Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN giúp hs lớp 2 giải tốt các bài toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.76 KB, 26 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Giúp học sinh lớp 2
học tốt các bài toán có lời văn
Bộ môn (lĩnh vực): Toán

Năm học 2017 - 2018
0


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Giúp học sinh lớp 2 học tốt các bài toán có lời văn.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy học môn Toán lớp 2.
3. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Mai
Nam (nữ): Nữ
Ngày tháng/năm sinh: 05/07/1987
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường TH Phượng Hoàng - huyện Thanh
Hà - tỉnh Hải Dương
4. Đồng tác giả (nếu có), chịu trách nhiệm nội dung:
Họ và tên:
Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ, đơn vị công tác:
Điện thoại:
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường TH Phượng Hoàng: xã Phượng Hoàng huyện Thanh Hà - tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203815597
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Trường TH Phượng Hoàng - xã
Phượng Hoàng - huyện Thanh Hà - tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 0320.3815.597.


7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 2
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2016 - 2017.
TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT

1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Giúp học sinh lớp 2 học tốt các bài toán có lời văn
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy học môn Toán lớp 2.
3. Tác giả:
Họ và tên:
Nam (nữ)
Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ, đơn vị công tác:
Điện thoại:
4. Đồng tác giả (nếu có), chịu trách nhiệm nội dung:
Họ và tên:
Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ, đơn vị công tác:
Điện thoại:
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tên đơn vị, địa chỉ, điện thoại

6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Tên đơn vị; địa chỉ; điện thoại
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: nêu mốc thời gian mà SK được áp dụng
lần đầu tiên trong thực tế, hoặc áp dụng thử.
TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT

2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Dạy có hiệu quả phần Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 góp phần
quyết định vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở trường tiểu học
nói chung cũng như ở lớp 2 nói riêng. Trong thực tế, giáo viên chưa tự tin với
việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp dạy học Giải toán có lời văn
nên hiệu quả tiết dạy không cao.
Nhận thức được vấn đề này, bản thân tôi là một giáo viên tiểu học, qua
nghiên cứu các tài liệu về hướng dẫn dạy học môn Toán; là người trực tiếp làm
công tác giảng dạy, tôi mạnh dạn viết sáng kiến: “Giúp học sinh lớp 2 học tốt
các bài toán có lời văn”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
2.1. Điều kiện áp dụng sáng kiến.
Học sinh khối lớp 2.
2.2. Thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.

Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2018, với học sinh lớp giảng dạy.
3. Nội dung sáng kiến
3.1. Tính mới của sáng kiến:
- Sáng kiến đề cập những khó khăn của giáo viên và đưa ra các biện pháp
tháo gỡ cụ thể nhằm giúp giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy Giải toán có
lời văn cho học sinh lớp 2.
3.2. Tính sáng tạo của sáng kiến.
Chỉ ra cách thức, hình thức, phương pháp tối ưu nhất, phù hợp nhất để
thực hiện giảng dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 một cách hiệu quả.
3.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Sáng kiến này áp dụng cho tất cả học sinh lớp 2 trong các trường tiểu học.
Tuy nhiên khi áp dụng các đồng nghiệp phải căn cứ vào tình hình thực tế của
lớp mình để áp dụng sao cho đạt hiệu quả.
3.4. Lợi ích của sáng kiến mang lại.
Sáng kiến “Giúp học sinh lớp 2 học tốt các bài toán có lời văn” dễ áp
dụng, không tốn kém về tiền bạc, đem lại hiệu quả thiết thực.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Nhờ áp dụng các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu được
những kết quả ban đầu trong việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2
nói riêng và góp phần nâng cao chất lượng môn Toán nói chung. Tất cả học sinh
trong lớp đều biết cách giải toán và biết tự trình bày bài giải một cách đúng nhất,
khắc phục được những hạn chế và sai sót khi học giải toán có lời văn. Có thể nói
sáng kiến đã khẳng định một lần nữa tính phù hợp của nội dung, hình thức và
các biện pháp dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
3


5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
5.1. Với các cấp quản lý giáo dục:
- Tổ chức sinh hoạt chuyên đề liên trường về nâng cao hiệu quả dạy học

Giải toán có lời văn nói chung cũng như dạy cho học sinh lớp đầu cấp nói riêng.
5.2. Với nhà trường:
- Nâng cao hiệu quả sinh hoạt chuyên môn tổ khối bằng các chuyên đề
nghiên cứu bài học cụ thể và thiết thực đối với dạy Giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 2.
5.3. Đối với giáo viên:
Cần tích cực tự học, tự bồi dưỡng; tìm đọc các tài liệu hướng dẫn học và
dạy môn toán để nâng cao trình độ.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Môn Toán ở trường Tiểu học là một trong những môn học có vị trí đặc
biệt quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán có rất nhiều ứng dụng
trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các
môn học khác và học tiếp Toán ở các lớp tiếp theo. Các kiến thức, kĩ năng của
môn Toán ở Tiểu học được hình thành chủ yếu ở thực hành, luyện tập và thường
xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển vận dụng trong học tập và trong đời sống.
Dạy học giải toán là một trong những con đường hình thành và phát triển
tư duy: Phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét, tự so sánh phân tích tổng
hợp rút ra những quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Nội dung các bài toán có
lời văn gần gũi cuộc sống hàng ngày của học sinh nên dạy giải toán còn giúp
mỗi học sinh tự khám phá, tự phát hiện và giải quyết bài toán thông qua việc
thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức có liên quan với kinh
nghiệm của bản thân (đã học ở trường và trong cuộc sống thực tế ...)
Mạch kiến thức: "Giải toán có lời văn", là một trong những mạch kiến
thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có
lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc,

viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp
của các mạch kiến thức toán học. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học
và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. Học sinh được làm
quen với toán có lời văn ngay từ lớp Một, đến lớp 2 yêu cầu các em bước đầu
nắm được cách tóm tắt, phân biệt được dạng toán và giải hoàn chỉnh một bài
toán có lời văn… Có thể nói, đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh lớp
2. Đọc một đề toán đã là khó đối với các em vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm hiểu
đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số… Làm thế nào để học sinh
hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng?
Là một giáo viên đã nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 2, qua các đợt khảo sát
chất lượng môn Toán, tôi nhận thấy chất lượng giải toán có lời văn còn thấp; kĩ
năng nhận dạng và giải toán có lời văn của học sinh còn rất chậm, các em
thường hay nhầm lẫn giữa các dạng toán, xác định sai dạng toán dẫn đến cách
giải sai. Một phần nữa, do đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi, các em còn vội
vàng, hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề nên đôi khi chưa đọc kĩ đề, chưa hiểu kĩ đề
đã vội vàng làm bài, dẫn đến kết quả sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đủ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy - học giải toán có lời văn trong
chương trình lớp 2, tôi mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp
“Giúp học sinh lớp 2 học tốt các bài toán có lời văn” để góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng.
5


