Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

vận dụng quan điểm nền văn hóa mới trong việc xây dựng môi trường văn hoá kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.8 KB, 18 trang )

A.Lời mở đầu
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới
về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan
điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đồng thời cũng là kết
quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt quá
trình lãnh đạo của Đảng. Vậy quan điểm này đã được vận dụng như thế nào
trong việc xây dựng môi trường văn hoá kinh doanh ? Chúng ta hãy cùng tìm
hiểu về nó với trường hợp của doanh nghiệp Vinamilk - Doanh nghiệp đi đầu
trong ngành công nghiệp sản xuất sữa, và cũng là một trong Top những doanh
nghiệp lớn nhất Việt Nam hiện nay.
B. Nội dung
1. Cơ sở lý luận
1.1 Quan đểm chủ nghĩa Mac Lênin về văn hóa
C.Mác coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động
lao động sáng tạo của con người – hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra
đời sống hiện thực của con người. Khi coi “giới tự nhiên thứ hai” với tư cách là
“tác phẩm”, “thực tại” của con người – giới tự nhiên được con người cải biến,
nhân hóa mang ý nghĩa và nội dung con người là văn hóa, C.Mác đã đồng nhất
văn hóa với phương thức hoạt động sống đặc thù, phương thức hoạt động sống
riêng có của của con người. Đó là phương thức mà con người sử dụng lao động
sáng tạo của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố
hữu của mình” để cải tạo thực hiện khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại
khách quan cho chính mình “ theo các quy luật của cái đẹp”.
Văn hóa là cái phản ánh tính đặc thù của hoạt động con người và sự tồn
tại, vận động, phát triển cùng với tính đặc thù như vậy của con người trong thế
giới. Văn hóa chỉ xuất hiện khi con người ý thức rõ ràng về đời sống xã hội của
họ,về hoạt động tự do, hoạt động lao động sáng tạo để không ngừng cải tạo và
biến đổi tự nhiên vì sự tồn tại, phát triển của chính mình, vì cuộc sống ngày một
1




tốt đẹp hơn của chính mình, mà còn để “làm cho bản thân hoạt động sinh sống
của mình trở thành đối tượng của ý chí và của ý thức của mình”. Nói cách khác,
văn hóa là cái phản ánh việc con người tự ý thức về vai trò độc lập của mình, về
khả năng và năng lực sáng tạo của mình trong việc cải tạo và biến đổi tự nhiên.
Chủ thể sáng tao văn hóa là con người. Con người sử dụng văn hóa đó để
phát triển năng lực của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi tự nhiên, đồng
thời cải tạo chính bản thân mình, Trong quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội và
chính mình, con người ngày càng ý thức một cách rõ ràng hơn sức mạnh xã hội
của lao động và ý thức đầy đủ hơn khả năng, năng lực sáng tạo mang bản chất
người của mình – sáng tạo ăn hóa, tái sản xuất ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới
tự niên cho chính mình “ theo các quy luật của cái đẹp”
Văn hóa là cái thể hiện sự giải phóng và tự giải phóng con người khỏi sự
ràng buộc, thống trị một sức mạnh bí ẩn của thế giới tự nhiên và thế giới thần
thánh mà con người tưởng tượng ra do sự bất lực của mình trước thế giới tự
nhiên đầy bi ẩn.
Văn hóa là lĩnh vực hoạt động mà nhờ đó, con người sản xuất và tạo xuất
ra bản thân mình với tư cách là một thực thể xã hội. Đó là hoạt động của con
người nhằm tạo ra một hệ thống giá trị mang tính định hướng cho sự phát triển ý
thức con người và cho lối ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Với hệ
hống giá trị định hướng này, mỗi nền văn hóa trở thành một hệ thống biểu tượng
bao hàm trong đó các khuôn mẫu ứng xử xã hôi của con người. Đó còn là hoạt
động của con người nhằm tạo ra một hệ thống những thể chế mà qua đó, những
giá trị cao đẹp, mang tính định hướng được giữ gìn, lưu truyền và phổ biến cộng
đồng xã hội, trở thành tài sản của mỗi người, của tất cả mọi người trong cộng
đồng xã hội ấy và làm nên truyên thống văn hóa cho một cộng đồng xã hội.
Như vậy, trong quan niệm C.Mác, văn hóa không chỉ đóng vai trò là cơ
sở, nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại, mà còn là lĩnh vực luôn
có ảnh hưởng, tác động đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đến sự

