Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người từ thực tiễn tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.5 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THÁI TRUNG
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM
TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MẠNH HÙNG
Hà Nội, 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.Tính c p thi t c a t i ấ ế ủ đề à 1
2. Tình hình nghiên c uứ 3
3. M c ích, nhi m v v ph m vi nghiên c uụ đ ệ ụ à ạ ứ 4
4. Ph ng pháp lu n v các ph ng pháp nghiên c uươ ậ à ươ ứ 5
5. Nh ng i m m i óng góp c a lu n v nữ đ ể ớ đ ủ ậ ă 6
6. Ý ngh a lý lu n v th c ti nĩ ậ à ự ễ 6
7. K t c u c a lu n v nế ấ ủ ậ ă 7
Chương 1: 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ CỦA CON NGƯỜI 8
1.1. Nh n th c chung v các t i xâm ph m tính m ng, s c kho c a conậ ứ ề ộ ạ ạ ứ ẻ ủ
ng i theo quy nh c a B lu t hình s hi n h nhườ đị ủ ộ ậ ự ệ à 8
1.2. Khái ni m ki m sát i u tra các v án xâm ph m tính m ng, s c ệ ể đ ề ụ ạ ạ ứ
kho c a con ng iẻ ủ ườ 11
1.2.1. Khái ni m ki m sát i u traệ ể đ ề 11
1.2.2. Khái ni m ki m sát i u tra các v án xâm ph m tính m ng, ệ ể đ ề ụ ạ ạ
s c kho c a con ng iứ ẻ ủ ườ 15


1.3. N i dung công tác ki m sát i u tra các v án xâm ph m tính ộ ể đ ề ụ ạ
m ng, s c kho c a con ng iạ ứ ẻ ủ ườ 17
1.3.1. Ki m sát vi c gi i quy t t giác, tin báo t i ph m v ki n ngh ể ệ ả ế ố ộ ạ à ế ị
kh i t .ở ố 17
1.3.2. Ki m sát vi c kh i t v án, kh i t b can.ể ệ ở ố ụ ở ố ị 19
1.3.3. Ki m sát vi c áp d ng, thay i, h y b các bi n pháp ng n ể ệ ụ đổ ủ ỏ ệ ă
ch n trong v án xâm ph m tính m ng, s c kho c a con ng iặ ụ ạ ạ ứ ẻ ủ ườ 21
1.3.4. Ki m sát khám nghi m hi n tr ngể ệ ệ ườ 24
1.3.5. Ki m sát ho t ng h i cung b canể ạ độ ỏ ị 26
1.3.6. Ki m sát vi c ình ch i u tra, ph c h i i u traể ệ đ ỉ đ ề ụ ồ đ ề 28
1.3.7. Ki m sát vi c l p h s v án.ể ệ ậ ồ ơ ụ 29
Ti u k t Ch ng 1ể ế ươ 31
Chương 2: 32
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN 32
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ CỦA CON NGƯỜI 32
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH YÊN BÁI 32
2.1. c i m tình hình có liên quan v c c u t ch c c a Vi n ki m Đặ đ ể à ơ ấ ổ ứ ủ ệ ể
sát nhân dân t nh Yên Báiở ỉ 32
2.1.1. c i m tình hình t nhiên v tình hình kinh t - xã h i Đặ đ ể ự à ế ộ ở
t nh Yên Báiỉ 32
2.1.2. C c u t ch c c a Vi n ki m sát nhân dân t nh Yên Báiơ ấ ổ ứ ủ ệ ể ỉ 34
2.2. Tình hình t i ph m v th c tr ng công tác ki m sát i u tra các v ộ ạ à ự ạ ể đ ề ụ
án xâm ph m tính m ng, s c kho c a con ng i c a Vi n ki m sát ạ ạ ứ ẻ ủ ườ ủ ệ ể
nhân dân t nh Yên Báiở ỉ 36
2.2.1. Tình hình t i ph m xâm ph m tính m ng, s c kho c a con ộ ạ ạ ạ ứ ẻ ủ
ng i t n m 2010 n n m 2014ườ ừ ă đế ă 36
2.2.2. Th c tr ng công tác ki m sát i u tra các v án xâm ph m tínhự ạ ể đ ề ụ ạ
m ng, s c kho c a con ng i c a Vi n ki m sát nhân dân t nh ạ ứ ẻ ủ ườ ủ ệ ể ở ỉ
Yên Bái t n m 2010 n n m 2014ừ ă đế ă 39
2.2.3. K t qu t c, nh ng m t h n ch v nguyên nhânế ả đạ đượ ữ ặ ạ ế à 49