2. Cơ sở lý luận:
Trong môn Toán ở bậc Tiểu học, các bài toán có lời văn có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Cụ thể là, trong chương trình Toán lớp 2, các bài toán có lời văn
có mặt ở hầu hết các tiết Toán (118/175 tiết). Kết quả học toán của học sinh
cũng được đánh giá trước hết qua khả năng giải toán. Bởi vì việc giải toán giúp
học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học,
về đo lường, về các yếu tố đại số, về các yếu tố hình học đã được học trong môn

toán ở Tiểu học. Thông qua nội dung thực tế muôn hình, muôn vẻ của các đề
toán, học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có
điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng những kiến thức toán học vào cuộc
sống. Mỗi đề toán là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống. Khi giải mỗi bài
toán, học sinh biết rút ra từ bức tranh ấy bản chất toán học của nó, phải biết lựa
chọn những phép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đó, biết đặt lời giải
chính xác... Vì thế quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan
sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc sống qua con mắt toán học của mình.
Việc giải các bài toán sẽ giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói
quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải toán học sinh
phải biết tập trung vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu,
phải biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tìm ra
đường dây liên hệ giữa các số liệu. Nhờ đó mà đầu óc các em sẽ sáng suốt hơn,
tinh tế hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt, chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm
việc của các em sẽ khoa học hơn. Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh
phải biết tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự
mình thực hiện các phép tính, tự mình kiểm tra lại kết quả... Do đó giải toán là
một cách rất tốt để rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chu
đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác.
Việc dạy học giải toán nhằm giúp học sinh biết vận dụng những kiến thức
về toán học, được rèn luyện thực hành với những yêu cầu thể hiện một cách đa
dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện
và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm
chất cần thiết của người lao động mới.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán
được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có
liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn
chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản
chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các
mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những

câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
6


3. Thực trạng của vấn đề:
Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học
sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập
khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em
làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải
đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi
dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các
phép tính ấy để tìm ra đáp số. Mặt khác, việc yêu cầu học sinh ghi câu lời giải
ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy
nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn, thậm chí khó khăn ngay ở việc giúp
các em đọc đề, tìm hiểu đề… Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa
hiểu được đề, chưa trả lời được các câu hỏi giáo viên nêu: Bài toán cho biết gì?
Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời
giải… Những khó khăn trên phần lớn là do giáo viên phối kết hợp các phương
pháp dạy học chưa linh hoạt, việc chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng
túng, chưa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Một số giáo
viên chưa nắm chắc hệ thống các dạng toán có lời văn ở lớp 2 nên việc tổng hợp,
so sánh, phân biệt còn nhiều hạn chế. Khi hướng dẫn giải toán giáo viên chỉ
dừng lại ở việc giải xong bài toán mà chưa chú trọng việc hướng dẫn lập bước
giải, chưa chốt kiến thức một cách sâu, chắc về nhận dạng, về cách giải một
dạng toán dẫn đến học sinh có nhiều hạn chế trong việc xác định dạng toán và
giải toán. Việc chữa bài cho học sinh chưa chu đáo, chưa triệt để, chưa có lời
nhận xét, biện pháp hỗ trợ cụ thể để giúp học sinh tiến bộ. Bên cạnh đó, đối với
học sinh lớp 2 thì việc đọc đề, tìm hiểu đề rất khó khăn vì kĩ năng đọc thành
thạo của các em chưa cao. Học sinh giải toán có lời văn theo kiểu học thuộc
lòng, máy móc, rập khuôn, chưa khoa học. Các em đọc đề toán và tìm hiểu đề

còn thụ động, thường nôn nóng, đọc qua loa đề bài, chưa chú ý đến các dữ kiện,
dữ liệu của bài toán, còn rất lúng túng trong việc tìm mối quan hệ giữa “cái đã
biết” và “cái cần tìm” dẫn đến không biết phân tích đề, nhận dạng bài toán. Một
số học sinh trình bày và viết tóm tắt bài toán còn chưa đúng, chưa khoa học,
chưa có sự linh hoạt, sáng tạo - chỉ biết máy móc làm theo mẫu mà giáo viên
đưa ra, còn ở một số bài khác mẫu thì học sinh lúng túng, chưa biết cách trình
bày. Có học sinh chưa hiểu được cách ghi lời giải, ghi sai đơn vị. Nhiều học sinh
khi nói đến giải toán còn lo sợ, không tự tin khi làm bài hoặc một số em làm
được phép tính nhưng đặt lời giải sai.
* Nguyên nhân:
+ Về phía giáo viên:
- Một số giáo viên chưa chú trọng đến việc nghiên cứu nội dung bài dạy nên
việc vận dụng phương pháp còn lúng túng, chưa phát huy tính tích cực chủ động
7


