mức độ
như vậy. Đó là các trường hợp:
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản của người khác mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội này và chưa được xóa án tích.
Trong những trường hợp này thì hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị lớn hay nhỏ đều
có thể thỏa mãn dấu hiệu hậu quả của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu giá trị tài sản bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng
quá nhỏ và do vậy dẫn đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể thì hành vi hủy hoại hoặc làm
hư hỏng tài sản không bị coi là tội phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ Luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Chúng ta cần phải phân biệt trường hợp này với trường hợp phạm tội chưa đạt là trường hợp vì nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội nên hành vi chưa gây ra thiệt hại hoặc mới chỉ gây ra thiệt hại không đáng kể.
Hậu quả của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản bị
hủy hoại hoặc hư hỏng. Giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản là thiệt hại do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng gây ra chứ không phải giá trị hoặc giá trị sử dụng ban đầu của tài sản khi chưa bị hủy hoại hoại hoặc làm hư
hỏng.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây ra là những thiệt hại về thể
chất, tinh thần, nếu là thiệt hại về vật chất thì những thiệt hại này không phải là thiệt hại về tài sản do hành vi hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng trực tiếp gây ra. Như vậy, đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hậu quả
là dấu hiệu bắt buộc nếu chưa có hậu quả xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm này cũng không có giai
đoạn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội. Theo quy định tại khoản 1 điều 143 BLHS 1999 thì thiệt hại phải có
trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm,
mới bị xem là cấu thành tội phạm này.
8



Như vậy, hậu quả của tội phạm này gây ra chủ yếu là thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tài sản là thước đo để
đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
- Quan hệ nhân quả:
Quan hệ nhân quả là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Người có hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại tài sản bị hụy hoại hoặc bị hư hỏng nếu giữa thiệt
hại này và hành vi của họ có quan hệ nhân quả với nhau, nghĩa là thiệt hại đó do chính hành vi của họ gây ra. Việc
xác định quan hệ nhân quả là cần thiết nhằm tránh trường hợp sai lầm khi buộc người không gây ra thiệt hại phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nếu chưa có hậu
quả xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị
phạm tội.
1.1.2.3.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể thường, là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
hình sự quy định.
Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với các tội
xâm phạm sở hữu, đó là: những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có năng lực trách nhiệm hình sự,
đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 143 BLHS năm 1999 với khung
hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (khoản 1 Điều 143) và từ 02 năm đến 07 năm (khoản 2 Điều 143) thì độ tuổi
người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này vì hai khoản
này chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
này quy định tại khoản 3, và khoản 4 của điều luật vì hai khoản này là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999) nhằm đảm bảo tính minh bạch, nhân đạo trong xử
lý đối với đối tượng này theo tinh thần của Hiếp pháp năm 2013 và Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ
em.
Người phạm tội từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo quy định tại
khoản 1 Điều 12 BLHS năm 1999.

Theo quy định của Bộ luật hình sự, thì chủ thể của tội phạm này là những người thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội, có năng lực trách nhiệm hình sự. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
9


nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tiêu chuẩn ( dấu hiệu) để xác định một người không có
năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh (tiêu chuẩn y học) và tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. về

lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hì nh sự khi họ mắc một
trong các bệnh sau: bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm
thời. Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được Hội đồng giám định
tâm thần xác định và kết luận.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). người phạm tội biết hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, có khả năng gây ra hậu quả là hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản nhưng vẫn thực
hiện vì mong muốn tài sản bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng hoặc vì đã có ý thức chấp nhận thiệt hại đó xảy ra để đạt
được mục đích khác của mình.
Đối với tội phạm này, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có lỗi cố ý. Lỗi ở đây là
thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố
ý. Tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm này, là cơ sở để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra.
Cố ý phạm tội là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu
quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi hủy hoại hoặc làm
hư hỏng tài sản của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Bộ luật hình sự quy định rõ hai hình thức lỗi cố ý
phạm tội, tuy không nói rõ đó là lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, nhưng với nội dung quy định như trên chúng
ta cũng hiểu được đó là hai hình thức lỗi : cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của người khác. Ngoài
mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm. Nếu người phạm tội có mục đích khác, còn việc hủy hoại tài sản hoặc làm hư hỏng tài sản chỉ là
phương pháp để đạt được mục đích khác thì không phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà tuỳ
trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng.
Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Người phạm tội có thể có động cơ khác nhau như
thù tức, bất mãn, để che giấu tội phạm v.v.. Việc định tội không đòi hỏi phải xác định động cơ cụ thể. Hành vi hủy
1
0


hoại hoặc làm hư hỏng dù do động cơ nào thúc đẩy cũng đều cấu thành tội phạm. Việc xác định động cơ nhất định
có ý nghĩa trong việc xác định khung hình phạt.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản từ
năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
1.2.1.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985

- Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân non trẻ mới được thành lập phải
đối mặt với nhiều khó khăn, để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật, trong đó có những văn bản pháp luật hình sự quy định về các tội xâm phạm sở hữu công cộng và tội
xâm phạm sở hữu công dân. Bên cạnh những văn bản này, một số văn bản pháp luật của chế độ cũ cũng tạm thời
được áp dụng. Tuy nhiên, do yêu cầu tình hình thực tiễn nên việc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm tuy
được Nhà nước quan tâm trong giai đoạn này song các chính sách hình sự của Nhà nước chủ yếu tập trung đối với
các loại tội phạm xâm hại về an ninh chính trị và các loại tội đặc biệt nghiêm trọng khác như: giết người, cướp
của, hiếp dâm..., đề cao vai trò của chế độ sở hữu tài sản trong đó đặc biệt coi trọng đến sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Một số văn bản pháp luật hình sự quy định đối với hành vi hủy hoại tài sản
như:
- Sắc lệnh số 06-SL (15/1/1946) quy định các hành vi trộm cắp, phá hủy, dây điện thoại, điện tín;

- Sắc lệnh số 26-SL (25/2/1946) quy định những hành vi phá hủy một phần hay toàn thể các cầu cống,
kênh hay sông đào, vận hà, nông giang thuộc công ích, đường xe lửa và các kiến trúc thuộc về xe lửa, cùng các
đường giao thông công hay tư, đường bộ hay đường thủy, đê đập, các công sở hay kho tàng hoặc các nhà máy
điện, máy nước, trộm cắp các dây thép, cột điện, đặt ở những nơi nói trên những cơ giới, khí cụ có thể dùng để
giết người, đốt phá hay tác liệt;

- Sắc lệnh số 68-SL (18/6/1949) quy định những hành vi đào đất, trồng cây, cắm cọc, làm nhà, cho súc vật
dẫm phá gần đê, đập, kênh và cầu cống phụ thuộc, trong một địa phận bảo vệ, do Bộ Giao thông công chính ấn

định; hoặc làm hư hỏng, bằng một cách nào khác, các công trình thủy nông mà gây thiệt hại cho nhân dân nhiều

tỉnh..v.v. Pháp luật giai đoạn này phần lớn quy định đối với các hành vi xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, chủ
yếu quy định về các tội phá hủy công sản nhằm trừng trị những hành vi phá hoại tài sản công cộng;
- Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của
hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch nhà nước.v.v.

1
1


Trong giai đoạn này, không có văn bản nào quy định riêng về tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản mà chỉ
được đề cập trong các văn bản quy định về một nhóm tội cần tập trung trấn áp để bảo vệ chính quyền, công sản và

một số đối tượng đặc biệt nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Tuy nhiên, trong tình hình cấp bách, các
văn bản pháp luật nói chung cũng như văn bản pháp luật hình sự nói riêng mới ban hành không thể đủ điều chỉnh
các quan hệ xã hội đa dạng. Vì thế, ngày 10/10/1945, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL tạm thời giữ lại
các luật lệ cũ không mâu thuẫn với chế độ mới, không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ

cộng hoà. Việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta trong thời gian này đã đáp ứng


được yêu cầu giữ vững chính quyền nhân dân, chuẩn bị cho cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân ta sau này.
Tuy nhiên, việc quy định tội phạm và hình phạt trong nhiều văn bản pháp luật hình sự đã dẫn đến việc khó khăn
trong áp dụng thống nhất pháp luật.
- Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
(1954 -1975): sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Tình hình đó đã hình thành ở nước ta hai miền
Nam - Bắc bị chia cắt có chế độ chính trị và xã hội khác nhau. Ở miền Bắc lúc này đang tiến hành cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, tạo thành hậu phương vững mạnh cho miền Nam tiến hành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Pháp luật hình sự giai đoạn này thực

hiện nhiệm vụ lịch sử được đặt ra cho cả hai miền Bắc Nam. Nhà nước đã tiếp tục ban hành một số văn bản pháp
luật hình sự, một mặt chấm dứt áp dụng luật lệ của chế độ cũ, mặt khác hoàn thiện các quy định về tội phạm và