Ti u k t Ch ng 2ể ế ươ 56
Chương 3: 57
DỰ BÁO TÌNH HÌNH, CÁC QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM 57
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ CỦA CON NGƯỜI 57
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH YÊN BÁI 57
3.1. D báo tình hình v các y u t nh h ng n công tác ki m sát ự ề ế ố ả ưở đế ể
i u tra các v án xâm ph m tính m ng, s c kho c a con ng i t nh đ ề ụ ạ ạ ứ ẻ ủ ườ ở ỉ
Yên Bái trong th i gian t iờ ớ 57
3.2. Các quan i m ch o c a ng v công tác ki m sát i u tra các đ ể ỉ đạ ủ Đả ề ể đ ề
v án xâm ph m tính m ng, s c kho c a con ng i trên a b n t nh ụ ạ ạ ứ ẻ ủ ườ đị à ỉ
Yên Bái 58
3.3. M t s gi i pháp nh m nâng cao hi u qu công tác ki m sát i u ộ ố ả ằ ệ ả ể đ ề
tra các v án xâm ph m tính m ng, s c kho c a con ng i trên a ụ ạ ạ ứ ẻ ủ ườ đị
b n t nh Yên Báià ỉ 60
K T LU NẾ Ậ 69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 26/7/1960 Ngành Kiểm sát nhân dân được thành lập. Trong hơn
50 năm xây dựng và phát triển, Ngành Kiểm sát đã có nhiều chuyển biến tích
cực trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên nhằm
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân; bảo vệ tài sản,
tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của con người; bảo đảm xử
lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tập thể,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, công cuộc đổi
mới của đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt về kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao, đất

nước ta ngày càng vững bước đi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Cùng với những thành tựu đã đạt được, nhiều vấn đề tiêu cực trong xã
hội cũng nảy sinh, trong đó tình hình tội phạm nói chung, tội phạm xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ của con người nói riêng cũng nhiều diễn biến
phức tạp và có hướng gia tăng. Trong bối cảnh chung đó, tình hình tội phạm
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người trên địa bàn tỉnh Yên Bái cũng
có những diễn biến phức tạp. Đứng trước tình hình trên, đòi hỏi các cơ quan
tiến hành tố tụng, trong đó có Viện kiểm sát phải tăng cường hơn nữa các
hoạt động phòng, chống loại tội phạm này trong phạm vi thực hiện chức năng
của ngành.
Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát từ khi thành lập đến nay luôn được Đảng và Nhà nước quan
tâm, chỉ đạo sát sao. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: "Hoàn thiện pháp luật
1
về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng đảm bảo thực hiện tốt
chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp". Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: “Hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng đảm bảo thực hiện tốt chức
năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 xác định: “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động
điều tra”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đã tiếp tục khẳng định:
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo

vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính
sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Đổi mới
hệ thống tổ chức toà án theo thẩm quyền xét xử, mở rộng thẩm
quyền xét xử đối với các khiếu kiện hành chính; Viện kiểm sát
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án, bảo đảm các
điều kiện để thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
Nhà nước, được sự chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh uỷ Yên Bái và của Viện kiểm
sát nhân dân Tối cao, trong những năm qua ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh
Yên Bái đã có nhiều cố gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao
trong đó có công tác kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ và đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ, số vụ án bị phát hiện và
xử lý ngày càng tăng, số vụ án trả điều tra bổ sung rất ít và đang có xu hướng
giảm, không có vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người Viện
kiểm sát truy tố, tòa án tuyên không phạm tội; những kết quả trên đã góp
2
phần tuyên truyền pháp luật cũng như đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, góp
phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp,
công tác kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con
người ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái vẫn còn những tồn tại, thiếu sót
cần được khắc phục, trong đó có nguyên nhân từ nhận thức và hiệu quả áp
dụng pháp luật và kiểm sát hoạt động điều tra, điều này dẫn đến vẫn còn tồn
tại tình trạng tổng hợp, đánh giá chứng cứ chưa thực sự khách quan, còn tình
trạng bỏ lọt tội phạm v.v
Những yếu kém, tồn tại trên có nhiều nguyên nhân chủ quan. Trong đó
chủ yếu là do năng lực trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp, vận dụng
các quy định của pháp luật hình sự nói chung cũng như các quy định và