của học sinh. Một số giáo viên hướng dẫn giải toán có lời văn chưa rõ ràng làm
cho bài toán trở nên phức tạp, học sinh khó hiểu.
- Giáo viên chưa khuyến khích và giúp đỡ một cách hợp lý kịp thời các nhóm,
các đối tượng học sinh trong quá trình học.
- Giáo viên ít quan tâm đến học sinh, chưa phân chia đối tượng học sinh, chưa
thường xuyên liên lạc với phụ huynh.
+ Về phía học sinh:
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều.
- Vốn sống của học sinh còn nghèo, khả năng suy luận còn hạn chế dẫn đến học
sinh hiểu nội dung bài toán chậm hoặc hiểu sai yêu cầu của đề bởi những yếu tố
không cơ bản của bài toán.
- Phụ huynh ít có điều kiện quan tâm, chăm lo tới việc học tập của học sinh khi ở nhà.
4. Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt các bài toán có lời văn
4.1: Biện pháp thứ nhất: Tìm hiểu tình hình học sinh, họp phụ huynh để

thống nhất biện pháp giáo dục.
Chúng ta đều biết học sinh lớp 2 đến trường còn phụ thuộc nhiều vào sự
quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cô. Các em chưa có ý thức tự giác học
tập, chính vì vậy giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố
không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của
nhiều em chưa cao. Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung, môn Toán lớp 2
nói riêng và giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con
cái, khi bắt đầu nhận lớp, tôi đã tìm hiểu, nắm bắt, phân loại đối tượng HS. Đây
là việc làm rất quan trọng, bởi lẽ khi phân loại được HS của lớp, giáo viên đó
hình dung ra nhóm học sinh nào cần gì để giáo viên có kế hoạch. Qua nhiều
kênh thông tin như thể hiện năng lực học tập của HS, qua giao tiếp, qua giáo
viên chủ nhiệm cũ, qua gia đình và đặc biệt là qua khảo sát đầu năm, tôi phân
loại trình độ học Toán của các em. Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm, tôi
mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những
yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối với các ông bố vào
buổi tối cố gắng bớt đi một chút thời gian chuyện trò với bạn bè, tắt (vặn nhỏ
đài, ti vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập….Rất mừng là
đa số phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu nay các phụ
huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em. Sách giáo khoa
mới còn nhiều kí hiệu, các lệnh, yêu cầu của sách, phụ huynh chưa rõ yêu cầu
bài tập; nhiều gia đình người mẹ bận việc mà người bố ngại hướng dẫn con nên
việc học của con cái chưa được tập trung chú ý. Riêng trong phần bài tập của
8


sách Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề
toán, luyện nói và trả lời nhiều…
Đối với những phụ huynh vắng mặt, tôi tìm cách gặp gỡ, trao đổi tại nhà.
Các gia đình này phần lớn trình độ văn hoá của bố mẹ không đáp ứng được yêu

cầu hiện nay trong cách dạy con mà chỉ biết nhắc nhở con: “ Học bài đi” rồi con
học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không hay… Lúc này tôi hướng cha mẹ
học sinh cùng tham gia đánh giá.
VD: Bài toán. Đàn gà đẻ 51 quả trứng, 4 quả đã ăn. Hỏi còn lại bao nhiêu quả trứng?
Bài giải
Còn lại số quả trứng là: 51 – 4 = 11
Đáp số 11 quả trứng
Lúc này thầy cô dùng kĩ thuật phân tích sử dụng để đánh giá thường xuyên
trong tình huống trên.
Nếu phải trao đổi với phụ huynh thầy cô sẽ trao thế nào?
GV đưa ra câu hỏi: Em nhận xét về câu trả lời của bạn (câu trả lời đúng).
Ai nhận xét về phép tính của bạn 51 – 4 (viết đúng)
Ai nhận xét về kết quả phép tính của bạn 51 – 4 (chưa chính xác, nhầm
một chút, nhầm hàng chục trừ đi hàng đơn vị.)
Lúc này thầy cô đưa ra nhận xét.
Em làm bài từ câu trả lời đến viết phép tính đều đúng, một khâu nhỏ chú ý
cần tính toán cho cẩn thận và điền đúng danh số.
Trao đổi với phụ huynh, thầy (cô) trao đổi như sau:
Em đã biết giải toán có lời văn, viết câu lời giải, viết phép tính đúng tuy
nhiên em còn nhầm một chút, gia đình giúp đỡ em thêm.
Trước tiên thầy cô hãy dùng lời khen (không chê), khen rồi mới đưa ra lỗi
của học sinh và nhờ phụ huynh giúp đỡ. Lúc này phụ huynh sẽ cảm thấy rất hài
lòng và sẵn sàng hợp tác cùng với thầy (cô). Đây cũng là biện pháp giáo viên
giúp phụ huynh biết cách kèm cặp con em mình học toán một cách tốt nhất.
Đối với những em này, tôi phải hướng dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các
em tự học. Một số học sinh thiếu Sách giáo khoa và Vở bài tập, tôi gặp gỡ trao
đổi với phụ huynh, động viên họ mua sách (sách cũ cũng được) tạo điều kiện
cho con em học tập; tôi trực tiếp kêu gọi những em học sinh cũ (lớp 2 năm
ngoái) ủng hộ số sách cũ của các em cho nhà trường để nhà trường giúp đỡ
những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Còn vở bài tập tôi cho phô tô lại cho

những em thiếu, vì không có vở bài tập các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi
làm bài tập nhất là trong khi kĩ năng đọc, viết chưa thành thạo.
4.2. Biện pháp thứ 2: Hướng dẫn học sinh lớp 2 nắm vững quy trình giải bài
toán có lời văn
9


