Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội giết người từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.04 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH THIỆN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI GIẾT NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH THIỆN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI GIẾT NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
:
838.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ TUYẾT HOA

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
tôi; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Thiện


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
GIẾT NGƯỜI VÀ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI .................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội phạm giết người .................................7
1.2. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra đối với tội giết người ...........................................................................19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NGÃI ........................................................................................................36
2.1. Đánh giá chung tình hình tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ...36

2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong gia đoạn điều tra đối với tội giết
người tại Quảng Ngãi ................................................................................................ 40
2.3. Đánh giá kết quả, những hạn chế và nguyên nhân của hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội giết người trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi ...............................................................................................................54
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI GIẾT
NGƯỜI .....................................................................................................................60
3.1. Yêu cầu của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội
giết người từ thực tiễn tại Quảng Ngãi......................................................................60
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra đối với tội giết người từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.....................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

- Bộ luật hình sự

BLTTHS

- Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

- Cơ quan điều tra


ĐTV

- Điều tra viên

HĐTP

- Hoạt động tư pháp

KSHĐTP

- Kiểm sát hoạt động tư pháp

KSV

- Kiểm sát viên

KTBC

- Khởi tố bị can

KTVA

- Khởi tố vụ án

QCT

- Quyền công tố

THQCT


- Thực hành quyền công tố

VKS

- Viện kiểm sát

VKSND

- Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều
mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, du lịch...góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội cũng nảy sinh, tình hình tội phạm diễn biến phức
tạp. Đáng chú ý là tình hình tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người
nói chung và tội giết người nói riêng xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tăng về số
vụ và người phạm tội ngày càng gia tăng, hậu quả thiệt hại gây ra ngày càng lớn về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và gây ra dư luận xấu trong xã hội.
Việc điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó
có vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án này còn nhiều hạn
chế. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động Thực hành quyền công tố
đối với loại tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là rất cần thiết.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải
cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bộ chính trị
đã ban hành nhiều chỉ thị, Nghị quyết trong đó có Nghị quyết số 08-NQ/TW, về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, theo đó: “VKS các

cấp thực hiện tốt chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và
trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội. Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên
tòa, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác” [3]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã xác định rõ: “Trước mắt, Viện kiểm sát
nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là THQCT (...), tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điểu tra” [5]. Các đường lối của Đảng đã được thể chế hóa

1


trong Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2002, Luật tổ chức
VKSND (sửa đổi, bổ sung năm 2014), về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong tình hình mới.
Theo quy định Hiến pháp năm 2013 [14] và Điều 4 Luật tổ chức VKSND
năm 2014 [15] thì VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó cần chú
trọng “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm”.Trong những
năm qua công tác công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án giết người nói chung và tội giết người nói riêng của VKSND tỉnh Quảng Ngãi đã
có sự tiến bộ, góp phần đảm bảo cho hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra, truy tố, xét xử được tuân thủ theo quy định
của pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Bên cạnh những
kết quả đạt được, chúng tôi nhận thấy từng lúc, từng nơi các cơ quan tố tụng có
nhận thức pháp luật khác nhau, chưa có sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng
pháp luật khi giải quyết vụ án, vì giữa lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn có sự
khác nhau, đặc biệt là các quy định liên quan đến chức năng THQCT của VKS; còn

nhiều vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, Tòa án xét xử khác tội danh, khung hình
phạt VKS truy tố; Vụ án bị Tòa án cấp trên tuyên hủy án điều tra lại còn xảy ra…
đã ảnh hưởng nhiều đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh
thời gian qua. Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ thực trạng, qua đó đề ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THQCT đối với tội giết người trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới là một yêu cầu có tính cấp bách, có ý nghĩa cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra tội giết người từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm luận
văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đề tài THQCT được nhiều nhà khoa học pháp lý cũng

