Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.99 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH LÂM TÙNG

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM
TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH LÂM TÙNG

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM
TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. TRẦN NGỌC HƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Nguyễn Thanh Lâm Tùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI ............................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng con
người. .......................................................................................................................... 7
1.2. Nội dung kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng con người ............. 14
1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tội xâm phạm
tính mạng của con người ........................................................................................... 15
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI ..... 21
2.1. Quy định về kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền điều tra ................................................................................................... 21
2.2. Quy định về kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn 33
2.3. Quy định về kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham

gia tố tụng và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác .................................................. 36
2.4. Quy định về trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện yêu cầu và
quyết định của Viện kiểm sát .................................................................................... 38
Chương 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÍNH
MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ............... 41
3.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính
mạng của con người ở tỉnh Quảng Bình ................................................................... 41
3.2. Thực tiễn kiểm sát điều tra tội phạm xâm phạm tính mạng của con ngừi trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua .................................................................. 44
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra tội xâm phạm tính mạng
của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới .............................. 62
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT


: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

KSĐT

: Kiểm sát điều tra

NXB

: Nhà xuất bản

TTLT

: Thông tư liên tịch

THQCT

: Thực hành quyền công tố

VKS

: Viện kiểm sát


VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

KSXX

: Kiểm sát xét xử


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại
những chuyển biến hết sức tích cực: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng
cường; nghèo đói giảm nhanh; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã
hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, an ninh được bảo đảm; thế và lực của
quốc gia được tăng cường; niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của

Ðảng được củng cố.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, mặt trái của xã hội cũng bộc lộ, tình hình
hoạt động của tội phạm hình sự diễn biến hết sức phức tạp, có chiều hướng gia tăng
về cả số vụ, cả về tính chất, mức độ phạm tội với thủ đoạn ngày càng liều lĩnh, tinh
vi, xảo quyệt. Đặc biệt bọn tội phạm cấu kết thành các băng, ổ, nhóm thực hiện các
hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu như: trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài
sản, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người v.v. gây lo lắng, bất bình trong
nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và cuộc sống yên bình của nhân dân.
Phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm tính
mạng con người trong phạm vi cả nước nói chung, tỉnh Quảng Bình nói riêng không
những là nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền mà còn là trách nhiệm của các tổ
chức xã hội và của cả mọi người dân.
Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm tính
mạng con người nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, trong thời gian qua đã có
nhiều cố gắng và đạt được những kết quả nhất định. Cơ quan điều tra đã điều tra
khám phá được nhiều vụ án nhưng cũng còn nhiều vụ chưa khám phá được hoặc
khám phá được nhưng khi xử lý lại còn nhiều bất cập như để lọt tội phạm, khởi tố
không đúng tội danh, quá trình điều tra thiếu chứng cứ quan trọng dẫn đến việc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung nên tiến độ giải quyết án kéo dài quá hạn luật định làm
cho việc giải quyết vụ án chưa kịp thời theo đúng quy định làm cho nhân dân không
tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Những tồn tại, hạn chế trên có nhiều


2

nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do năng lực trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề
nghiệp, vận dụng các quy định của pháp luật của ĐTV, KSV còn hạn chế. Công tác
phối hợp giữa CQĐT và VKS, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo
VKS về giải quyết án hình sự nói chung, án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con
người nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình còn tồn tại, vướng mắc. Do vậy, công

tác kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người ở Quảng Bình là
vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để có những giải pháp khắc phục những tồn tại,
yếu kém và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiện quả công tác kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm tính mạng của con người của 2 cấp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình, đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong giai
đoạn hiện nay.
Vì những lý do đó nên trên, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra các vụ án
xâm phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn
thạc sĩ là vấn đề có tính cấp thiết đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu hiện nay có một số công trình ở các mức độ
khác nhau đề cập đến vấn đề này. Có thể liệt kê một số công trình sau:
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp",Viện Khoa học kiểm sát VKSND tối cao;
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08NQ/TW của Bộ Chính trị", Viện Khoa học kiểm sát - VKSND tối cao;
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự của Viện kiểm sát (Tạp chí Luật học số 01/2004) của TS. Hoàng Thị Minh Sơn;
Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
01/2003) của tác giả Hà Mạnh Trí;
Đề án Đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm thực hiện chủ trương