Thông thường khi dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2, tôi dạy học
sinh nắm vững các bước sau:
- Bước 1: Tìm hiểu đề toán
- Bước 2: Tóm tắt bài toán
- Bước 3: Tìm cách giải
- Bước 4: Trình bày bài giải
- Bước 5: Kiểm tra lại bài giải
4.2.1. Tìm hiểu đề toán:
Tìm hiểu đề toán là bước quan trọng, vì vậy tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề
bài. Để hiểu được nội dung bài toán, học sinh phải tự đọc, tri giác nhận biết đề
toán. Đây là bước đầu tiên giúp học sinh nắm được nội dung bài toán và đặc biệt
cần chú ý đến câu hỏi của bài. Tôi tổ chức cho các em đọc kĩ đề toán, yêu cầu
học sinh cầm bút chì và thước gạch chân dưới những dữ kiện quan trọng của bài
toán: “Hãy gạch dưới một gach những cái đã cho”; “Hãy gạch hai gạch dưới
câu hỏi của đề toán”. Như vậy tất cả học sinh cùng làm việc, em nào không chịu
làm việc giáo viên đã biết và nhắc nhở. Thông qua việc đọc bài toán, HS phải
đọc kĩ để hiểu rõ bài toán cho biết gì? cho biết điều kiện gì? Bài toán hỏi cái gì?
Khi đọc bài toán phải hiểu thật rõ một số từ, thuật ngữ quan trọng chỉ rõ tình
huống quan trọng chỉ rõ tình huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông
thường sau đó HS “thuật lại” vắn tắt bài toán mà không cần đọc lại nguyên văn
bài. Đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu rõ một số từ khóa quan trọng như "nhiều
hơn", "ít hơn", "lớn hơn", "nhỏ hơn", "dài hơn", "ngắn hơn", "nặng hơn", "nhẹ
hơn"… Từ đó giúp học sinh xác định được dạng toán và cách giải dạng toán đó.

Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp giảng
giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung,
yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa vào
câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán rồi
cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Sau khi học sinh đã nhận dạng được bài toán, tôi yêu cầu học thảo luận
theo cặp hoặc theo nhóm để phân tích, tìm hiểu đề toán.
Ví dụ: (Bài 4 trang 31 SGK)
Tòa nhà thứ nhất có 16 tầng, tòa nhà thứ có ít hơn tòa nhà thứ nhất 4 tầng.
Hỏi tòa nhà thứ hai có bao nhiêu tầng?
* Cái đã cho: Tòa nhà thứ nhất có 16 tầng, tòa nhà thứ hai ít hơn tòa nhà
thứ nhất 4 tầng.
* Cái cần tìm: Tòa nhà thứ hai có bao nhiêu tầng?
Tuy nhiên trong quá trình giải toán không phải tất cả đề bài đều cho biết
cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa cái cần tìm trước
rồi mới biết cái đã cho.
10


Ví dụ: (Bài 3 trang 153 SGK)
Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm và 28mm?
* Cái cần tìm: Tính chu vi hình tam giác.
* Cái đã cho: độ dài các cạnh là 24mm, 16mm, 28mm
4.2.2. Tóm tắt bài toán:
Tóm tắt bài toán nhằm xây dựng, thiết lập mối liên hệ giữa dữ kiện đã cho và
dữ kiện cần tìm của bài toán, tìm cách diễn đạt nội dung của bài bằng ngôn ngữ kí
hiệu toán học. Tóm tắt bài toán hoặc minh họa với sơ đồ hình vẽ bằng cách ghi dữ
kiện điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới dạng cô đọng, ngắn gọn nhất.
Ví dụ: Bài 3 (trang 5 SGK Toán 2)
Một cửa hàng buổi sáng bán 12 xe đạp, buổi chiều bán được 20 xe đạp.

Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được tất cả bao nhiêu xe đạp?
+ Bài toán cho biết gì? Hãy gạch một gạch dưới cái đã cho
+ Bài toán hỏi gì? Hãy gạch hai gạch dưới câu hỏi của bài toán
Sau khi học sinh đã thực hiện theo hai câu lệnh làm việc của giáo viên,
giáo viên yêu cầu một số học sinh trình bày phân tích nội dung để hiểu rõ nội
dung đề toán.
Buổi sáng bán: 12 xe đạp
Buổi chiều bán: 20 xe đạp
Cả hai buổi bán: …xe đạp?
Mỗi bài toán có các cách tóm tắt khác nhau, tuy nhiên cần hướng dẫn học
sinh lựa chọn cách tóm tắt sao cho phù hợp từng bài để dễ hiểu, đơn giản và
ngắn gọn nhất. Có những bài toán nên tóm tắt bằng lời song cũng có những bài
toán nên tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng (nên dùng sơ đồ đoạn thẳng để biểu thị
trực quan khái niệm "ít hơn", "nhiều hơn" )
Ví dụ:
* Tóm tắt bằng lời: Bài 3 trang 96
Mỗi xe đạp có 2 bánh xe. Hỏi 8 xe đạp có bao nhiêu bánh xe?
1 xe đạp: 2 bánh
8 xe đạp: . . . bánh?
* Tóm tắt bằng sơ đồ: Bài 2 trang 24
Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bảo có bao
nhiêu viên bi?
10 viên bi

Nam có
5 viên bi

Bảo có
? viên bi
11



Phần tóm tắt bài toán là cần thiết khi học sinh giải bài toán có lời văn, đối
với học sinh lớp 2 không nhất thiết phải trình bày vào vở. Sau khi tóm tắt xong
tôi yêu cầu học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại được một bài toán hoàn chỉnh đúng
theo ý đề bài đã cho.
4.2.3. Tìm cách giải:
Cũng như các môn học khác để tìm được cách giải thì học sinh cần xác
định xem bài toán yêu cầu chúng ta làm gì? Từ đó để tìm cách giải, thiết lập mối
quan hệ giữa các dữ kiện của đề bài với phép tính tương ứng.
Để tìm cách giải bài toán, tôi yêu cầu học sinh nhìn tóm tắt xem bài toán
hỏi gì hay yêu cầu tìm gì? Để trả lời các câu hỏi của bài toán cần biết gì? Làm
phép tính gì? Suy luận từ các số, điều kiện đã có, có thể biết gì? Có thể sử dụng
phép tính gì? Trên cơ sở đó lập kế hoạch để giải bài toán.
Tìm cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ liệu, điều kiện và
câu hỏi của bài toán nhằm xác lập mối liên hệ giữa chúng và tìm được các phép
tính số học thích hợp.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “phép cộng” nếu
bài toán yêu cầu “nhiều hơn”, “cả hai” hoặc “gộp”, “tất cả”, “dài hơn”, “thêm”,
“nặng hơn”, “cao hơn”. Chọn “phép trừ” nếu bài toán “bớt” hoặc “tìm phần còn
lại” hay là “ít hơn” , “bé hơn”, “ngắn hơn”, “thấp hơn”, “nhẹ hơn”…(áp dụng
với đại đa số các bài toán có lời văn ở lớp 2 theo chuẩn kiển thức kĩ năng).
Lập kế hoạch giải bài toán, có hai hình thức: Đi từ câu hỏi của bài toán
đến các số liệu, hoặc đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán.
* Xuất phát từ câu hỏi của bài toán đến số liệu:
Ví dụ: Lan hái được 24 bông hoa, Liên hái được nhiều hơn Lan 16 bông
hoa. Hỏi Liên hái được bao nhiêu bông hoa?
+ Bài toán hỏi gì? (Liên hái được bao nhiêu bông hoa?)
+ Có thể biết ngay chưa?