phát triển của xã hội. Trong sự tác động và ảnh hưởng đó, văn hóa không chỉ tác
động, ảnh hưởng đến nguyên nhân sinh ra nó – đến tồn tại xã hội, đến quá trình
2


sản xuất vật chất của con người, mà còn góp phẩn quyết định phương thức vận
động và phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Văn hóa còn đem
lại cho chon người sự điều chỉnh định hướng hoạt động của mình và qua đó,
điều tiết quá trình sản xuất vật chất, điều tiết sự phát triển xã hội, trở thành
nguồn lực nội sinh cho sự phát triển xã hội bền vững – phát triển vì mục tiêu
nhân văn, vì giá trị nhân đạo.
1.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc
1.2.1. Quá trình đổi mới về tư duy xây dựng và phát triển nền văn hoá
- Cùng với quá trinh đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận thức
mới, quan điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá,
đối với con người thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ
sở cho những nhận thức mới, quan điểm mới về văn hoá của Đảng.
- Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI (1986) đánh giá "không hình thái tư tưởng
nào có thế thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm
lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con
người”. Đại hội VI cũng đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống
nhất về tư tưởng, khẳng định đồng thời với xây dựng kinh tế. phải coi trọng các
vấn đề văn hoá, tạo ra môi trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển.
- Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có
đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh
thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ,
khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân,

cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ. phê phán những cái lỗi thời thấp
kém.

3


+ Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
+ Cương lĩnh xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu.
- Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác
định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
+ Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định:
khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. Do đó phải coi sự nghiệp giáo
dục - đào tạo cùng với khoa học và công và nghệ là quốc sách hàng đầu
để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã
hội.
+ NQTƯ 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10
nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá
trong thời kỳ mới.
 Năm quan điểm chỉ đạo:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và
tiến bộ thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và
phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn
minh, con người phát triển toàn diện.
2. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng

đồng các dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách
mạng .
 Mười nhiệm vụ cụ thể:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những
đức tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh...
2. Xây dựng môi trường văn hoá.
4


3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
8. Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
10.Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
 Bốn giải pháp lớn:
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và
phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
2. Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
+ Đến HNTƯ 9 khoá IX (1/2004) xác định thêm "phát triển văn hoá đồng
bộ với phát triển kinh tế”
+ Đến HNTƯ 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa
nhiệm vụ phát triển nền kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là

then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh
thần xã hội. Đồng thời cũng nhận định: cơ chế thị trường đã làm thay đổi
mối quan hệ giữa cá nhản với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ đời sống xã
hội, đa dạng hoá thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hoá. Do đó phạm
vi, vai trò của dân chủ hoá - xã hội hoá văn hoá và của cá nhân ngày càng
tăng lên và mờ rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản
lý công tác văn hoá của Đảng và Nhà nước ta.
1.2.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
 Những vấn đề đặt ra trước tiên trước sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH: to lớn, lâu dài,
phức tạp đòi hỏi phát huy vai trò của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.
- Việc mở cửa, hội nhập với thế giới để tiếp thu, tiếp biến các thành tựu văn hóa,
văn minh của nhân loại vào công cuộc xây dựng đất nước.
5


- Việc khắc phục sự suy thoái tư tưởng, đạo đức và lối sống là vấn đề cấp bách
hiện nay.
- Khắc phục mặt trái của xu thế toàn cầu hoá, giao lưu quốc tế dẫn đến sự áp đặt
văn hóa, “đế quốc chủ nghĩa trong văn hóa”.
 Các quan điểm về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: (6
quan điểm)
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.

- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách
hàng đầu.
- Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
 Tìm hiểu sâu hơn về quan điểm thứ 2 của Đảng: Nền văn hóa mà chúng ta
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm
trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa
học, công nghệ, giáo dục, đào tạo... sao cho trong các hoạt động chúng ta vừa có
tư duy độc lập, cách làm hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị
trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải
tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn phát huy những giá trị tốt
đẹp của dân tộc.
+ Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta vừa chủ
trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu những tinh
6


hoa nhân loại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa với các quốc gia
để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt
Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế.
+ Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời
trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
 Mục tiêu của việc xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
- Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, ngăn chặn và hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa lai căng, độc hại, phản văn hóa.
- Xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và

phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng
cao trở thành yêu cầu, mục tiêu của phát triển văn hóa và là những nhân tố góp
phần hình thành hệ giá trị chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh.
- Củng cố và phát huy lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng
nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giải dị trong lối sống... của dân tộc Việt Nam.
Qua đó tạo môi trường xây dựng Việt Nam ấm no, tiến bộ. hạnh phúc; xây dựng
con người phát triển toàn diện.
 Đánh giá thực hiện quan điểm của Đảng:
Tích cực:
- Môi trường văn hóa có những chuyển biến tích cực, củng cố niềm tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác
hóa quốc tế được mở rộng.
- Giáo dục và đào tạo có những bước phát triển mới; quy mô giáo dục và đào tạo
tăng ở các cấp.
- Khoa học - Công nghệ có bước phát triển mới, phục vụ cho sự phát triển Kinh
tế.
7


- Nhiều giá trị văn hóa và sản phẩm văn hóa mới được hình thành, nâng cao đời
sống văn hóa tỉnh thần của nhân dân.
Hạn chế:
- Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn chưa tương xứng và
vững chắc so với yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
- Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có
một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà
nước, niềm tin của nhân dân.

- Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, khu vực,
tầng lớp xã hội tiệp tục tăng.
- Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tảng trưởng kinh tế,
thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng Đảng, môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm
bởi các tệ nạn xã hội.
- Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm, chưa đổi mới, làm hạn chế tác dụng
của văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng trong đời sống.
- Tình trạng nghèo nàn. thiếu thốn lạc hậu về đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều
vùng vẫn chưa được khắc phục.
2.Thực trạng vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa đậm
đà bản sắc tại công ty cổ phần Vinamilk
2.1 Giới thiệu về công ty cổ phần Vinamilk
VINAMILK Thành lập ngày 20 tháng 8 năm 1976, đến nay Vinamilk đã trở
thành công ty hàng đầu Việt Nam về chế biến và cung cấp các sản phẩm về sữa,
được xếp trong Top 10 thương hiệu mạnh Việt Nam. Vinamilk không những
chiếm lĩnh 75% thị phần sữa trong nước mà còn xuất khẩu các sản phẩm của
mình ra nhiều nước trên thế giới như: Mỹ, Pháp, Canada,… Hoạt động hơn 10
năm trong cơ chế bao cấp, cũng như nhiều DN khác chỉ sản xuất theo kế hoạch,
nhưng khi bước vào kinh tế thị trường, Vinamilk đã nhanh chóng nắm bắt cơ
hội, không ngừng đổi mới công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa sản
phẩm để chuẩn bị cho một hành trình mới. Từ 3 nhà máy chuyên sản xuất sữa là
Thống Nhất, Trường Thọ, Dielac, Vinamilk đã không ngừng xây dựng hệ thống
8


phân phối tạo tiền đề cho sự phát triển. Với định hướng phát triển đúng, các nhà
máy sữa: Hà Nội, liên doanh Bình Định, Cần Thơ, Sài Gòn, Nghệ An lần lượt ra
đời, chế biến, phân phối sữa và sản phẩm từ sữa phủ kín thị trường trong nước.
Không ngừng mở rộng sản xuất, xây dựng thêm nhiều nhà máy trên khắp cả
nước (hiện nay thêm 5 nhà máy đang tiếp tục được xây dựng), Vinamilk đạt