hướng dẫn về án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người nói riêng của
ĐTV, KSV còn nhiều bất cập, yếu kém.
Thực tế nêu trên cho thấy, công tác kiểm sát điều tra các vụ án xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ của con người ở Yên Bái là vấn đề cần được tiếp
tục nghiên cứu để có những giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém và
nâng cao hơn nữa chất lượng, hiện quả công tác kiểm sát điều tra các vụ án
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người của 2 cấp của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Yên Bái, đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, học viên chọn đề tài: “Kiểm
sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người từ
thực tiễn tỉnh Yên Bái” làm luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát, hiện nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ, có thể kể đến các công trình sau:
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp",Viện Khoa học kiểm
sát - VKSND tối cao; đề tài khoa học cấp Bộ: "Vai trò của Viện kiểm sát
3
trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị", Viện Khoa học kiểm
sát - VKSND tối cao; trong các luận văn như: Luận văn của các tác giả Trần
Huy Hùng: "Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn
khởi tố và điều tra hình sự", 1996; Đặng Văn Minh: "Chức năng Kiểm sát
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự", 1999; Nguyễn
Hợp Phố: "Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra hình sự",
1999; Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội của
Vũ Đức Hạnh: "Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự”;
Cùng với đó, còn có nhiều bài viết về chủ đề này được đăng tải trên các tạp
chí chuyên ngành luật như “Một số vướng mắc, bất cập trong thực hành

quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự” của tác giả Huỳnh
Quốc Hùng, tạp chí Kiểm sát số 10/2009;”Những vướng mắc trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong kiểm sát điều tra vụ án hình
sự” của Đinh Xuân Thảo, tạp chí Kiểm sát số 16/2009; “Nâng cao trách
nhiệm của Viện kiểm sát và kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội “ của tác giả Hoàng Nghĩa Mai,
tạp chí kiểm sát số 3/2008.
. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chức năng kiểm sát
điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người trên địa bàn
tỉnh Yên Bái gắn với yêu cầu cải cách tư pháp.
Với vai trò ý nghĩa của việc kiểm sát điều tra, cũng như tình hình nghiên
cứu nêu trên lý giải cho tác giả chọn việc nghiên cứu "Kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người từ thực tiễn tỉnh Yên Bái
" làm luận văn cao học luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
4
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên pháp luật về
hoạt động KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Yên Bái nói riêng và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động KSĐT các vụ án
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong hoạt động KSĐT nói chung và KSĐT các vụ án xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động KSĐT các vụ án xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Yên Bái, đồng thời

phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
hoạt động của VKS trong KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động KSĐT đối với các vụ
án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động KSĐT các vụ án xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người trong thời gian từ năm 2010 đến
năm 2014 trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách
tư pháp được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và các
Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQTW ngày
26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
5
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả
đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy
nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa
học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới đóng góp của luận văn
- Luận văn đã khảo cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
- Luận văn cũng đánh giá, phân tích những hạn chế trong hoạt động
của VKSND khi KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người, thông qua đó, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của

VKSND trong hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của
VKSND khi KSĐT các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người,
góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật hình sự, Luật tố
tụng hình sự và khoa học điều tra hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên
cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu
cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các CQĐT, VKS, Tòa án và cơ
quan thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có
căn cứ và đúng pháp luật.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công tác kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ của con người trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Chương 3: Dự báo, các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của
con người trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
7
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ CỦA CON NGƯỜI

1.1. Nhận thức chung về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của
con người theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
Điều 8 BLHS năm 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”
Đây là khái niệm mang tính pháp lý xác định hành vi nào là tội phạm
được quy định trong BLHS, đồng thời cũng là cơ sở cho việc nhận thức và áp
dụng đúng đắn những điều luật quy định về từng tội phạm cụ thể trên thực tế.
Về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, BLHS nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 quy định tại Chương XII, gồm các tội sau:
- Các tội xâm phạm tính mạng của con người:
Nhóm tội này gồm các tội được quy định trong BLHS:
+ Tội giết người (Điều 93)
+ Tội giết con mới đẻ (Điều 94)
+ Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95)
+ Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96)
+ Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97)
+ Tội vô ý làm chết người (Điều 98)
+ Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính (Điều 99)
+ Tội bức tử (Điều 100)
+ Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát (Điều 101)
+ Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng (Điều 102)
+ Tội đe doạ giết người (Điều 103)