+ Vì sao?
+ Có thể biết được số hoa Liên hái được nhiều hơn Lan chưa? Vì sao?
+ Vậy việc đầu tiên sẽ phải tìm cái gì? Bằng cách nào?
+ Sau đó làm gì nữa? Bằng cách nào? Đã trả lời câu hỏi của bài toán chưa?
* Xuất phát từ dữ kiện (số liệu) đến câu hỏi của bài toán.
Ví dụ: Bài 3 trang 24 SGK
Mận cao 95cm, Đào cao hơn Mận 3cm. Hỏi Đào bao nhiêu xăng-ti-mét?
- Yêu cầu học sinh nêu Mận cao bao nhiêu? (95cm).
- Yêu cầu học sinh phân tích Đào cao hơn Mận 3cm nghĩa là như thế nào?
(Đào cao bằng Mận rồi còn cao thêm 3cm).
12


- Giáo viên cho học sinh ghi phép tính tìm Đào cao bao nhiêu xăng-ti-mét
vào giấy nháp (95 + 3 = 98).
- Giáo viên theo dõi giúp đỡ học sinh chưa tìm ra cách giải.
* Đối với những bài toán khó hơn. Ví dụ bài 3 trang 72
Một bến xe có 35 ô tô, sau khi một số ô tô rời bến, trong bến còn lại 10 ô
tô. Hỏi có bao nhiêu ô tô đã rời bến?
- Cho học sinh nêu ô tô có trong bến (35 ô tô)
- Học sinh nêu ô tô đã rời bến (chưa biết).
- Học sinh nêu ô tô còn lại trong bến (10 ô tô)
Tôi yêu cầu học thảo luận theo cặp trong vòng 2 phút để tìm số ô tô đã rời
bến để rút ra cách giải: Muốn tìm số ô tô đã rời bến ta lấy số ô tô trong bến trừ đi
số ô tô đã rời bến.
Cho học sinh nhận xét - Bổ sung (nếu có).
Sau đó học sinh tiếp tục nêu hoặc ghi phép tính ra nháp (35 - 10 = 25).
4.2.4. Trình bày bài giải:
Về trình bày bài giải, học sinh viết được câu lời giải và phép tính tương
ứng. Thực hiện các phép tính theo kế hoạch để tìm ra kết quả đúng của bài toán.

Mỗi bước của phép tính đều phải được kiểm tra lại cho đúng, thử lại đáp số vừa
tìm được, em nêu cách giải, câu lời giải và đáp số có đúng câu hỏi của bài hay
đã phù hợp với điều kiện bài toán hay chưa? Giáo viên kiên trì để học sinh tự
diễn đạt câu trả lời bằng lời, sau đó viết câu lời giải. Lúc đầu học sinh có lúng
túng giáo viên nên chấp nhận các diễn đạt tuy có "vụng về" nhưng đúng ý là
được, cái khó nhất của bài giải toán có lời văn ở lớp 2 chính là trình bày câu lời
giải, do đó giáo viên tập cho học sinh diễn đạt câu lời giải theo nhiều cách khác
nhau, không vội vàng mà làm thay cho học sinh. Thực tế giảng dạy cho thấy
việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng quan trọng và khó khăn nhất đối
với học sinh lớp 2. Chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời
giải hay cũng là một khó khăn lớn đối với người dạy. Ví dụ như đối với bài toán:
Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam.
Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? Tuỳ từng đối tượng học sinh mà tôi lựa
chọn các cách hướng dẫn viết câu lời giải như sau:
- Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi của
bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và từ cuối “mấy” rồi thêm từ “là” để có câu lời
giải: “Vườn nhà Hoa có số cây cam là:”
- Cách 2: Nêu miệng câu hỏi: “Vườn nhà Hoa có mấy cây cam?” Để học
sinh trả lời miệng: “Vườn nhà Hoa có số cây cam là:” rồi thêm phép tính vào để
có cả bước giải (gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính):
Vườn nhà Hoa có số cây cam là:
17 – 7 = 10 (cây cam)
13


Đáp số: 10 (cây cam).
Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách lựa
chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp. Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều
cách đặt khác nhau như 2 cách trên. Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng
bài cụ thể tôi đưa cho các em suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các

câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp với câu hỏi của bài toán đó. Tuy nhiên cần
hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (cách 1) còn các cách kia giáo viên
đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải là hay
nhất để ghi vào bài giải.
Ví dụ: Bài 3 trang 30 SGK
Lớp 2A có 15 học sinh gái, số học sinh trai ít hơn số học sinh gái 3 bạn.
Hỏi lớp 2A có bao nhiêu số học sinh trai?
- Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán bỏ bớt từ "Hỏi" ở đầu câu và "Bao
nhiêu học sinh trai" ở cuối câu rồi thêm từ "là" để có câu lời giải: "Lớp 2A có
là". (đối với học sinh tiếp thu chậm)
- Cách 2: Dựa vào câu hỏi của bài toán bỏ từ "Hỏi" và thay từ "Bao nhiêu"
bằng từ "Số" rồi thêm từ "là" vào cuối câu, để có câu lời giải: "Lớp 2A có số học
sinh trai là".
- Cách 3: Cũng như trên dựa vào các câu hỏi của bài toán đưa từ "Học sinh
trai" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm từ "Số" ở đầu câu, bỏ từ
"Bao nhiêu", rồi thêm từ "là" ở cuối câu để có: "Số học sinh trai lớp 2A có là".
Tôi vẫn khuyến khích học sinh trình bày câu lời giải đầy đủ và hoàn chỉnh
như cách 2 và cách 3. Sau đó cho học sinh nhắc lại. Từ đó khắc sâu và nhấn
mạnh cho học sinh hiểu muốn tìm được câu lời giải đúng với yêu cầu của bài
toán phải dựa vào cái cần tìm (đây cũng chính là câu hỏi của bài toán)
Đối với bài toán tính độ dài đoạn thẳng, đoạn dây, đường gấp khúc... có số
đo đại lượng như: km, m, dm, mm, . . . giáo viên cần phân biệt một cách chính
xác các khái niệm như: "Đại lượng", "Số đo của một đại lượng" để giúp học sinh
tránh những sai lầm đồng nhất "Đoạn thẳng", với "Độ dài đoạn thẳng" hay "Số
đo đoạn thẳng"
Ví dụ: Bài 4 trang 25 SGK
Đoạn thẳng AB dài 10cm, đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm.
Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu cm?
Học sinh không nói câu lời giải: "Số xăng-ti-mét đoạn thẳng CD dài là"
mà phải nói chính xác là: "Độ dài đoạn thẳng CD là".