doanh thu hơn 6.000 tỷ đồng/năm, nộp ngân sách nhà nước mỗi năm trên 500 tỉ
đồng. Cty Vinamilk hiện có trên 200 mặt hàng sữa và sản phẩm từ sữa như: sữa
đặc, sữa bột cho trẻ em và người lớn, bột dinh dưỡng, sữa tươi, sữa chua uống,
sữa đậu nành, kem, phô-mai, nước ép trái cây, bánh biscuits, nước tinh khiết, cà
phê, trà… Sản phẩm đều phải đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Vinamilk
cũng đã thiết lập được hệ thống phân phối sâu và rộng, xem đó là xương sống
cho chiến lược kinh doanh dài hạn. Hiện nay, Cty có trên 180 nhà phân phối,
hơn 80.000 điểm bán lẻ phủ rộng khắp toàn quốc. Giá cả cạnh tranh cũng là thế
mạnh của Vinamilk bởi các sản phẩm cùng loại trên thị trường đều có giá cao
hơn của Vinamilk. Vì thế, trong bối cảnh có trên 40 DN đang hoạt động, hàng
trăm nhãn hiệu sữa các loại, trong đó có nhiều tập đoàn đa quốc gia, cạnh tranh
quyết liệt, Vinamilk vẫn đứng vững và khẳng định vị trí dẫn đầu trên thị trường
sữa Việt Nam. Trong kế hoạch phát triển, Vinamilk đã đặt mục tiêu phát triển
vùng nguyên liệu sữa tươi thay thế dần nguồn nguyên liệu ngoại nhập bằng cách
hỗ trợ nông dân, bao tiêu sản phẩm, không ngừng phát triển đại lý thu mua sữa.
Nếu năm 2001, Cty có 70 đại lý trung chuyển sữa tươi thì đến nay đã có 82 đại
lý trên cả nước, với lượng sữa thu mua khoảng 230 tấn/ngày. Các đại lý trung
chuyển này được tổ chức có hệ thống, rộng khắp và phân bố hợp lý giúp nông
dân giao sữa một cách thuận tiện, trong thời gian nhanh nhất. Cty Vinamilk cũng
đã đầu tư 11 tỷ đồng xây dựng 60 bồn sữa và xưởng sơ chế có thiết bị bảo quản
sữa tươi. Lực lượng cán bộ kỹ thuật của Vinamilk thường xuyên đến các nông
trại, hộ gia đình kiểm tra, tư vấn hướng dẫn kỹ thuật nuôi bò sữa cho năng suất
và chất lượng cao. Số tiền thưởng và giúp đỡ những hộ gia đình nghèo nuôi bò
sữa lên đến hàng tỷ đồng. Nhờ các biện pháp hỗ trợ, chính sách khuyến
khích, ưu đãi hợp lý, Vinamilk đã giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động
9


nông thôn, giúp nông dân gắn bó với Cty và với nghề nuôi bò sữa, góp phần
thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống; nâng tổng số đàn bò sữa từ

31.000 con lên 105.000 con. Cam kết Chất lượng quốc tế, chất lượng Vinamilk
đã khẳng định mục tiêu chinh phục mọi người không phân biệt biên giới quốc
gia của thương hiệu Vinamilk. Chủ động hội nhập, Vinamilk đã chuẩn bị sẵn
sàng từ nhân lực đến cơ sở vật chất, khả năng kinh doanh để bước vào thị trường
các nước WTO một cách vững vàng với một dấu ấn mang Thương hiệu Việt
Nam
2.2 Tích cực của Vinamilk khi vận dụng quan điểm xây dựng nền văn hóa
vào công ty
Trong những năm gần đây, khái niệm văn hoá doanh nghiệp đó và đang được
nhắc đến như một tiêu chí khi bàn về doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp
chính là tài sản vô hỡnh của mỗi doanh nghiệp. Xây dựng, phát triển văn hoá
doanh nghiệp của nước ta hiện nay có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế
đất nước, hội nhập kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Công ty cổ phần sữa Việt
Nam Vinamilk là một trong những doanh nghiệp Việt Nam đó sớm xây dựng
cho mỡnh văn hoá doanh nghiệp ngay từ những buổi đầu mới thành lập. Văn
hóa doanh nghiệp của Vinamilk đã thành công. Vinamilk là một trong những
doanh nghiệp đã xây dựng văn hóa doanh nghiệp tại Việt Nam rất hiệu quả.
Vinamilk xây dựng rất rõ ràng các giá trị và chính sách dành cho nhân viên
trong văn hóa doanh nghiệp của Vinamilk. Đặc biệt thái độ và tinh thần của
nhân viên, doanh nghiệp đều được thể hiện rất rõ.


Đối với doanh nghiệp/ chủ sở hữu doanh nghiệp: “Nỗ lực mang lại lợi ích
vượt trội cho các cổ đông, trên cơ sở sử dụng hiệu quả và bảo vệ mọi
nguồn tài nguyên của Vinamilk.”



Đối với nhân viên: “Đối xử tôn trọng, công bằng với mọi nhân viên.