3

“Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra” theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng - VKSNDTC năm 2012;
“Giải quyết vấn đề lý luận về Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” theo yêu cầu cải cách tư pháp

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế (năm
2012 tác giả Trần Ngọc Hương, Chuyên đề nhánh trong Đề án Đổi mới tổ chức và
hoạt động của VKSND nhằm thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” theo Nghị quyết
Đại hội lần thứ XI của Đảng - VKSNDTC năm 2012);
Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp của tác giả Nguyễn Tất
Viễn (Kỷ yếu đề tài cấp Bộ “Những giải pháp nâng cao thực hành quyền công tố và
kiếm sát các hoạt động tư pháp”, VKSNDTC, H.2002 – 2003);
Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta
hiện nay của tác giả Trần Văn Độ (Kỷ yếu đề tài cấp Bộ “Những giải pháp nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”,
VKSNDTC, H.2003);
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
VKSNDTC đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp – năm 2013 của tác giả Đặng Văn
Khanh (Đề tài khoa học cấp Bộ);
Thực hành Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra (Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2005) của TS. Lê Hữu Thể (chủ biên), TS.Đỗ
Văn Đương, Th.S Nông Xuân Trường;
Một số Luận văn thạc sĩ luật học như: "Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố và điều tra hình sự", 1996 của Trần Huy
Hùng; "Chức năng Kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình
sự", 1999 của Đặng Văn Minh:
; "Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra hình sự", 1999 của
Nguyễn Hợp Phố; "Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự” của Vũ Đức Hạnh v.v.


4

Cùng với đó, còn có nhiều bài viết về chủ đề này được đăng tải trên các tạp chí

chuyên ngành luật như “Một số vướng mắc, bất cập trong thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự” của tác giả Huỳnh Quốc Hùng, tạp chí Kiểm
sát số 10/2009; ”Những vướng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
viện kiểm sát trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự” của Đinh Xuân Thảo, tạp chí
Kiểm sát số 16/2009; “Nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát và kiểm sát viên
trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” của tác giả
Hoàng Nghĩa Mai, tạp chí kiểm sát số 3/2008.
Nhìn chung các công trình kể trên, ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến đề
tài luận văn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu đến vấn đề
“Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý
luận, pháp luật về hoạt động KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với các vụ
án xâm phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng, luận
văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động KSĐT các vụ án
xâm phạm tính mạng của con người.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
như khái niệm, đặc điểm, nội dung và phạm vi KSĐT các vụ án xâm phạm tính
mạng của con người.
- Làm rõ quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về kiểm sát điều
tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người của Viện kiểm sát nhân dân.
- Làm rõ thực trạng kiểm sát điều tra, những vướng mắc, hạn chế, thiếu sót
trong công tác KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng của con người của Viện kiểm



5

sát hai cấp tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng của con người.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm
tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình với thời điểm từ năm 2014
đến năm 2017.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm
phạm tính mạng của con người từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự đến khi
kết thúc điều tra.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong
các Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08/NQTW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQTW ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể
như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương
pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học v.v.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của

VKSND khi KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng con người, góp phần xây dựng,


6

hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và khoa học
điều tra hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành
cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các
nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình
sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc
trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
CQĐT, VKS, Tòa án v.v. trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính
mạng của con người.
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm tính mạng con người.
Chương 3. Thực tiễn thực hiện và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát điều
tra các vụ án xâm phạm tính mạng con người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI

1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính
mạng con người.
1.1.1. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng con
người.
- Khái niệm tội xâm phạm tính mạng của con người
Tội phạm, theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam
bảo vệ. Đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Mỗi một tội phạm đều cấu tạo bởi 4 yếu tố cấu thành bao gồm: Khách thể của
tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của
tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không thoả mãn 4 yếu tố cấu
thành tội phạm thì không bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi này không
phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, mỗi một tội phạm đều có những dấu hiệu
đặc trưng riêng, đây chính là cơ sở để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật
hình sự nói riêng và pháp luật nói chung bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo
vệ tính mạng, sức khoẻ, vì đó là những điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với
con người. Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định
các tội xâm phạm tính mạng của con người gồm các điều:


8

- Tội giết người (Điều 93);

- Tội giết con mới đẻ (Điều 94);
- Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95);
- Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96);
- Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97);
- Tội vô ý làm chết người (Điều 98);
- Tội vô ý làm chết người do vi phạm qui tắc nghề nghiệp (Điều 99);
- Tội bức tử (Điều100);
- Tội xúi giục hoặc gúp người khác tự sát (Điều 101);
- Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
(Điều 102);
- Tội đe doạ giết người (Điều 103);
- Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117);
- Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118);
Căn cứ vào các điều luật nêu trên, cũng như căn cứ vào các yếu tố cấu thành
tội phạm của các tội xâm phạm tính mạng của con người, tác giả luận văn đồng ý
với khái niệm chung về các tội xâm phạm tính mạng của con người của các nhà
nghiên cứu luật học. Đó là, khái niệm “Các tội xâm phạm tính mạng là những hành
vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm quyền được
tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác.”
- Khái niệm kiểm sát điều tra
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000 thì kiểm sát có
nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước. Theo Từ điển
bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng Quốc gia biên soạn thì kiểm
sát là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ
pháp luật của cơ quan nhà nước.
Với cách hiểu trên thì kiểm sát gồm hai hoạt động cơ bản là giám sát và kiểm
tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị



9

giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động phù hợp để yêu cầu
người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật sửa chữa vi phạm đó. Hoạt
động kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá hoạt động của người, cơ quan bị kiểm
tra.
Khoa học luật TTHS Việt Nam hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về
khái niệm “Kiểm sát điều tra”. Theo đó, nội dung của khái niệm “kiểm sát” là hoạt
động kiểm tra, giám sát, với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp
luật. Nhưng khái niệm nêu trên còn chung chung, chưa chỉ ra được chủ thể của hoạt
động kiểm sát.
Theo quy định của pháp luật hiện hành: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” (Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014). [19]
Như vậy, “kiểm sát” là một loại quyền lực của Nhà nước, do Viện kiểm sát
thực hiện với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp luật của Nhà
nước nói chung và của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng trong lĩnh vực TTHS nói riêng.
Tuy nhiên, hoạt động “kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà
nước” trong TTHS không chỉ có VKS, mà còn có các chủ thể khác như: người tham
gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và toàn thể xã
hội nói chung. Quyền “kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước”
trong tố tụng hình sự của các chủ thể khác xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản
của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và quyền công dân. Đối
với những chủ thể này, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng không phải là chức năng hoạt động giống như Viện kiểm
sát, mà là các quyền, nghĩa vụ phái sinh từ chức năng hoạt động hay các quyền, các
hoạt động mang tính tự nguyện nhằm hướng tới việc phát hiện kịp thời vi phạm
pháp luật và loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân trong

tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các hoạt động trên không thể coi là hoạt động kiểm sát


10

việc tuân theo pháp luật (hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước) trong tố tụng
hình sự, mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của các
chủ thể khác chính là hình thức thực hiện các quyền năng mà pháp luật TTHS cho
phép (tính được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước). Chính điều này làm cho hoạt
động giám sát của các chủ thể khác không thể hiện được tính ưu việt giống như hoạt
động “kiểm sát” của Viện kiểm sát.
- Về đối tượng của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật hiện hành xuất hiện hai thuật ngữ “kiểm
sát hoạt động tư pháp” (theo Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND hiện hành) và
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật” (theo BLTTHS hiện hành) để cùng nói về chức
năng kiểm sát của VKSND trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Việc này gây khó hiểu
cho người nghiên cứu.
Theo Từ điển luật học do Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp xuất bản năm
2006, thì “kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi việc
tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giam
giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp,
kiện tụng trong nhân dân nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất”. [27]
Theo khái niệm này thì đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh
vực TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong lĩnh vực tố tụng
hình sự.
Nhưng theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS của VKS nhằm kịp thời phát hiện vi phạm
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham

gia tố tụng, áp dụng những biện pháp theo quy định của BLTTHS hiện hành để loại
trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này (Khoản 2 Điều 23
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Theo quy định này, đối tượng của hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS không chỉ là hoạt động của các cơ