hình phạt để có cơ sở xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu của Nhà ước và sở hữu của công dân. Chưa có
văn bản pháp luật hình sự nào ghi nhận khái niệm tội phạm và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong
thời kỳ này. Pháp luật hình sự thời kỳ này chủ yếu theo sát tình hình thực tế để phục vụ kịp thời các yêu cầu về
chính trị. Ngày 30/6/1955, Thông tư số 19-VHH của Bộ Tư pháp đã khẳng định việc hoàn toàn xóa bỏ mọi luật lệ
của chế độ cũ. Ngày 15/6/1956, Sắc lệnh số 267-SL ban hành đã quy định hàng loạt hành vi phạm tội bị trừng trị
để bảo vệ sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hoá, chống lại những âm mưu, hành động phá hoại, làm thiệt hại đến
tài sản Nhà nước, tập thể và công dân. Các Pháp lệnh ban hành vào năm 1967 và 1970 quy định một hệ thống các
tội phạm với đầy đủ tên gọi và các dấu hiệu cấu thành tội phạm, trong đó có quy định về hành vi hủy hoại hoặc
làm hư hỏng tài sản. Điều này trước tiên thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Mặt
khác, nó thể hiện sự quyết tâm của Nhà nước ta trong việc trấn áp kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo vệ
cơ sở vật chất và kỹ thuật, bảo vệ nền kinh tế kế hoạch hoá, chống mọi âm mưu và hành động phạm tội.
1
2


- Pháp lệnh số 149-LCT do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày 21/10/1970 về việc trừng trị các
tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa đã quy định về tội phạm xâm phạm sở hữu, trong đó ghi nhận Tội cố ý huỷ

hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 6).
Điều 6. Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Kẻ nào cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Đốt cháy hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;
c) Gây thiệt hại cho an ninh hay là quốc phòng;
d) Gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của nhân dân hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
đ) Để che giấu tội phạm khác;
Thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân
hoặc bị xử tử hình. [34,tr. 1]
- Pháp lệnh số 150-LCT do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày 21/10/1970 về việc trừng trị các
tội xâm phạm tài sản của công dân cũng quy định nhiều hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu công dân, trong đó có
Điều 5 quy định về Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân. Theo đó quy định về tội danh
hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của công dân tương đối cụ thể và chặt chẽ.
Điều 5. Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân.
1. Kẻ nào cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Đốt cháy hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Có lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;
d) Để che giấu tội phạm khác;
Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. [35,tr. 1]
Như vậy, về cơ bản hai tội trên đều có hành vi phạm tội giống nhau đó là hành vi cố ý hủy hoại hoặc làm
hư hỏng tài sản. Với hành vi có cùng tính chất nhưng lại tác động lên đối tượng là hai loại tài sản khác nhau đó là
1
3



tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân nên được quy định thành hai tội phạm khác nhau trong hai pháp
lệnh.
Mặt khác, do tính chất nền kinh tế lúc này là tập trung, bao cấp đối với toàn xã hội, tài sản của Nhà nước

được bảo vệ đặc biệt nên chính sách xử lý đối với tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa
nghiêm khắc hơn ở tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của công dân, ở tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản của công dân có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù trong khi ở tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản xã hội chủ nghĩa có mức hình phạt cao nhất và nghiêm khắc nhất là tử hình.
Nhìn chung, pháp luật hình sự của nước ta trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã có
những bước tiến rất rõ nét xét về kỹ thuật lập pháp. Chúng ta có thể thấy, hàng loạt các khái niệm như lỗi, các giai
đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm...được quy định, các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, xâm phạm
tài sản công dân cũng được quy định cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ.
Pháp luật hình sự ở miền Nam: dù chiến tranh diễn ra ác liệt, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà
miền Nam Việt Nam cũng đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật hình sự tuy nhiên do chiến tranh khốc
liệt nên hoạt động xây dựng pháp luật hình sự rất hạn chế.
- Giai đoạn từ sau khi thống nhất đất nước đến trước khi ban hành bộ luật hình sự 1985 : đặc điểm của
pháp luật hình sự trong thời kỳ này có đặc thù riêng do nước ta về mặt Nhà nước thì vẫn chưa thống nhất, tạm
thời tồn tại hai Nhà nước ở hai miền Bắc, Nam, mỗi Nhà nước có pháp luật riêng. Ở miền Bắc, các văn bản pháp