Vinamilk tạo cơ hội tốt nhất cho mọi nhân viên để phát triển sự bình đẳng,
xây dựng và duy trì môi trường làm việc thân thiện, an toàn và cởi mở.”
10




Đối với khách hàng: “Vinamilk cung cấp sản phẩm và dịch vụ đa dạng.
Vinamilk cam kết chất lượng đạt tiêu chuẩn cao nhất, giá cả cạnh tranh và
trung thực với mọi giao dịch.”

Trong các hoạt động, Vinamilk luôn gắn kết hoạt động xã hội với văn hóa
doanh nghiệp. Vinamilk thường xuyên tổ chức các hoạt động xã hội như: tài trợ
các giải thi đấu thể thao, tổ chức chương trình hỗ trợ giáo dục: Đom Đóm tỏa
sáng, Kinh khí cầu cùng Vinamilk vươn tới trời cao,… Đồng thời, Vinamilk còn
tổ chức các chương trình tư vấn chăm sóc sức khỏe, cả khách hàng với nhân
viên, thể hiện sự quan tâm với nhân viên tận tâm. Tại các nhà máy và cơ quan
làm việc của Vinamilk đều sơn hai màu xanh và trắng. Nó thể hiện sự đồng nhất
trong logo, nhãn hiệu và khẩu hiệu của Vinamilk. Nhân viên nhận thức tác
phong làm việc nghiêm túc từ các quy định tới phong cách, đồng phục làm việc
gọn gàng và sạch sẽ. Thái độ làm việc của nhân viên luôn phải thân thiện, nhiệt
tình và tâm huyết. Trước khi các nhân viên được tham gia làm việc chính thức,
Vinamilk trước tiên đào tạo trình độ chuyên môn cơ bản, quy định và các tác
phong làm việc. Xây dựng văn hóa của Vinamilk còn tập trung đào tạo về lịch
sử hình thành, các câu chuyện về sữa và dinh dưỡng. Đồng thời, các bài học lịch
sử về truyền thống tốt đẹp trong văn hóa doanh nghiệp của Vinamilk đều được
lan truyền.
Với chính sách giữ chân nhân tài, Vinamilk thường niên tổ chức các đợt liên
hoan, tuyên dương các thành tích nhân viên và rút kinh nghiệm cho nhân viên.
Để gắn kết nhân viên, Vinamilk thường xuyên tổ chức các buổi liên hoan văn

nghệ, giải đấu giao lưu để thắt chặt sự đoàn kết của nhân viên. Bên cạnh đó các
chính sách Vinamilk còn chăm lo cho gia đình các nhân viên, tổ chức các hoạt
động chăm lo cho nhân viên, giúp họ an tâm làm việc cho Vinamilk lâu dài.
Vinamilk muốn tạo ra một “đầu tàu” để lèo lái và dẫn dắt giúp gắn kết toàn thể
nhân sự Vinamilk, truyền cảm hứng để đạt được mục tiêu lớn hơn. Đặc biệt,
Vinamilk xây dựng và phát triển cuốn sổ văn hóa doanh nghiệp, “Hải trình
Vinamilk”. Với cuốn sổ này, văn hóa doanh nghiệp của Vinamilk còn được
truyền tải trên phiên bản online, kết nối toàn bộ nhân viên. Nhân viên có thể
11


mang “Hải trình Vinamilk”, tham khảo ở mọi lúc mọi nơi. Bên cạnh đó,
Vinamilk còn đề ra những nguyên tắc văn hóa của doanh nghiệp để các nhân
viên áp dụng cũng như thực hiện một cách hiệu quả, đó là:



Trách nhiệm: Khi sự việc xảy ra, nguyên nhân đầu tiên là tôi



Hướng kết quả: Hãy nói chuyện với nhau bằng lượng hóa



Sáng tạo và Chủ động: Đừng nói không, luôn tìm kiếm 2 giải pháp



Hợp tác: Người lớn không cần người lớn hơn giám sát




Chính trực: Lời nói của tôi chính là Tôi



Xuất sắc: Tôi là chuyên gia theo tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực của tôi