2


như những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Qua tìm hiểu, tác giả
nhận thấy các công trình nghiên cứu như:
- Sách chuyên khảo: THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra do tác giả Lê Hữu Thể làm chủ biên [16]. Quyển sách này chú trọng
nhiều đến hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự và so
sánh mô hình tố tụng với nhiều nước, chưa phân tích sâu về hoạt động THQCT.
- Sách chuyên khảo: Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp
của tác giả Nguyễn Hải Phong [11]. Cuốn sách chủ yếu đề cập đến giải pháp tăng
cường trách nhiệm công tố găn với hoạt động điều ra vụ án hình sư.
- Luận án tiến sĩ luật học: QCT ở Việt Nam của Lê Thị Tuyết Hoa [7]. Đây là
công trình nghiên cứu mang tính lý luận về QCT từ lịch sử phát triển đến thực trạng
THQCT ở Việt Nam qua các thời kỳ. Luận án tiến sĩ luật học: THQCT trong tố tụng
hình sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An của Tôn Thiện Phương chủ yếu đề cập đến lý

luận về thực hành quyền công tố và khái quát thực trang THQCT trong vụ án nói
chung tại Nghệ An [12].
- Bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí có: "Nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp"
của Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2003.
- Chuyên đề: “Thực trạng và giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm
ma túy” trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi do VKSND tỉnh Quảng Ngãi thực hiện năm
2016 hoặc Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra các vụ án về tham nhũng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả
Trần Hoàng Tuấn, năm 2015 [19]; Luận văn thạc sĩ Luật học: “Biện pháp ngăn
chặn tạm giam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Nguyễn Công Thành năm
2016; Luận văn thạc sĩ Luật học: “Kiểm sát khám nghiệm hiện trường từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Đinh Trường Giang, năm 2016;...
Mặc dù có nhiều công trình khoa học nghiên cứu ở những góc độ, phạm vi
khác nhau về THQCT ở những giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự trong đó có

3


nghiên cứu về THQCT đối với một số loại tội phạm. Nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu, khảo sát về Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội giết
người từ thực tiễn Tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về
vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sĩ. Các công trình nghiên cứu đã được thực hiện
là nguồn tư liệu tham khảo cho học viên thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tội phạm giết người và pháp luật về
THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam;
đánh giá đúng thực trạng công tác THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người từ thực tiễn

tỉnh Quảng Ngãi, từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn
điều tra tội giết người trong thời gian tới phù hợp với thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã nêu trên, luận văn phải nghiên cứu những
vấn đề như sau:
- Nghiên cứu nhằm làm rõ một số vấn đề về lý luận, pháp luật về tội phạm giết
người và pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người;
- Nghiên cứu thực trạng của công tác THQCT trong giai đoạn điều tra tội
giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013 đến 2017;
- Nghiên cứu và làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong
hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người người trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi; từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện
đúng quy định THQCT trong gia đoạn điều tra đối với tội giết người trong thời gian
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật về tội phạm giết người và pháp luật
về THQCT, thực trạng áp dụng những quy định về THQCT trong giai đoạn điều tra

4


theo BLTTHS năm 2003 vào thực tiễn giải quyết đối với tội giết người trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi.
Khi phân tích có đối chiếu, so sánh quy định của BLTTHS năm 2003 với
BLTTHS năm 2015 và chỉ ra những điểm mới, sửa đổi bổ sung đã được khắc phục
những quy định pháp luật cũ không phù hợp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ cho phép, luận án chỉ nghiên cứu về lý luận, pháp luật về
tội phạm giết người và pháp luật THQCT và thực tiễn công tác THQCT ở giai đoạn

điều tra đối với tội giết người theo quy định BLTTHS năm 2003 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi trong 05 năm (từ năm 2013 đến năm 2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng về nhà nước và pháp luật nói chung và tổ chức, hoạt động của VKS nhân dân
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp cụ
thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để làm sáng tỏ các vấn đề cần
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn
đề lý luận cơ bản về THQCT trong giai đoạn điều tra;
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở khảo sát thực tế, đánh giá, phân tích thực trạng công tác THQCT
trong giai đoạn điều tra đối với tội giết người ở tỉnh Quảng Ngãi, luận văn tìm ra
các giải pháp nâng cao chất lượng THQCT đối với các VAHS nói chung và đối với
các vụ án giết người nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài

5


liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu liên quan đến hoạt động THQCT
trong giai đoạn điều tra cũng như đối với các nhà hoạch định chính sách pháp luật
và đặc biệt là cán bộ VKSND tỉnh Quảng Ngãi trong công tác thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người và về thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội giết người.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối
với tội giết người tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra đối với tội giết người.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
VÀ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI
1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội phạm giết người
1.1.1. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm giết người
Con người với tư cách là thực thể của tự nhiên và xã hội, luôn là đối tượng
được quan tâm và bảo vệ hàng đầu trong mọi nhà nước, đặc biệt là ở các nhà nước
hiện đại thì vấn đề con người càng được quan tâm, xã hội càng phát triển thì việc
bảo vệ con người và các lợi ích của con người càng được chú trọng [8].
Tính mạng của con người là giá trị cao nhất của con người. Quyền được
sống, được tôn trọng vào bảo vệ là quyền cơ bản, hàng đầu của con người, của công
dân.Hiến pháp nước ta quy định mọi người có quyền sống. Tính mạng của con
người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật (Điều
19 Hiến pháp năm 2013).
Tội giết người (Điều 93 BLHS năm 1999, Điều 123 BLHS năm 2015) được
hiểu là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác bằng mọi hình
thức. Tội phạm này xâm trực tiếp đến quyền được sống của con người. Đối tượng
tác động của tội phạm là con người đang sống đang tồn tại trong thế giới khách

quan với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội. Mặt khách quan của tội phạm giết
người được thể hiện ở hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác
bằng mọi hình thức, bằng các công cụ, phương tiện khác nhau. Hậu quả của tội giết
người là gây ra cái chết (dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm), nếu hành vi
tước đoạt tính mạng của người khác được thực hiện nhưng vì những nguyên nhân
khách quan khác nhau mà hậu quả chết người không xảy ra thì hành vi đó được coi
là giết người chưa đạt. Chủ thể của tội phạm giết người là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do pháp luật quy định.Tội phạm được thực hiện với lỗi

7


cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp với động cơ và mục đích khác nhau
nhưng đây không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm [31, tr.60-61].
Như vậy, có thể khái niệm tội phạm giết người là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999 (Điều 123 BLHS năm 2015)
do người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý xâm
phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác được Hiến pháp và
pháp luật hình sự ghi nhận, bảo vệ.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, có thể khái quát tội giết người có bốn
đặc trưng cơ bản sau đây: Về măt khách quan của tội phạm được biểu hiện bao gồm
cả hành động hoặc không hành động; hành vi tước đoạt sinh mạng của người khác
phải là hành vi trái pháp luật; hành vi trái pháp luật và hậu quả chết người phải có
mối quan hệ nhân quả với nhau; hành vi tước đoạt sinh mạng của người khác phải là
hành vi được thực hiện do lỗi cố ý (bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp).
1.1.2. Đặc điểm hình sự của tội phạm giết người:
- Đối tượng gây án: Đối tượng tác động của hành vi giết người chỉ có thể là
con người đang sống. Vì khách thể của tội giết người là xâm phạm tới quyền được
sống của con người nên đối tượng tác động chỉ có thể là những người đang sống.
Thời điểm bắt đầu cuộc sống của con người được tính từ khi con người được sinh ra

cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Như vậy việc giết người chưa được sinh ra hoặc
sau khi đã chấm dứt sự sống thực sự không bị coi là phạm tội giết người. Hành vi
tước đoạt tính mạng phải nhằm vào đối tượng là người khác chứ không phải bản
thân người phạm tội. Do vậy, tự tước đoạt tính mạng của mình không thuộc hành vi
khách quan của tội giết người. Mỗi con người đều có quyền và nghĩa vụ đối với
cuộc sống của chính bản thân mình. Tính mạng là cái quý giá nhất đòi hỏi sự bảo vệ
từ chính bản thân con người. Con người có quyền năng lớn nhất đối với tính mạng
của mình. Có trường hợp tước đoạt tính mạng người khác do được sự đồng ý của
nạn nhân. Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi này vẫn bị coi là trái pháp luật.
- Về nạn nhân: trong vụ án giết người phần lớn là nam giới. Nguyên nhân
chủ yếu Là do mâu thuẫn bộc phát va chạm nhỏ nhặt nạn nhân không kiểm chế