Sau khi học sinh đã biết cách trình bày bài giải, tôi mở rộng cho các em
các cách ghi câu lời giải khác nhau trong cùng một bài toán. Ví dụ:
Buổi sáng bán: 12 xe đạp
Buổi chiều bán: 20 xe đạp
14


Cả hai buổi bán: …xe đạp?
Bài giải
Cửa hàng bán được tất cả là:
12 + 20 = 32 (xe đạp)
Đáp số: 32 xe đạp
Mở rộng cho học sinh các cách ghi câu lời giải khác như: "Cả hai buổi
cửa hàng bán được là", "Số xe đạp cửa hàng bán trong 2 buổi là" "Buổi sáng và
buổi chiều cửa hàng bán được là"...
Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao
cho khoa học, đẹp mắt. Muốn thực hiện yêu cầu này trước tiên người dạy cần
tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định. Đầu tiên là tên bài
(Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau gần tóm tắt là trình
bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân), câu lời giải ghi
cách lề khoảng 2 -> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu có dấu hai
chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 -> 3 chữ, cuối phép tính
là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên
phải ( có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính (không
phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình
bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày
để từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường
xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương
trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng

trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập…
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc
nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết
hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo
nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
4.2.5. Kiểm tra lại bài giải:
Học sinh tiểu học nói chung cũng như học sinh lớp 2 nói riêng thường có
thói quen làm bài xong không kiểm tra lại bài làm. Vì vậy tôi luôn nhắc nhở và
tạo cho học sinh có thói quen thử lại sau khi làm phép tính và kiểm tra lại đáp số
xem có đúng không. Cũng cần soát lại các câu lời giải xem đã đủ ý chưa.
Từ cách hướng dẫn học sinh giải theo cách trên, học sinh đã nắm chắc
được các bước giải và trình tự giải bài toán để học sinh tiến hành đến việc học
và giải bài toán tiếp theo phức tạp hơn một cách dễ dàng.
4.3. Biện pháp thứ 3: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học, khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
15


Trong quá trình dạy học, hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò
luôn diễn ra song song, hỗ trợ nhau. Trong đó, hoạt động dạy của thầy giữ vai
trò chủ đạo, là người tổ chức các hoạt động học cho học sinh chủ động tham gia
một cách tích cực. Có thể nói, giờ học trên lớp là yếu tố quan trọng quyết định
kết quả giáo dục. Căn cứ vào mục tiêu đã được xác định, giáo viên tổ chức các
hoạt động dạy học linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng học sinh, đảm bảo tất
cả học sinh nắm được tất cả các yêu cầu cơ bản nhất về kiến thức, kĩ năng bài
học. Giáo viên dựa vào tình hình thực tế của lớp mình, đầu tư thời gian cho thích
hợp để chủ động trong mọi tiết học, linh hoạt, sáng tạo, vận dụng dạy phân hoá
trong dạy học cho các đối tượng học sinh khác nhau nhằm phát triển năng lực cá
nhân của từng học sinh. Dạy học toán có lời văn là một trong những con đường
hình thành và phát triển trình độ tư duy ở học sinh (phát hiện và tự giải quyết

vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp rút ra qui tắc ở dạng khái quát
nhất định...) Tuy nhiên để đạt hiệu cao, người giáo viên phải biết tổ chức, hướng
dẫn cho học sinh (cá nhân, nhóm, cả lớp ...) hoạt động theo chủ đích với sự trợ
giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và của đồ dùng dạy học, để
mỗi cá nhân học sinh khám phá, tự phát hiện và giải quyết bài toán thông qua
việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với kiến thức có liên quan đã
học, với kinh nghiệm bản thân (đã học được ở trường, trong đời sống.)
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập, rèn luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý
từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những
em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi
các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi
tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn.
Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ
rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học
sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một
yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học
tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn.
Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp hai nói riêng có
trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền
đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán,
rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang
trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện
vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học
cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có
hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là
16