Là một công ty nổi tiếng về nhãn hiệu sữa, Vinamilk đã lấy chất lượng làm
hàng đầu trong mỗi thành viên, trong chính công ty và trong từng sản phẩm.
Mang truyền thống tốt đẹp luôn vì sức khoẻ của cộng đồng, những nhân viên
của công ty luôn thể hiện tinh thần tương thân tương ái và gửi tâm huyết vào
từng sản phẩm. Nền văn hoá ấy đã góp phần tạo nên thương hiệu mạnh
Vinamilk trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Để đạt được những điều
tích cực này,Vinamilk còn vận dụng các yếu tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp
của Vinamilk như:
●Triết lý quản lý và kinh doanh:
Vinalmilk mong muốn trở thành sản phẩm được yêu thích nhất, không chỉ ở Việt
Nam mà còn trên mọi vùng lãnh thổ, quốc gia. Vinamilk xem khách hàng là trung
tâm và luôn đáp ứng mọi yêu cầu từ khách hàng. Ở Vinamilk, chất lượng và sự
sáng tạo luôn đồng hành trong nền văn hóa doanh nghiệp của Vinamilk.
● Động lực của cá nhân và tổ chức:
Ở doanh nghiệp này, lãnh đạo chú ý đề cao những giá trị cốt lõi : Chính trực, tôn
trọng, công bằng, tuần thủ và đạo đức. Toàn bộ tổ chức nói chung và mỗi cá nhân
nói riêng đồng tâm hợp lực, làm việc hết sức, đặt chất lượng sản phẩm lên hàng
12


đầu. Đặt sứ mệnh chăm sóc sức khỏe cộng đồng cho tương lai thế hệ mai sau lên

hàng đầu và chung tay xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.
● Quy trình quy định:
Vinamilk là doanh nghiệp sữa có hệ thống phân phối sâu rộng, thương hiệu
mạnh, vững về tiềm lực tài chính và có quy mô sản xuất lớn. Đây là doanh nghiệp
chủ động trong nguồn nguyên liệu, giá thu mua sửa cao hơn. Với quy trình máy
móc tiên tiến và luôn được bảo trì đúng chất lượng, Vinamilk có thể tự hào khi có
thể vươn tới top 50 công ty sữa hàng đầu thế giới.
● Phong trào, nghi lễ, nghi thức:
Với phương châm sống và làm việc vì cộng đồng, Vinamilk là doanh nghiệp đi
đầu về những hoạt động từ thiện. Những hoạt động xã hội ý nghĩa như quỹ 1 triệu
ly sữa và tăng lên quỹ 8 triệu ly sữa vào những năm sau đó. Không những vậy,
Vinamilk còn tài trợ những quỹ học bổng, quỹ bảo trợ và tham gia vào bảo vệ
môi trường với quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam.Vinamilk với những nỗ lực đã
tạo dựng cho mình một nền văn hoá doanh nghiệp rất riêng. Doanh nghiệp đã
khẳng định được thương hiệu của mình trong ước và cả trên trường quốc tế.
Vinamilk đang nỗ lực đưa chất lượng và thương hiệu ngày một tốt hơn, làm nên
một dấu ấn mang thương hiệu Việt Nam trên trường quốc tế. Vận dụng tốt văn
hóa doanh nghiệp tại công ty, Vinamilk đã có những tích cực cùng những hiệu
quả đáng kề trong việc gìn giữ và xây dựng nền văn hóa công ty một cách văn
minh, khéo léo, lâu dài và hiệu quả.
2.3 Hạn chế của Vinamilk khi vận dụng quan điểm xây dựng nền văn hóa
vào công ty
 Vẫn còn thiếu tính liên kết cộng đồng :
Hiện nay, Vinamilk vẫn chưa thực sự cởi mở, liên kết với các doanh nghiệp
khác một cách chặt chẽ, vẫn còn tình trạng cạnh tranh gay gắt với nhau. Hệ quả
13


là không những không nâng cao sức cạnh tranh mà còn bị yếu đi vì sự tranh
mua tranh bán trên thị trường, thậm chí còn có trường hợp hạ uy tín của nhau.