11

quan tiến hành tố tụng, mà còn bao gồm hoạt động của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng.
Do đó, khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS rộng hơn khái
niệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự [17]. Theo quy định của
pháp luật TTHS hiện nay, khái niệm “kiểm sát điều tra vụ án hình sự” cần được
hiểu là “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự”.
Về thuật ngữ “tuân theo pháp luật” trong “kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong điều tra vụ án hình sự” cũng cần được hiểu thống nhất. “Tuân theo pháp luật”
cần được hiểu là một thuật ngữ pháp lý thống nhất mang tính chỉnh thể để chỉ một
trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Theo lý luận chung về pháp luật, bốn hình
thức thực hiện pháp luật gồm: Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành
những hoạt động mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở
hình thức này; thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lí của mình bằng hành động tích
cực; sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện quyền, tự do pháp lí của mình (những hành vi mà pháp luật cho phép
chủ thể tiến hành); áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn
cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi,
đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.

Như vậy, “tuân theo pháp luật” chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật ở mức
độ tự giác thấp. Nếu hiểu “tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự” như trên thì nội hàm của thuật ngữ “kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự” sẽ bị thu hẹp lại đáng kể.
Trong khi đó, pháp luật thực định cho thấy đối tượng của “kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giai đoạn điều tra” không chỉ có hoạt động tuân theo pháp luật ở mức
độ tự giác thấp mà còn có những hoạt động thực hiện pháp luật ở mức độ cao hơn và


12

những hoạt động này chiếm tỉ lệ đa số. Đó là những hoạt động áp dụng pháp luật, sử
dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong
giai đoạn điều tra. Việc “tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự” ở góc độ
thực tế phải bao hàm tất cả các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên.
Bởi vậy, đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện pháp luật của CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn điều tra vụ án
hình sự.
Nội dung của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự là tổng hợp những
hoạt động mà pháp luật TTHS quy định mà VKS phải thực hiện khi kiểm sát điều
tra vụ án hình sự.
Như đã phân tích trên, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì, VKSND thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Đồng thời BLTTHS năm 2003 quy định, VKSND kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp
dụng những biện pháp do bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật

của những cơ quan hoặc cá nhân này.
Gắn liền với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra là các công tác kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra.
Kiểm sát điều tra là một bộ phận cấu thành của kiểm sát các hoạt động tư pháp chức năng hiến định thứ hai của VKSND trong lĩnh vực tố tụng hình sự, cùng với
chức năng thực hành quyền công tố.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình TTHS do Cơ quan có
thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tiến hành nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng
minh về tội phạm. Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn khởi tố
được tiến hành trên cơ sở quyết định khởi tố của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.


13

Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố và kết thúc khi CQĐT
hoàn thành bản kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm
tính mạng con người như sau: “Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng
con người là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra đối với hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người khác
một cách trái pháp luật; của những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác trong điều tra vụ án hình sự theo quy định của pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con
người
Từ việc nhận thức về hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng của
con người nói chung cho thấy, hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính
mạng của con người có một số đặc điểm cụ thể như sau:
Thứ nhất, kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người là
một trong những chức năng của Viện kiểm sát nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ

với chức năng hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong
điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người.
Thứ hai, hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, kiểm sát việc giám định để xác định nguyên nhân chết người...là những hoạt
động đặc trưng của kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người
trong giai đoạn điều tra.
Thứ ba, hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con
người chỉ do VKSND tiến hành theo quy định của pháp luật. Chủ thể thực hiện hoạt
động KSĐT chỉ có thể là KSV và Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND có thẩm
quyền và có sự phối hợp với các chủ thể khác có liên quan theo quy định của
BLTTHS, Luật tổ chức VKSND. Thông qua việc thực hiện chức năng này, VKSND
góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích nhà