luật hình sự đã ban hành trước đó vẫn tiếp tục được áp dụng. Ở miền Nam, Nhà nước đã kịp thời ban hành một số
văn bản pháp luật hình sự phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và các tội
phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngày 15/3/1976, Nhà nước Cộng hoà
miền Nam Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự, trong đó có ban hành Sắc luật số 03/SL-76,
quy định về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản nói riêng.
Điều 4: Sắc luật số 03-SL/76, quy định "Tội xâm phạm đến tài sản công cộng” trong đó có quy định ”Tài
sản công cộng bao gồm tài sản của Nhà nước và của Hợp tác xã, của các tổ chức xã hội và của tập thể nhân dân.
Tài sản công cộng là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm”.[10,Tr.1]

Tuy nhiên, so với các Pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật vì muốn bảo đảm yêu cầu ngắn gọn cho nên

chỉ nêu tội danh không miêu tả dấu hiệu của tội phạm. Về cơ bản nội dung của nó thống nhất với hai Pháp lệnh
trừng trị đối với các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân ban hành năm 1970.
Ngày 2/7/1976, Quốc hội chính thức đổi tên nước ta thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật
1
4


được áp dụng chung cho cả nước. Nhà nước mới tiếp tục ban hành một số văn bản nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp
luật hình sự của nước ta.
Nhìn chung, pháp luật hình sự của nước ta trong các giai đoạn này luôn bám sát, phục vụ kịp thời các yêu
cầu, nhiệm vụ chính trị. Sự ra đời của những văn bản pháp luật hình sự là bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình
sự của nước ta, là tiền đề cho việc pháp điển hoá pháp luật hình sự chuẩn bị cho sự cho sự ra đời Bộ luật hình sự
1985.
1.2.2.

Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985

Ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VII đã thông qua toàn văn Bộ luật hình sự, có hiệu lực
kể từ ngày 1/1/1986 (gọi là Bộ luật hình sự năm 1985). Bộ luật hình sự 1985 ra đời dựa trên sự kế thừa và phát
triển những thành tựu của pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám. Đây là

bước ngoặt rất quan trọng trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta. Đây là BLHS Việt Nam đầu tiên và cũng là Bộ
luật đầu tiên của chúng ta được ban hành. Khi BLHS này có hiệu lực thi hành thì cũng là lúc sự nghiệp đổi mới
bắt đầu. Sự thay đổi các mặt của đời sống xã hội, trong đó đổi mới về kinh tế giữ vai trò quan trọng không chỉ là
cơ sở mà còn là đòi hỏi cấp bách đối với sự thay đổi của pháp luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng.
BLHS năm 1985 với ý nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt được xây dựng trên cơ
sở kinh tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn của tình hình tội phạm của thời kì đó. BLHS năm
1985 gồm có hai phần: “phần chung” và “phần các tội phạm”. Trong phần chung của Bộ luật hình sự lần đầu tiên
khái niệm tội phạm và phân loại tội phạm được ghi nhận với hai loại tội phạm là ít nghiêm trọng và nghiêm trọng.
Hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản được ghi nhận trong Chương XII về các tội xâm phạm sở hữu

xã hội chủ nghĩa tại Điều 138 (Tội hủy hoại tài sản xã hội chủ nghĩa) và Chương XIV về các tội xâm phạm sở hữu
của công dân tại Điều 160 (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân).
Về cơ bản hai tội "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa" và tội "Hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng của công dân" vẫn tiếp tục được quy định với nội dung như hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và được
thay đổi phù hợp với tình hình diễn biến mới của tội phạm.[17]
Tội cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa có tính chất gần giống như tội hủy hoại tài sản xã hội chủ
nghĩa, khác nhau ở mức độ làm mất giá trị sử dụng của tài sản. Ở tội hủy hoại hành vi khách quan là hành vi hủy
hoại, hành vi này làm giá trị sử dụng của tài sản bị mất ở mức độ không có hoặc khó có điều kiện khôi phục lại
được, hậu quả là thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa bị hủy hoại; còn ở tội cố ý làm hư hỏng thì hành vi khách quan
là hành vi làm hư hỏng, hành vi này làm giá trị sử dụng của tài sản bị mất ở mức độ còn điều kiện khôi phục lại
1
5