 Nhẹ chữ tín:
Giữ chữ tín là điều kiện của sự thành công, sự thất bại đối với doanh
nghiệp nói chung và với Vinamilk nói riêng, đồng thời doanh nhân không giữ
chữ tín là sự thất bại báo trước, thời gian chỉ có thể là sớm hay muộn mà thôi.
Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam chưa
thực sự coi trọng chữ tín, hay việc dẫn cá lí do khách quan để khước từ viêc
thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước
ngoài. Và Vinamilk cũng khó tránh phải gặp các trường hợp tương tự như trên.
Dù cho là một công ty lớn, một doanh nghiệp đi đầu trong ngành sản xuất sữa
ở Việt Nam nhưng cho dù thế nào thì Vinamilk cũng đã có những sơ suất nhỏ
trong việc giữ chữ tín của mình. Từ đó ta có thể nhận thấy một thực tế ở Việt
Nam đó là từ cá nhân đến cơ chế, phải đau lòng nhận ra rằng là người Việt
chưa thực sự tin người Việt.
 Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen vẫn còn tùy tiện:
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung vốn bị kém thế cạnh tranh trên thị
trường quốc tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt
mà ít nghĩ đến cục diện chung và Vinamilk cũng không tránh được tình trạng
này. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những
bước đầu, sau đó các doanh nghiệp khác cũng giống như Vinamilk thường tìm
cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi
kỵ, đối phó lẫn nhau và có thể sẵn sàng giành giựt quyền lợi riêng cho công ty
mình mà không nghĩ đến cục diện chung. Dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp nhỏ
chạy phía sau Vinamilk không có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và kinh
doanh ở quy mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị
trường. Và theo một báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng
đầu Việt Nam thì chúng ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những
doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam như Vinamilk cũng chỉ được coi tương
đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước phát triển.
14



 Tầm nhìn vãn còn hạn hẹp và tư duy ngắn hạn:
Vì chưa thực sự có tầm nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt Nam nói
chung thường không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch đầu tư thích
hợp. Đa số
các doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công
ty hàng đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu
toàn cầu, tham gia vào giải quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới. Với
Vinamilk, việc trở thành doanh nghiệp đi đầu trong ngành sản xuất sữa về cơ
bản đã thực hiện được; cùng với đó là đưa các sản phẩm của mình tới với thị
trường các nước như Mỹ, New Zealand và Campuchia,.. nhưng Vinamilk vẫn
chưa thực sự có được bước đi vững chãi nhiều hơn ở các quốc gia phát triển
khác.Vì thiếu tầm nhìn nên những doanh nghiệp như Vinamilk không chỉ đầu
tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài và vẫn còn theo xu hướng “ăn xổi”, đầu tư
vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn của mình. Trong khi các doanh
nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích kinh doanh dài hạn
ở Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Vinamilk lại đang
tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang tính đầu cơ như: kinh doanh bất
động sản, kinh doanh chứng khoán,… mà quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt


lõi.
Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt” , dựa dẫm:
Ở nước ta đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa
cá mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước vẫn tồn tại khá
phổ biến. Nhiều doanh nghiệp không ngoài Vinamilk vẫn tập trung thời gian và
tiền bạc cho một hoặc một số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan
hệ cá nhân giữa người kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc người mua
với người có thẩm quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc bán; một số lại
câu kết với những người xấu trong bộ máy nhà nước. Nhiều doanh nghiệp nói

chung thành công nhờ vào mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào năng lực. Và
Vinamilk dù không hoàn toàn nhờ vào những thế lực đó nhưng cũng không thể
15


khẳng định là không có. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng như là một chủ bài mạnh hơn là cả năng lực, và xu hướng nhờ vả, chạy chọt hiện đang tồn tại ở mức
đáng kể. Lợi ích quá nhiều từ quan hệ cá nhân, tranh giành đất đai, dùng quan hệ
để thắng thầu bất chính, thậm chí dùng cả quyền lực chính sách để bóp méo lực
lượng thị trường như phân phối quốc tế xuất nhập khẩu… chính là những
hiện tượng phổ biến, gây bức xúc trong toàn xã hội.
3. Giải pháp
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc về thực chất là hoạt động tự giác của các chủ
thể để bảo vệ, giữ vững, bổ sung, phát triển và quảng bá những giá trị của bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu một cách chọn lọc tinh hoa văn
hóa nhân loại nhằm tăng cường sức nội lực, tích cực xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 Đối với doanh nghiệp vinamilk
- phát huy mạnh mẽ những giá trị vốn có trong nền văn hoá truyền thống của
dân tộc (thí dụ những truyền thống yêu nước và thương người, đoàn kết cộng
đồng và trong tín nghĩa, cần cù, năng động và linh hoạt v.v…)
- kết hợp với các thành tựu văn hoá thế giới (thí dụ về nếp tư duy, phong cách
và trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ, về phương pháp, năng lực tổ chức
quản lý kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá - hiện đại
hoá v.v
- nâng cao bản lĩnh, trình độ đội ngũ doanh nhân theo hướng ngày càng
"chuyên nghiệp hoá" nhiều hơn, cạnh tranh và hội nhập với thị trường (nội
địa lẫn quốc tế)…
- trong giao tiếp với khách hàng, tuyên truyền quảng bá thương hiệu, giới
thiệu và bán sản phẩm một cách thân thiện…