14

nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh
trước pháp luật.
Thứ tư, quá trình kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con
người, KSV chỉ được áp dụng các biện pháp và phương tiện theo quy định của pháp
luật và theo chức năng, quyền hạn của ngành Kiểm sát nhân dân và của KSV trong
giai đoạn điều tra vụ án. Hoạt động KSĐT của VKSND trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm tính mạng của con người, được diễn ra trực tiếp, đồng thời và đề
cập một cách toàn diện mọi hành vi tố tụng của giai đoạn điều tra; Hoạt động này
chịu sự chi phối bởi đặc điểm của hoạt động điều tra của CQĐT, nhằm mục đích
bảo đảm tuân thủ pháp luật trong giai đoạn điều tra, tạo điều kiện cho giai đoạn truy
tố, xét xử.
Thứ năm, hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng con
người được tiến hành từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi vụ
án được chuyển sang giai đoạn truy tố. Hoạt động KSĐT của VKSND được tiến

hành công khai theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS và các văn bản hướng dẫn
thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ sáu, đối tượng của hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính
mạng của con người, chủ yếu là các hành vi và quyết định của cơ quan cơ quan cảnh
sát điều tra cấp tỉnh. Theo quy định của pháp luật TTHS thì tội xâm phạm tính mạng
của con người thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh.
1.2. Nội dung kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thứ nhất, kiểm tra tính hợp pháp hành vi, quyết định... của cơ quan tiến hành
điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người: kiểm sát việc khởi tố bị can;
kiểm sát các hoạt động điều tra trong vụ án xâm phạm tính mạng của con người như
kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; kiểm sát hoạt động hỏi
cung bị can; kiểm sát hoạt động lấy lời khai người làm chứng; kiểm sát hoạt động
khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản của Cơ quan điều tra...; kiểm sát quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra tội xâm phạm tính mạng của con người của Cơ
quan Cảnh sát điều tra; kiểm sát hoạt động lập hồ sơ vụ án xâm phạm tính mạng của


15

con người; kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong vụ án
xâm phạm tính mạng của con người
Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong
điều tra vụ án xâm phạm tính mạng của con người. Theo quy định của pháp luật thì,
VKS kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố
tụng vi phạm pháp luật. Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của BLTTHS. Thực hiện quyền
năng này KSV chủ động yêu cầu Điều tra viên giải thích và đảm bảo thực hiện
quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can và những người tham gia tố

tụng khác trong hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Việc giải thích
quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng phải được ghi vào biên bản và đưa
vào hồ sơ vụ án theo quy định BLTTHS. Mọi vi phạm pháp luật liên quan đến việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng phải được phát hiện và
khắc phục kịp thời.
Thứ ba, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát điều tra vụ án xâm
phạm tính mạng của con người. Đó là các hoạt động như, giải quyết tranh chấp về
thẩm quyền điều tra; Yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết; Kiến nghị, yêu
cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra; Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi
Điều tra viên, cán bộ điều tra; xử lý nghiêm minh Điều tra viên, cán bộ điều tra vi
phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng; Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp
dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; Thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn khác trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.
1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tội


16

xâm phạm tính mạng của con người
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
(nay là BLTTHS năm 2015) và Luật Tổ chức VKSND năm 2014, THQCT và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật là hai chức năng của VKS trong tố tụng hình sự. Theo
đó, thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. VKSND thực hành

quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, đây cũng chính là kiểm sát các hoạt
động tư pháp hình sự. Hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động của các chủ thể trong
các giai đoạn tố tụng hình sự, là hoạt động chỉ do các cơ quan tư pháp và các cơ
quan được giao thực hiện một số thẩm quyền về tư pháp thực hiện. Mục đích của
kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự. Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do BLTTHS quy
định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan tư pháp hoặc cán bộ tư
pháp nào. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong đấu tranh chống tội phạm,
Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà
nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu


17

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có
trách nhiệm THQCT.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS có hai chức năng là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Việc thực hiện đồng thời hai hoạt động THQCT và

kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang tính
khách quan; do vậy, giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với nhau. Mối
quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
- Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là bảo đảm việc phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT đuợc chính
xác, đúng pháp luật, đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp
của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng, hoạt
động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy rằng, quyết định áp dụng các biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết định phê
chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế
về tố tụng hình sự của CQĐT không có căn cứ và không hợp pháp, VKS sẽ quyết
định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của
CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng. Theo quy
định của BLTTHS năm 2003 (nay là BLTTHS năm 2015) quyết định khởi tố bị can
của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn hay huỷ bỏ
quyết định khởi tố bị can của CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can của CQĐT nhằm bảo đảm quyết
định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp, nếu qua hoạt động kiểm sát xét thấy
quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì VKS quyết định phê chuẩn để
CQĐT tiến hành hoạt động điều tra, ngược lại quyết định khởi tố bị can không có
căn cứ thì VKS quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can của CQĐT.