được, hậu quả là thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa bị hư hỏng. Do đó, hai tội này được quy định cùng trong một
điều luật (Điều 138 BLHS năm 1985) và có cùng những khung hình phạt giống nhau. Tương tự tội cố ý làm hư
hỏng tài sản của công dân và tội hủy hoại tài sản của công dân cũng được quy định trong cùng một điều luật với
những khung hình phạt giống nhau (Điều 160 BLHS năm 1985).
Cả hai tội quy định tại Điều 138 và Điều 160 BLHS năm 1985 đều là tội có cấu thành vật chất, là những
hành vi cố ý làm mất giá trị sử dụng của tài sản. Sự khác nhau của hai điều luật này đó là đối tượng tác động của
hành vi phạm tội là hai loại tài sản khác nhau, đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân.
Qua quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự 1985 cùng với sự thay đổi của tình hình kinh tế xã hội, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên về cơ chế quản

lý cũng như việc ban hành các văn bản pháp luật còn nhiều sơ hở, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tội phạm xâm
phạm sở hữu nảy sinh và phát triển với những diễn biến phức tạp trong đó có tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản. Do đó để đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần
vào các năm 1990,1991, 1993 và 1997.
1.2.3.


Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản

Từ năm 1999 đến nay xuất phát từ yêu cầu của xã hội, kinh tế đất nước chuyển sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
để đảm bảo và thực hiện sự bình đẳng của các thành phần kinh tế, chính sách hình sự và pháp luật hình sự cũng
phải thay đổi. Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc Hội thông qua ngày 21/12/1999 có hiệu lực ngày 1/7/2000
đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng.
BLHS năm 1985 đã phân tội phạm thành 2 loại. Sự phân loại này đã phát huy tác dụng là cơ sở cho việc
phân hoá trách nhiệm hình sự trong Bộ luật cũng như trong thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức
tạp của tội phạm trong thực tế đòi hỏi sự phân loại này phải được cụ thể hoá hơn nữa. Trên tinh thần này, BLHS
năm 1999 đã phân tội phạm thành 4 loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Từ sự phân hóa khái niệm tội phạm như vậy đã dẫn đến sự phân hoá
trách nhiệm hình sự trong các chế định khác của Phần chung. Các chế định này trong BLHS năm 1999 có thể
được quy định không khác về hình thức so với trong BLHS năm 1985 nhưng thực ra đã có sự thay đổi về mức độ
phân hoá trách nhiệm hình sự do có sự thay đổi về mức độ phân loại tội phạm. Đó là chế định tuổi chịu trách
1
6


nhiệm hình sự; chế định trách nhiệm hình sự của người có hành vi chuẩn bị phạm tội; chế định thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu, lần đầu tiên được quy
định tại Điều 143 thuộc Chương XIV BLHS năm 1999, trên cơ sở nhập từ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản của công dân quy định tại Điều 160 BLHS năm 1985 và Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội
chủ nghĩa quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1985. Được thiết kế thành 05 khoản, trong đó khoản 1 là
khoản cấu thành cơ bản, khoản 2,3,4 là các khoản tăng nặng và khoản 5 là khoản quy định về hình phạt bổ sung.
So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn quy định tại Điều 138 và nặng
hơn Điều 160 của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này.[18]
Vì vậy, nếu hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-72000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện thì áp dụng Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1985 để xử lý đối

với người phạm tội, ngược lại nếu hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa thì được áp
dụng Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử lý đối với người phạm tội. Việc sáp nhập hai tội thành một là một
đòi hỏi khách quan. Ý nghĩa của việc sáp nhập thể hiện trước hết sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật của các thành phần kinh tế. Nó phù hợp với tâm lý không chỉ của người phạm tội mà của mọi người nói
chung. Theo đó, ý nghĩa của tài sản không phải nó thuộc sở hữu nào mà ở giá trị và giá trị sử dụng. Việc chỉ có
một chương các tội xâm phạm sở hữu cũng như chỉ có một tội danh cụ thể cho một loại hành vi xâm phạm sở hữu
(dù là sở hữu nào) không chỉ thuận lợi cho kĩ thuật lập pháp mà cũng thuận lợi cho việc áp dụng khi không phải
xác định tài sản bị xâm phạm thuộc sở hữu nào, điều mà không phải luôn luôn dễ dàng.
Điều 143 BLHS năm 1999 có nhiều điểm mới. Nếu trước đây người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản bất kỳ có giá trị là bao nhiêu cũng bị coi là tội phạm, thì nay Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định chỉ coi là tội phạm khi tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng có giá trị từ 500.000 đồng trở lên và Bộ luật hình sự
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 nâng mức giá trị tài sản bị hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng lên 2.000.000
đồng cho phù hợp với tình hình thực tế đời sống kinh tế xã hội.
Trường hợp tài sản bị thiệt hại dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, hoặc đã bị kết án về tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chưa được xoá án mà còn vi phạm mới bị coi là tội phạm. Ngoài các tình tiết
định tội, nhà làm luật còn quy định thêm các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Hình phạt bổ sung cũng
được quy định ngay trong cùng điều luật.
1
7