- nâng cao năng lực và điều kiện, biện pháp để chăm lo đội ngũ (cả về đời
sống văn hoá cá nhân lẫn đời sống văn hoá tập thể), không ngừng tăng
cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cùng một nề nếp, kỷ cương hoạt động theo
phong cách công nghiệp, hiện đại dựa trên nền tảng phát huy tốt những giá
trị văn hoá truyền thống ( đạo lý, nghĩa tình…)
16


- Thích ứng với tập quán kinh doanh quốc tế Toàn cầu hóa kinh tế : Trước cơ
hội mới và thách thức mới khi vào WTO, doanh nghiệp cần phải trang bị cho
mình tầm nhìn mới - tầm nhìn toàn cầu, để “suy nghĩ lớn”, để “làm lớn”, bởi
vì ngày nay, sản phẩm của mỗi doanh nghiệp đã chịu sự cạnh tranh của thị
trường toàn cầu, khi trên thị trường nước ta, sẽ có đủ các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ của cả thế giới, kể cả trong trường hợp họ chỉ bán sản phẩm ở thị
trường Việt Nam thôi thì cũng phải có tư duy và tầm nhìn toàn cầu.
- Đảm bảo các vấn đề về xã hội môi trường, an toàn sức khỏe, đời sống nhân
dân quanh khu vực doanh nghiệp…
- Có ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành
mạnh…
 Đối với nhà nước
- Nhà nước cần có chính sách, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp, nhất
quán, đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hợp lý, linh
hoạt.
Chính phủ cũng cần tiếp tục đẩy mạnh các mối quan hệ ngoại giao để thúc đẩy
kinh tế đối ngoại phát triển, tạo cơ hội cho doanh nghiệp, doanh nhân vươn ra
thế giới; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
trực tiếp cũng như gián tiếp vào Việt Nam. Vai trò chủ thể của Nhà nước chính
là ở những công việc rất quan trọng: Định hướng, tạo môi trường pháp lý, quyết
định thể chế, chính sách khuyến khích, trợ giúp, cải cách hành chính, thanh tra,
kiểm tra, v.v.. tạo nên năng lực cạnh tranh quốc gia làm nền tảng cho việc xây

dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngành kinh tế và nhất là của
doanh nghiệp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của các cơ quan Nhà nước là hết lòng
chăm lo cho doanh nghiệp, không để doanh nghiệp “đơn thương độc mã” trong
cuộc chiến.
C.Lời kết
Như vậy, qua trường hợp của doanh nghiệp Vinamilk nói riêng, cũng như là từ
một cái nhìn tổng quát, quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là quan điểm nhất quán và
17


xuyên suốt thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như
là hội nhập quốc tế. Trong quá trình thực hiện những quan điểm chỉ đạo này,
Đảng ta luôn chú ý tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đề ra những nhiệm vụ
và giải pháp cụ thể để đáp ứng yêu cầu của từng thời điểm, từng lĩnh vực khác
nhau của hoạt động văn hoá. Tư tưởng nhất quán về nguyên tắc, phương pháp
biện chứng, linh hoạt và bám sát thực tiễn là bài học kinh nghiệm trong công tác
lãnh đạo văn hoá của Đảng. Chính vì vậy, nền văn hoá nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước, đã và đang trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Những thành tựu lý luận của Đảng về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trong thời kỳ vừa qua cần được kế thừa và phát huy trong giai đoạn mới, giai
đoạn 2011 - 2020, giai đoạn tiến tới đưa đất nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp như mục tiêu của Đảng đề ra.
D. Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình đường lối cách mạng mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
2.Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin

18




×