8
+ Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117)
+ Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118)
Dấu hiệu pháp lý của nhóm tội này là:
Khách thể của tội phạm: Khách thể của nhóm tội này là quyền sống,
quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, đây cũng là một
trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ.
Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan thể hiện ra bên ngoài
rất đa dạng, phong phú, nhưng có điểm chung là đều có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến tính mạng của con người. Hành vi
khách quan của nhóm tội này có thể là hành động hoặc không hành động.
Chủ thể của tội phạm: Hầu hết chủ thể của nhóm tội này là những người
có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Chỉ có hai tội là
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) và Tội bức tử (Điều
100) là cần có những đặc điểm đặc biệt thì mới cấu thành tội phạm. Chủ thể
của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ phải là những người được
giao nhiệm vụ, quyền hạn và tại thời điểm phạm tội người đó đang thi hành
công vụ. Chủ thể của tội bức tử và nạn nhân phải có mối quan hệ lệ thuộc;
hay nói cách khác, nạn nhân là người bị lệ thuộc về các mặt vật chất và tinh
thần như: lệ thuộc về kinh tế; bị ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng, quan hệ công tác, thầy trò hoặc quan hệ tôn giáo
Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi là biểu hiện quan trọng nhất trong mặt
chủ quan của tội phạm. Nhóm tội xâm phạm tính mạng sức khoẻ có thể có lỗi
cố ý (các tội tại các điều 93, 94, 95, 96, 100, 101, 102, 103 BLHS ) hoặc lỗi
vô ý (các tội tại các Điều 98, 99 BLHS).
Hình phạt: Có nhiều mức hình phạt khác nhau cho nhóm tội xâm phạm tính
mạng. Khoảng cách giữa mức hình phạt thấp nhất là cảnh cáo và cao nhất là tử
hình. Ngoài hình phạt chính thì có một số tội có quy định về hình phạt bổ sung là
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm các tội xâm phạm

tính mạng của con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng
9
lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quyền
sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người.
- Các tội xâm phạm sức khoẻ con người
Nhóm tội này gồm các tội được quy định trong BLHS:
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác (Điều 104)
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105)
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106)
+ Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
trong khi thi hành công vụ (Điều 107)
+ Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác (Điều 108)
+ Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109)
+ Tội hành hạ người khác (Điều 110).
Dấu hiệu pháp lý của nhóm tội này là:
+ Khách thể của nhóm tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức
khoẻ của con người.
+ Hành vi khách quan của nhóm tội này là những hành vi gây tổn hại
cho sức khoẻ con người. Hầu hết các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ đều
có dấu hiệu hậu quả của hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc, trừ Tội
hành hạ người khác quy định tại Điều 110 BLHS là không bắt buộc dấu hiệu
hậu quả.
Hầu hết chủ thể của nhóm tội này là chủ thể thường, không cần có dấu
hiệu đặc trưng; chỉ có hai tội là Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107 BLHS) và

Tội hành hạ người khác (Điều 110 BLHS) là yêu cầu chủ thể đặc biệt. Tội
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi
thi hành công vụ đòi hỏi người phạm tội là người đang thi hành công vụ;
10
Tội hành hạ người khác đòi hỏi nạn nhân phải có quan hệ lệ thuộc với
người phạm tội.
Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của nhóm tội này có thể là lỗi cố ý hoặc
lỗi vô ý. Ngoài yếu tố lỗi thì một số tội có yếu tố động cơ phạm tội là dấu
hiệu định khung tăng nặng như Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác được quy định tại Điều 104 BLHS; hoặc động cơ
phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy
định tại Điều 106 BLHS.
Hình phạt: Ngoài hình phạt chính thì có một số tội có quy định về hình
phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm làm những nghề hoặc công việc
nhất định.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu các tội xâm phạm sức khỏe của
con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng
và bảo vệ sức khoẻ của con người.
1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ của con người
1.2.1. Khái niệm kiểm sát điều tra
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ
- Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000, thì
“kiểm sát” có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà
nước. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng
Quốc gia chỉ đạo biên soạn, thì “kiểm sát” là hoạt động của VKSND nhằm
kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Như vậy, khái niệm kiểm sát hiểu theo nghĩa thông thường gồm hai hoạt