Điều 143 Bộ luật hình sự 1999 quy định 4 khung hình phạt.
- Phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự là trường hợp phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt, đây là cấu thành cơ bản của tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản. Khung hình phạt cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm đối với các trường hợp phạm tội thuộc loại tội ít nghiêm trọng, quy định: “người nào hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc tài
sản trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm (là trường hợp trước khi

thực hiện hành vi tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về
hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử
phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử
phạt hành chính về hành vi khác không phải là hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng thì không thuộc trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự);
- Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm (là trường hợp trước khi thực hiện hành vi
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng

tài sản nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 63 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về
tội phạm khác không phải là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì cũng không thuộc trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình
sự);
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ
cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. Trị giá tài sản bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng là giá
thị trường tự do vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 1
Điều 143 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ
luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54).
Khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung
hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

1
8


Khi quyết định hình phạt, Tòa án cần căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cũng như các căn cứ pháp lý khác để đưa ra hình phạt hợp lý, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết
giảm nhẹ, nhân thân tốt thì có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự,

nếu người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết giảm nhẹ thì tùy từng trường hợp cụ thể có thể áp dụng hình phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm.
- Khoản 2 quy định về các tình tiết định khung tăng nặng khi mà phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, tức là loại tội nghiêm trọng:
a) Có tổ chức (là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó
có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải trường hợp hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tùy từng trường
hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất
định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có
tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Người thực hành phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản có tổ chức là người trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn để hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng
Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản đã gây ra những thiệt hại về vật chất, tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại khác ngoài giá trị
tài sản trực tiếp bị hủy hoại hoặc hư hỏng. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây ra nếu:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới
21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;
- Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự
trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định...Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ
1
9


án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng

chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản mới bị coi là phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây hậu quả nghiêm trọng
theo điểm c khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự.
- Nếu tài sản bị hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng dưới 2.000.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì
người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự mà không thuộc trường
hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều này.
d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác (người phạm tội dùng chất nổ, chất
cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm để hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác và do hành vi dùng chất
nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm nên tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm

hư hỏng tài sản cao hơn. Bởi vì chất nổ là những chất có sức công phá lớn, có tính nguy hiểm cao đối với con
người như: thủ pháo, lựu đạn, vật liệu nổ dùng trong công nghiệp, trong quốc phòng..., chất cháy là những chất dễ
cháy hoặc tự bốc cháy trong một môi trường nhất định như: xăng, dầu, phốt pho, các chất hoá học khác dễ bốc
cháy hoặc tự bốc cháy..., thủ đoạn nguy hiểm khác là thủ đoạn gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con
người như: thuốc độc, thuốc trừ sâu, diệt chuột, a xít...);
đ) Để che giấu tội phạm khác (đây là trường hợp người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
nhằm mục đích che giấu một tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện trước đó nhưng chưa bị phát hiện, hoặc có
nguy cơ bị phát hiện nên người phạm tội đã hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản để hy vọng rằng tội phạm mà
họ đã thực hiện sẽ không bị phát hiện);
e) Vì lý do công vụ của người bị hại (trường hợp người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
với động cơ trả thù mà người bị trả thù ở đây là người đã thi hành một công vụ có liên quan đến quyền lợi của
người phạm tội vì đã thi hành công vụ nên mới bị hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Mối quan hệ giữa việc
thi hành công vụ với hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là quan hệ nhân quả, nếu có việc thi hành

công vụ của người bị hại và sau đó có việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, nhưng giữa việc thi hành công

vụ của người bị hại với hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người phạm tội không có liên quan thì
cũng không thuộc trường hợp vì lý do công vụ của người bị hại);
g) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này (thiệt hại do hành vi hủy hoại hoặc làm hư

2
0


×