kiểu dạy học: “Lấy học sinh làm trung tâm”, hướng tập trung vào học sinh, trên
cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 - 3
phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa
giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng
nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học….
Việc đánh giá kết quả học tập môn Toán cũng phải tuân thủ theo nguyên
tắc làm sao vừa ghi nhận được kết quả học tập của học sinh, vừa giúp học sinh
cố gắng vươn lên, tránh tình trạng đánh giá “cứng” làm học sinh tự ti, mặc cảm.
Đánh giá học sinh phải thực sự sư phạm, gắn với lương tâm, lý trí và tình cảm
cũng như tư cách, đạo đức nhà giáo, tôn trọng, lắng nghe ý kiến học sinh. Đề
cao quyền học sinh. Cần đánh giá học sinh tế nhị, khéo léo, theo chuẩn và theo
năng lực. Kiểm tra, đánh giá nghiêm túc, động viên, khuyến khích kịp thời,
chấm chữa bài tỉ mỉ, chi tiết. Môn Toán là một môn học có tính chính xác cao
nên giáo viên cần thường xuyên chấm chữa bài cho học sinh đảm bảo chính xác.
Điều quan trọng hết sức lưu ý: Khi dùng lời để nhận xét với học sinh thì trong
lời nhận xét ấy luôn đảm bảo 3 ý:
+ Ghi nhận hoặc chỉ ra cái đúng mà học sinh đạt được dù là nhỏ nhất.
+ Chỉ ra những cái sai hoặc cái chưa đúng của học sinh.
+ Cách khắc phục.
*Lưu ý: Cái sai (giảm nhẹ); cái chưa đúng (phải ngắn gọn dễ hiểu); cách
khắc phục (phải cụ thể phù hợp với lứa tuổi).
5. Kết quả đạt được
Nhờ áp dụng các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu được những
kết quả ban đầu trong việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói
riêng và góp phần nâng cao chất lượng môn Toán nói chung.
Kết quả cụ thể như sau:
Tổng số học sinh của lớp: 28 em
Số học sinh dự khảo sát: 28 em
Khả năng
Khả năng

Khả năng nêu
Khả năng
thiết lập các
Khả năng phân
lời giải đúng trình bày bài
dữ kiện để
tích đề
chính xác cho toán đúng và
xây dựng qui
mỗi phép tính
đẹp
trình
Kết quả
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Làm rất tốt
10
35,7
9
32,2
11
39,3
9
32,2

Làm tốt
11
39,3
12
42,8
10
35,7
12
42,8
Hoàn thành
7
25
7
25
7
25
7
25
Không biết làm
0
0
0
0
0
0
0
0
17



Qua các bài kiểm tra và kiểm tra việc học, làm bài tập của học sinh, tôi
thấy rằng: áp dụng những biện pháp như tôi đã trình bày ở trên mang lại hiệu
quả cao. Tất cả học sinh trong lớp đều biết cách giải toán và biết tự trình bày bài
giải một cách đúng nhất, khắc phục được những hạn chế và sai sót khi học giải
toán có lời văn. Có thể nói sáng kiến đã khẳng định một lần nữa tính phù hợp
của nội dung, hình thức và các biện pháp dạy Giải toán có lời văn cho học sinh
lớp 2.
6. Điều kiện để sáng kiến được áp dụng và nhân rộng.
Sáng kiến “Giúp học sinh lớp 2 học tốt các bài toán có lời văn” dễ áp
dụng, không tốn kém về tiền bạc, đem lại hiệu quả thiết thực. Tất cả giáo viên
Tiểu học đều có thể áp dụng để dạy học nhằm nâng cao chất lượng.

18


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong quá trình giảng dạy, mỗi giáo viên cần suy nghĩ để xác định cho
mình những công việc cần làm để chất lượng truyền thụ kiến thức, rèn luyện kĩ
năng cho học sinh đạt hiệu quả hơn. Dạy giải toán có lời văn cho học sinh là
phương pháp dạy học mang tính tư duy khoa học và hệ thống kiến thức xuyên
suốt ở các lớp. Dạy giải toán có lời văn cho học sinh cần tuân thủ quy trình, chú
trọng việc phân tích bài toán giúp học sinh tìm ra mối quan hệ giữa các số liệu
trong bài toán, từ đó nhận ra kiến thức cần sử dụng để giải bài toán. Mục tiêu
hướng tới đích cuối cùng là giúp học sinh đặt lời giải đúng, phép tính đúng đi
đến kết quả đúng.
Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên với học sinh lớp 2, các em đã xác
định đúng dạng toán, nắm được quy trình các bước giải, đặc biệt về việc hiểu
nội dung bài toán, nhận dạng toán, phân tích bài toán, tóm tắt được bài toán dễ
dàng và tự phát huy tính tích cực, tìm tòi ngay đáp số bài toán và biết trình bày

bài giải một cách hoàn chỉnh. Vì vậy theo chủ quan của bản thân tôi thì sáng
kiến này có thể áp dụng và phổ biến nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh về
giải toán có lời văn.
2. Khuyến nghị
5.1. Với các cấp quản lý giáo dục:
- Tổ chức sinh hoạt chuyên đề liên trường về nâng cao hiệu quả dạy học
Giải toán có lời văn nói chung cũng như dạy cho học sinh lớp đầu cấp nói riêng.
5.2. Với nhà trường:
- Nâng cao hiệu quả sinh hoạt chuyên môn tổ khối bằng các chuyên đề
nghiên cứu bài học cụ thể và thiết thực đối với dạy Giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 2.
5.3. Đối với giáo viên:
Cần tích cực tự học, tự bồi dưỡng; tìm đọc các tài liệu hướng dẫn học và
dạy môn toán để nâng cao trình độ.
Trên đây là một số biện pháp dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp
2 nhằm nâng cao chất lượng mà tôi đã đúc kết được trong quá trình nghiên cứu
và thực hiện tại đơn vị. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của đồng chí, đồng
nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn và có hiệu quả cao hơn trong quá trình
thực hiện ở thời gian tới.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

19


Phụ lục: Giáo án thực nghiệm
TIẾT 24: BÀI TOÁN VỀ NHIỀU HƠN
I. MỤC TIÊU:
- Kiến thức: Giúp HS Hiểu khái niệm “nhiều hơn” và biết cách giải bài toán
nhiều hơn.
- Kĩ năng: Giúp HS biết cách trình bày và giải bài toán có lời văn về nhiều hơn.