18

Việc thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiền đề cho hoạt
động THQCT được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi phạm trong việc

thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra sẽ kéo theo sự vi
phạm pháp luật của hoạt động THQCT. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra khi hoạt
động THQCT của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát sinh hoạt động
kiểm sát. Ví dụ, khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của CQĐT thì làm phát sinh
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ người bị bắt của CQĐT
nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh và quyết định phê chuẩn của VKS,
đồng thời bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng theo quy định của pháp luật.
Khi truy tố bị can ra Toà án để xét xử, tức là VKS đã THQCT, hoạt động đó
thể hiện qua việc ban hành quyết định truy tố. Quyết định truy tố của VKS phải bảo
đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp, điều đó có nghĩa là VKS trong giai đoạn truy
tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật. Muốn bảo đảm quyết định truy tố có
căn cứ phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động KSĐT vụ án của VKS, nếu thực
hiện tốt hoạt động KSĐT, VKS sẽ nắm được nội dung của vụ án, những tình tiết
buộc tội, tình tiết gỡ tội của bị can và những tình tiết liên quan khác của vụ án, đó
chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
ngược lại, nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động KSĐT có thể dẫn đến việc truy
tố oan, sai. Do đó, hoạt động KSĐT là cơ sở vững chắc cho hoạt động THQCT
trong giai đoạn truy tố, xét xử và hoạt động THQCT trong giai đoạn truy tố là tiền
đề làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS tại phiên toà
xét xử.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp và THQCT trong điều tra vụ án hình sự luôn có
mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với nhau, nhiệm vụ của hoạt
động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược lại, kết quả của hoạt
động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại. Mối quan hệ
biện chứng giữa hai hoạt động THQCT và KSĐT chỉ song song tồn tại trong phạm vi
bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến kết thúc điều tra.
Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, THQCT là việc VKS thực hiện các


19


biện pháp pháp luật và trực tiếp quyết định các vấn đề về tố tụng trong hoạt động
điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như hành vi
phạm tội. KSĐT là việc VKS thực hiện các biện pháp giám sát, mục đích nhằm bảo
đảm các hoạt động điều tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan
theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung của pháp luật quy định, không trực tiếp ra
quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi phạm pháp luật tố tụng xảy ra hoặc kiến nghị
yêu cầu khắc phục các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm. Hai lĩnh vực này
song song tồn tại, giữa chúng tuy độc lập về chức năng, nhưng có tác động qua lại
lẫn nhau. Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho KSĐT thực hiện vai
trò của mình, như tạo điều kiện cho KSĐT tiếp cận các biện pháp điều tra nhằm duy
trì pháp luật, phát hiện, khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng; làm tốt nhiệm vụ
KSĐT sẽ giúp cho công tác THQCT phát huy khả năng quyết định quá trình tố
tụng, như bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái pháp luật của CQĐT một cách
có căn cứ, đúng pháp luật. Như vậy, hoạt động THQCT và KSĐT được tiến hành
song song và hỗ trợ lẫn nhau nhằm không để bất kỳ người nào bị bắt giữ, khởi tố
trái pháp luật, không để lọt tội và không làm oan người vô tội, đảm bảo cho việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải đúng pháp luật và có căn
cứ, việc điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, chính xác và đúng
pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện và khắc
phục kịp thời.
Thực hành quyền công tố là những biện pháp do Viện kiểm sát trực tiếp ra
quyết định còn kiểm sát hoạt động tư pháp là những biện pháp do Viện kiểm sát
không trực tiếp quyết định mà kiến nghị, kháng nghị và yêu cầu các cơ quan hữu
quan khắc phục.
Kết luận chương 1
Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng của con người là một trong
những nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở



×