động là kiểm tra và giám sát. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các
hoạt động của các đối tượng bị giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện
pháp tác động phù hợp để yêu cầu người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi
11
phạm pháp luật sửa chữa vi phạm đó. Hoạt động kiểm tra là hoạt động xem
xét, đánh giá hoạt động của người, cơ quan bị kiểm tra.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2003, Luật tổ
chức VKSND năm 2014 thì VKS là một trong các cơ quan tiến hành tố tụng,
được Nhà nước giao cho thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
“Kiểm sát hoạt động tư pháp” là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi
việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các vi
phạm, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất [63, Tr.441].
Các nghiên cứu về lịch sử Nhà nước và pháp luật đã cho thấy hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên thế giới không phải chỉ xuất hiện sau Cách
mạng tháng Mười Nga (1917), mà đã có từ thời Vua Pier Đệ nhất (1772), khi
yêu cầu củng cố quyền lực của nhà Vua đặt ra, nhu cầu cần phải có sự quản lý
Nhà nước mạnh mẽ. Một cơ quan mới đã được thành lập với chức năng giám
sát, có nhiệm vụ kháng nghị các quyết định và hành vi trái pháp luật của bất kỳ
cơ quan và quan chức nào, thông báo cho nhà Vua về những vi phạm pháp luật
được phát hiện, cơ quan đó là Viện công tố. V.I. Lênin đã tiếp thu và phát triển
từ mô hình Viện công tố Nga để lập nên mô hình Viện kiểm sát, coi hoạt động
kiểm sát tuân theo pháp luật như là chức năng thuộc tính của Viện kiểm sát. Hầu
hết các nước khu vực Đông Âu và các nước khác khi xây dựng Nhà nước kiểu
mới cũng lấy mô hình Viện kiểm sát để tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước
của mình.
Ở Việt Nam, theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960, Viện kiểm sát được thành lập.Tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959

quy định "Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ,
12
cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm
sát trong phạm vi do luật định". Cơ quan Viện kiểm sát ra đời thay thế cho mô
hình Viện công tố, ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát còn
có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ,
các cơ quan khác thuộc Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân. Sự ra đời của mô hình Viện
kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu của
nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất- điều kiện nền tảng cho việc xây dựng
nhà nước kiểu mới.
Từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành 06 đạo luật về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân vào các năm 1960, năm 1981, năm 1989, năm
1992, năm 2002 và năm 2014:
Các văn bản luật trên vừa là cơ sở pháp lý thể hiện tư tưởng chủ đạo của
Đảng và Nhà nước trong tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm đảm bảo pháp
chế xã hội chủ nghĩa được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất; đồng thời vừa là
kết quả đúc rút từ thực tiễn hoạt động của VKSND qua các thời kỳ cách mạng.
Các đạo luật trên đều gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng đất nước; gắn liền với sự nghiệp bảo vệ, xây dựng tổ quốc, bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của tập thể, của nhân dân, bảo vệ tài sản
xã hội chủ nghĩa, tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì VKS được giao hai chức năng
chính là chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Đây là hai chức năng hoàn toàn độc lập của VKS. Xét về khía cạnh thực tiễn, hai
chức năng này của VKS có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Để hiểu rõ hơn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều

tra thì trước tiên cần phải hiểu hoạt động tư pháp là gì? Hoạt động tư pháp trước
hết là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, như vậy
13
không có nghĩa tất cả mọi hoạt động do cơ quan tư pháp tiến hành đều là hoạt
động tư pháp mà chỉ là hoạt động tư pháp gắn liền với việc giải quyết một vụ
án, một tranh chấp cụ thể, như hoạt động điều tra thu thập chứng cứ… của các
cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng là hoạt động tư pháp bởi vì nó nhằm
giải quyết vụ án, giải quyết tranh chấp cụ thể. Hoạt động tư pháp trong TTHS có
thể hiểu là các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết các
vụ án hình sự theo quy định của pháp luật TTHS, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Theo quy định của BLTTHS thì chủ thể thực hiện hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra là Cơ quan điều tra hoặc được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra đó là Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm và một số cơ quan khác
trong lực lượng Cảnh sát nhân dân, trong các lực lượng An ninh nhân dân…
Gắn liền với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra là các công tác kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan
điều tra - Kiểm sát điều tra. Kiểm sát điều tra là một bộ phận cấu thành của kiểm
sát các hoạt động tư pháp - chức năng hiến định thứ hai của VKSND thuộc giai
đoạn đầu tiên trong lĩnh vực TTHS - giai đoạn điều tra.
Điều 113 BLTTHS năm 2003 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát tra:
+ Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và lập hồ sơ vụ án
của Cơ quan điều tra;
+ Kiểm sát tuân theo pháp luật của người tham ra tố tụng;
+ Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;
+ Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục những vi phạm pháp luật trong hoạt
động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm
pháp luật của Điều tra viên; Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm
minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;