- Thái độ: Yêu thích học toán và có ý thức giải bài toán có lời văn.
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
- Giáo viên: 7 quả cam có gắn nam châm (hoặc hình vẽ trong SGK) - HĐ1
- Học sinh: Thước dây (bài 3)- HĐ 2
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU:
1. Bài mới.
a. Kiểm tra bài cũ (3 - 5 phút)
Gọi 2 HS lên bảng thực hiện các yêu cầu sau:
HS1: Đặt tính và tính: 38 + 15; 78 + 9;
HS2: Giải bài toán theo tóm tắt.
Vải xanh: 28 dm.
Vải đỏ: 25 dm.
Cả hai mảnh: ...dm?
Nhận xét và đánh giá.
b. Giới thiệu bài: Trong giờ toán hôn nay chúng ta sẽ được học và làm quen
với dạng toán có lời văn mới, đó là: Bài toán về nhiều hơn.
2. Phát triển bài. ( 30 - 32 phút)
Hoạt động 1: Giới thiệu về bài toán
nhiều hơn: ( 8 - 10 phút)
Mục tiêu: Giúp HS nhận biết được
cách giải bài toán về nhiều hơn.
Cách tiến hành:
Yêu cầu cả lớp tập trung theo dõi lên
bảng.
- Cài 5 quả cam trên bảng và nói:
Cành trên có 5 quả cam.
- Cài 5 quả cam xuống dưới và nói:
Cành dưới có 2 quả cam thêm 2 quả
cam nữa (gài thêm 2 quả)
- Hãy so sánh số cam 2 cành với

* Cành dưới có nhiều cam hơn cành
nhau.
trên (3HS trả lời).
Cành dưới có nhiều hơn bao nhiêu
- Nhiều hơn 2 quả (3 HS trả lời).
quả (nối 5 quả trên tương ứng với 5
20


quả dưới, còn thừa 2 quả).
+ Nêu bài toán: Cành trên có 5 quả
cam, cành dưới có nhiều hơn cành
trên 2 quả cam. Hỏi cành dưới có
bao nhiêu quả cam?
- Muốn biết cành dưới có bao nhiêu
quả cam ta làm như thế nào?
- Hãy đọc cho thầy câu trả lời của
bài toán.
Yêu cầu HS làm bài ra giấy nháp,
1HS làm bài trên bảng lớp.
Tóm tắt:
Cành trên: 5 quả.
Cành dưới nhiều hơn cành trên: 2
quả.
Cành dưới:... quả?
Chỉnh sửa cho các em nếu các em
còn sai.
- Nhận xét, chữa bài
Hoạt động 2: Luyện tập thực
hành. ( 20 - 22 phút)

Bài 1: ( 5 - 7 phút)
Mục tiêu: Củng cố cách giải về bài
toán nhiều hơn.
Cách tiến hành:
- Gợi ý 1HS đọc đề bài.
- Gợi ý 1HS tóm tắt.
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn biết Bình có bao nhiêu bông
hoa ta làm như thế nào?
- Trước khi làm phép tính ta phải trả
lời như thế nào?
Tóm tắt:
Hòa có
: 4 bông hoa.
Bình nhiều hơn Hòa : 2 bông hoa
Bình có
:... bông hoa?
- Yêu cầu HS làm bài vào vở sau đó

- Thực hiện phép cộng: 5 + 2.
- Số quả cam cành dưới có là:
Cành dưới có số quả cam là
- Làm bài:
Bài giải:
Số quả cam cành dưới có là:
5 + 2 = 7 (quả)
Đáp số: 7 quả cam.

- Đọc đề bài

- Đọc tóm tắt

- Hoà có 4 bông hoa, Bình có nhiều
hơn Hoà 2 bông hoa.
- Bình có bao nhiêu bông hoa.
Ta thực hiện phép tính 4 + 2
- Số bông hoa của Bình là:/ Bình có
số bông hoa là:

- HS làm bài.
21


chỉnh sửa, nhận xét.
Bài 2: ( 5 - 6 phút)
Mục tiêu: Củng cố giải bài toán về
nhiều hơn.
Cách tiến hành:
Yêu cầu HS đọc đề bài, đọc tóm tắt.
- Bài toán hỏi gì?
- Bài toán cho biết những gì có liên
quan đến số bi của Bảo.

Để giải bài toán này, chúng ta làm
phép tính gì?
- Yêu cầu HS tự giải bài toán.

- HS đọc đề bài tóm tắt.
- Bài toán hỏi số bi của Bảo.
- Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi.

Nam có 10 viên bi
Tóm tắt:
Nam có
: 10 viên bi.
Bảo có nhiều hơn Nam : 5 viên bi.
Bảo có
:...viên bi?
- Phép cộng 10 + 5
Bài giải:
Bạn Bảo có số bi là:
10 + 5 = 15 (viên)
Đáp số: 15 viên bi.

Bài 3: ( 8 - 10 phút)
Mục tiêu: Tiếp tục củng cố về giải
bài toán về nhiều hơn.
Cách tiến hành:
Yêu cầu HS đọc đề bài.
Bài toán cho biết gì?
- HS đọc đề bài.
Mận cao 95 cm. Đào cao hơn Mận
Bài toán hỏi gì?
3cm.
- Để biết Đào cao bao nhiêu cm ta - Đào cao bao nhiêu cm?
làm như thế nào? Vì sao?
- Thực hiện phép cộng 95 + 3 vì “cao
- Yêu cầu HS làm bài vào vở, 1 HS hơn” cũng giống như “nhiều hơn”.
lên bảng làm bài.
- HS làm bài.
Tóm tắt:

Mận cao
: 95cm.
Bài giải:
Đào cao hơn Mận
: 3cm.
Bạn Đào cao là:
Đào cao
:...cm?
95 + 3 = 98 (cm)
- Nhận xét, chữa bài.
Đáp số: 98 cm.
* HS thực hành đo chiều cao các bạn
3. Củng cố - dặn dò:
trong tổ.
Hôm nay chúng ta vừa học dạng
- Bài toán về nhiều hơn.
toán gì?
22


- Chúng ta giải các bài toán nhiều - Phép cộng
hơn trong bài bằng phép tính gì?
- Tổng kết tiết học, tuyên dương một
số em có tinh thần học tốt.

PHỤ LỤC
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
23



STT
1
2
3
4

Nội dung
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Cơ sở lí luận của vấn đề
Thực trang của vấn đề
Các biện pháp, giải pháp thực hiện

Trang
5
6
7
8

KẾT LUẬN
5
6
7

Kết luận và khuyến nghị
Minh họa tiết dạy
Danh mục tài liệu tham khảo

19
20
25


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Toán 2 - Đỗ Đình Hoàn - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
2. STK Toán 2 - Nguyễn Tuấn - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
24


×