+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Nội dung của kiểm sát điều tra là việc VKS được trao quyền hạn và thực
hiện nhiệm vụ nhằm phát hiện kịp thời và loại trừ, khắc phục các vi phạm của
14
CQĐT với mục đích đảm bảo cho tất cả các hoạt động điều tra phải được tuân
thủ theo những quy định của pháp luật TTHS, để pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh, thống nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm kiểm sát điều tra như sau:
Kiểm sát điều tra là việc VKS tiến hành các hoạt động kiểm tra và giám sát việc
tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS phát sinh
trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra vụ án được thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Từ khái niệm trên, có thể thấy mục đích của kiểm sát điều tra là nhằm đảm
bảo pháp luật được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh và thống nhất trong suốt cả
quá trình điều tra vụ án hình sự.
Đối tượng của kiểm sát điều tra: Là việc chấp hành pháp luật của Cơ quan
điều tra, là hành vi liên quan đến hoạt động điều tra của các cán bộ, Điều tra viên
được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động điều tra, là các quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra, là việc tuân thủ các quy định của
pháp luật trong suốt cả quá trình điều tra.
Phạm vi của kiểm sát điều tra: Kiểm sát điều tra chỉ có trong lĩnh vực
TTHS.
1.2.2. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ của con người
Đối với các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người , trước
khi ra quyết định khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra cần xác định vụ việc có dấu
hiệu tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người hay không dựa
trên các kênh thông tin trong đó có các tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị
khởi tố vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người . Đối với các tin

báo, tố giác về tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người do
Viện kiểm sát tiếp nhận, Viện kiểm sát sẽ chuyển đến Cơ quan điều tra có
thẩm quyền để xác minh, giải quyết. Công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố vủa Viện kiểm sát là một trong những
15
hoạt động quan trọng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con
người đều được xử lý theo pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm
oan người vô tội.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ của con người luôn là hai hoạt động có mối liên hệ mật thiết
và không thể tách rời. Để hoạt động thực hành quyền công tố tốt và có hiệu
quả thì công tác kiểm sát các hoạt động điều tra phải luôn sát sao và kịp thời.
Do đó, để phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra được chính xác thì
trước đó Viện kiểm sát phải thực hiện tốt chức năng kiểm sát. Thông thường,
các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người được phát hiện
thông qua các tin báo, tố giác của người dân, do đó Kiểm sát viên phải chú ý
đến việc xác minh ban đầu để xác định có hay không dấu hiệu tội phạm, đây
là chứng cứ, tài liệu điều tra ban đầu rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ
án. Sau khi khởi tố vụ án, Kiểm sát viên cần phối hợp với Điều tra viên tiến
hành hỏi cung ngay, trong đó cần chú ý đến các tình tiết của vụ án, các mâu
thuẫn trong lời khai của các đối tượng có liên quan, giữa lời khai với các vật
chứng để yêu cầu Cơ quan điều tra làm rõ. Trong một số vụ án xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ của con người về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng, có liên quan đến nhiều đối tượng thì việc khởi tố và áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với bị can cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát. Trong các vụ án này, vai trò kiểm sát điều tra của
Viện kiểm sát cần phải được chú trọng hơn nữa.
Từ sự phân tích trên, có thể rút ra khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con

người là: Hoạt động của VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan
điều tra phát sinh trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ của con người , nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra vụ án xâm
16
phạm tính mạng, sức khoẻ của con người được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật.
1.3. Nội dung công tác kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ của con người
Giai đoạn điều tra là giai đoạn đầu tiên của quá trình TTHS, có vai trò rất
quan trọng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Trong giai đoạn điều tra,
CQĐT phải áp dụng các biện pháp điều tra hợp pháp để xác định sự thật của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
định hành vi phạm tội và những chứng cứ xác định vô tội, đồng thời điều tra
làm rõ những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ của bị can. Các
biện pháp đó không những có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình giải quyết vụ án
mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Do vậy các biện pháp điều tra của CQĐT cần được đặt dưới sự kiểm tra, giám
sát chặt chẽ của VKS để đảm bảo quá trình điều tra vụ án đúng theo quy định
của pháp luật.
1.3.1. Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị
khởi tố.
Một trong những nguồn thông tin về tội phạm đó là các tố giác, tin báo
của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Thông tin về tội
phạm là một dữ kiện không thể thiếu được cho việc phát hiện, khám phá tội
phạm, do đó nguồn tố giác và tin báo về tội phạm đóng góp một phần rất quan
trọng trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của Nhà nước.
Thông tin trong các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người có
những đặc điểm riêng. Các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con
người có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, bất kỳ nơi đâu, có thể xuất phát từ những
mâu thuẫn nhỏ rồi các bên to tiếng với nhau, sau đó dẫn đến xô sát; cũng có

thể là những vụ xảy ra bất ngờ ngoài đường hoặc trong nhà, nơi làm việc,
trường học những người biết được diễn biến của vụ việc có thể không
17
chứng kiến từ đầu hoặc không hiểu hết được tính chất của vụ việc nên có
những suy luận, đánh giá mang tính chủ quan, điều này sẽ khó khăn cho quá
trình xác minh, lấy lời khai.
Pháp luật nước ta quy định trách nhiệm phát hiện tin báo và tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố là của mọi cơ quan Nhà nước, mọi tổ chức và công
dân. Khoản 3 Điều 103 BLTTHS quy định: "Trong thời hạn không quá hai
mươi ngày, kể từ ngày nhận được tin báo, CQĐT trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định khởi tố hoặc không
khởi tố vụ án hình sự". Khoản 4 Điều 103 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát
có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”. Thực hiện quy định trên, thời gian
qua, liên ngành VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đã có
Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT/VKSTC-TATC-BCA-BQP ngày
01/7/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật trong công tác
thống kê hình sự, thống kê tội phạm. “Cơ quan Công an có trách nhiệm thống
kê kết quả tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm từ kết quả xử lý những vụ
vi phạm pháp luật hình sự thuộc thẩm quyền xử lý của mình và chuyển kết
quả tổng hợp thống kê sang VKS cùng cấp”. Quy chế thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự
được ban hành theo Quyết định số 07/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của
VKSNDTC hướng dẫn: “KSV được phân công phải kiểm sát chặt chẽ việc
tiếp nhận và giải quyết của Cơ quan điều tra cùng cấp đối với các tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Hàng tuần KSV yêu cầu Cơ quan điều
tra cùng cấp thông báo đầy đủ cho VKS các tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố mà Cơ quan điều tra đã tiếp nhận được…”. Hoạt động của
VKS trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm và kiến nghị khởi tố
bao gồm những nội dung:

18
- Kiểm sát việc tiếp nhận thông tin về tội phạm của CQĐT và các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra.
Khi có thông tin về vụ xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người,
VKS kiểm sát về tính hợp pháp của các biện pháp mà CQĐT áp dụng trong
quá trình kiểm tra, xác minh, giải quyết, đồng thời kiểm sát về thời hạn kiểm
tra, xác minh tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Nếu phát hiện vi phạm trong việc giải quyết các tố giác và tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trong vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của
con người, VKS phải yêu cầu CQĐT khắc phục ngay trong quá trình xác
minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nếu có, nhằm bảo đảm các
hoạt động của CQĐT tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Trên cơ
sở kết quả của quá trình kiểm tra, xác minh các tố giác, tin báo về tội phạm xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ của con người đã thụ lý, CQĐT sẽ đánh giá và xác
định có dấu hiệu của tội phạm hay không để từ đó giải quyết bằng việc ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Với
chức năng của mình, VKS tiếp tục kiểm sát việc khởi tố của CQĐT.
1.3.2. Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Quan hệ pháp luật TTHS giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với
người có hành vi phạm tội nói chung phát sinh từ khi có Quyết định khởi tố
vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can; đây là những văn bản có tính pháp
lý quan trọng có ý nghĩa mở đầu cho cả quá trình TTHS. Sau khi có quyết
định khởi tố vụ án, khởi tố bị can các cơ quan có thẩm quyền chính thức bắt
đầu các hoạt động điều tra nhằm làm rõ tội phạm, người phạm tội, làm rõ các
tình tiết của vụ án, của hành vi phạm tội cũng như mục đích, động cơ của
người phạm tội…
19

Theo quy định của BLTTHS thì VKS cũng có quyền khởi tố vụ án, khởi
tố bị can, đây là các biện pháp phát động quyền công tố, mở đầu cho cả quá
trình TTHS. Khởi tố vụ án là việc Nhà nước chính thức công bố trước toàn xã
hội có dấu hiệu tội phạm xảy ra và cần phải tiến hành các biện pháp TTHS để
làm rõ tội phạm xảy ra và người đã thực hiện tội phạm đó.
Theo pháp luật của nước ta thì có nhiều cơ quan được khởi tố vụ án, đó
là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và một số cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm.
Trong các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ của con người nói riêng, quyết định khởi tố bị can và quyết định phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của một
con người, ảnh hưởng đến những người thân của người bị khởi tố, và VKS
phải chịu trách nhiệm khi bắt đầu một tiến trình tố tụng đối với một người. Do
đó, sau khi vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người được khởi tố,
VKS phải kiểm tra kỹ hồ sơ, nghiên cứu, tổng hợp và đánh giá các chứng cứ,
tài liệu về dấu vết tại hiện trường, dấu vết trên thân thể người bị hại; nghiên
cứu các bản ghi lời khai của bị hại, người làm chứng, xem xét kỹ các vật
chứng thu được; xem xét, đánh giá các tài liệu phản ánh mức độ lỗi của các
bên, mức độ thiệt hại để xác định có hay không có các căn cứ để khởi tố vụ
án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người , khởi tố bị can, có đủ hay
không các căn cứ để phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, nếu không đủ thì
còn cần bổ sung chứng cứ, tài liệu nào
Việc nghiên cứu, xem xét này phải dựa trên các tiêu chí cả về mặt nội
dung và hình thức: Phải xác định có hay không có sự kiện phạm tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ của con người , để đánh giá được mức độ vi phạm
thì cần phải nghiên cứu các quy định của BLHS hiện hành, các văn bản hướng
dẫn thi hành BLHS liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của
con người , đánh giá về tính liên quan hay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
20

xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người với hậu quả thiệt hại xảy ra
đối với các tội cần phải xác định về hậu quả. VKS phải xem xét quyết định
khởi tố của CQĐT có dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật không,
có đúng với hành vi phạm tội mà bị can đã thực hiện hay không, ngoài hành
vi phạm các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người đã bị khởi tố,
có còn hành vi nào chưa được khởi tố hay không… Chỉ khi xác định chắc
chắn việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can là có căn cứ thì VKS mới ra quyết định
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; trường hợp nếu xét chưa đầy đủ căn cứ
vững chắc thì VKS phải yêu cầu CQĐT bổ sung hoặc tự mình bổ sung đầy đủ
mới quyết định phê chuẩn; kiên quyết không phê chuẩn nếu thấy chưa đủ các
căn cứ xác định tội phạm và người phạm tội.
1.3.3. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
trong vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người
Biện pháp ngăn chặc là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng
đối với bị can, bị cáo, người đang thực hiện hành vi phạm tội quả tang hoặc
đối với người đang chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng hoặc đối với người bị tình nghi phạm tội nhằm ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội,
trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án.
Theo quy định của BLTTHS thì trong quá trình điều tra các vụ án hình
sự nói chung và các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người nói
riêng, cơ quan tiến hành tố tụngtrong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp
dụng hoặc thay thế một trong những biện pháp ngăn chặn sau: Bắt, tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm. Các biện pháp trên nhằm bảo đảm cho việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm có hiệu quả.
1.3.3.1. Kiểm sát hoạt động bắt người
21
Theo quy định tại các Điều 80, 81, 82 BLTTHS thì có các trường hợp

bắt người như: Bắt bị can để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp
và bắt người trong trường hợp quả tang, đang bị truy nã.
a) Bắt bị can để tạm giam
Khi xác định có tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ đã xảy ra trên
thực tế, xác định rõ đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội, trên cơ sở đó
CQĐT quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định khởi tố bị can đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội và xét thấy có đủ căn cứ để áp dụng biện
pháp bắt bị can để tạm giam thì CQĐT ra lệnh bắt bị can để tạm giam và
chuyển lệnh đó cùng các tài liệu liên quan đến việc phê chuẩn cho VKS cùng
cấp để xét phê chuẩn trước khi thi hành.
Để phê chuẩn được chính xác đúng pháp luật, VKS phải kiểm sát chặt
chẽ không chỉ tính có căn cứ mà còn cả tính hợp pháp trong việc áp dụng biện
pháp bắt này. KSV được phân công giải quyết vụ án xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ của con người phải trực tiếp nghiên cứu hồ sơ tài liệu mà CQĐT
chuyển đến để xét phê chuẩn. Nếu xét thấy việc áp dụng của CQĐT là có căn
cứ thì VKS ra quyết định phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam của CQĐT
và lệnh này sẽ có hiệu lực thi hành. Ngược lại, nếu xét thấy không có căn cứ
áp dụng thì VKS ra quyết định không phê chuẩn lệnh bắt của CQĐT và
đương nhiên lệnh đó không có hiệu lực thi hành. Bên cạnh đó, VKS phải tiến
hành kiểm sát chặt chẽ về thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng, thời hạn
áp dụng.
b) Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp mang tính chất phòng
ngừa không chỉ đối tượng phạm tội sẽ gây ra thiệt hại cho Nhà nước hoặc
công dân khi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, mà còn phòng ngừa đối tượng
phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc sẽ bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ của vụ án sau
khi thực hiện hành vi phạm tội dẫn đến gây khó khăn cho hoạt động điều tra
tội phạm.
22

×