8


được uống rượu, bia say bị kính thích mạnh dẫn đến thiếu bình tĩnh không làm chủ
được bản thân dẫn đến có lời nói xúc phạm người phạm tội.
- Động cơ mục đích: Động cơ phạm tội được hiểu là nhân tố bên trong thúc
đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Bất kỳ một hành vi có ý thức nào của con
người cũng đều do những nhân tố khách quan hoặc chủ quan thúc đẩy hoặc tác
động. Khi thực hiện tội phạm, bao giờ người phạm tội cũng hướng tới một mục đích
nào đó. Giết người để làm gì, vì điều gì? Tuy vậy, động cơ phạm tội lại không phải
là dấu hiệu định tội của tội giết người. Dù giết người với động cơ như thế nào đi
chăng nữa thì việc xác định tội danh vẫn không thay đổi. Trên thực tế việc giết
người được thực hiện với nhiều động cơ và mục đích khác nhau
Động cơ hành động, nhân cách của người phạm tội và mục đích hành động luôn
có mối liên quan với nhau, vì mỗi quyết định hành động của con người đều được quy
định bởi nhiều yếu tố, trong đó có nhân cách của người phạm tội và động cơ hành động.
Do vậy, việc nghiên cứu nhân cách người phạm tội (trước hết là thái độ đối với tính
mạng, sức khoẻ người khác) cũng như động cơ hành động của họ có thể giúp xác định

được mục đích hành động (hành động nhằm đạt cái gì?) và qua đó xác định được thái độ
chủ quan của người phạm tội đối với hậu quả chết người đã thấy trước. Ở đây cần chú ý:
+ Từ một động cơ có thể có nhiều mục đích khác nhau được đặt ra và một
mục đích có thể xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau.
+ Xử sự của một người có thể phù hợp với nhân cách nhưng cũng có thể trái
với nhân cách của họ.
Động cơ sẽ có ý nghĩa quyết định cho việc chứng minh người phạm tội mong
muốn hậu quả chết người, nếu câu trả lời tại sao người phạm tội đã thực hiện tội
phạm cũng là câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi người phạm tội muốn gì qua hành vi
phạm tội của mình. Giữa nhân cách, mục đích chính của người phạm tội và thái độ
có ý thức chấp nhận hậu quả chết người xảy ra luôn có mối liên hệ với nhau. Trong
trường hợp có ý thức chấp nhận hậu quả chết người xảy ra, người phạm tội đã đánh
giá việc đạt được mục đích chính của mình quan trọng hơn, cần thiết hơn việc tránh
hậu quả chết người, nên đã chấp nhận hậu quả chết người để đạt được mục đích. Sự

9


đánh giá và lựa chọn này là kết quả tác động qua lại của những yếu tố khách quan
và chủ quan khác nhau, trong đó có nhân cách người phạm tội và mục đích chính
của người đó. Từ mối liên hệ như vậy có thể sử dụng tình tiết nhân cách và mục
đích chính của người phạm tội cùng với những tình tiết khác để xác định thái độ chủ
quan của họ đối với hậu quả chết người đã thấy trước.
+ Một số động cơ của tội giết người được quy định là tình tiết định khung
tăng nặng như:
Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác
Để lấy bộ phận cơ thể nạn nhân
Vì vậy, trong vụ án giết người, việc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi
phạm tội.

- Thời gian địa điểm: Về thời gian của tội giết người xảy ra nhiều nhất từ
khoảng từ 6 giờ đến 18 giờ và thường xảy ra vào các ngày lễ, ngày nghỉ cuối tuần.
đây là thời điểm tập trung nhiều người, các hoạt động sinh hoạt xã hội và sự căng
thẳng trong va chạm, mâu thuẫn giữa các thành viên trong xã hội.
- Công cụ, phương tiện phạm tội
Phương tiện phạm tội được hiểu là những đối tượng được chủ thể của tội
phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Công cụ phạm tôị là một
dạng cụ thể của phương tiện phạm tội.
Khi thực hiện hành vi giết người, người phạm tội có thể sử dụng hoặc không
cần sử dụng phương tiện hay công cụ phạm tội. Trên thực tế, số lượng các vụ giết
người bằng không hành động và không sử dụng đến phương tiện, công cụ phạm tội rất
ít. Thông thường, người phạm tội sử dụng các loại phương tiện công cụ chính sau:
- Các loại vũ khí nóng bao gồm thuốc nổ, súng, lựu đạn. Loại vũ khí này rất nguy
hiểm cho tính mạng của con người và có khả năng làm chết nhiều người cùng một lúc.
- Vũ khí lạnh như dao, kiếm, búa, côn, gậy. Đây là những loại vũ khí thủ
công, thô sơ được sử dụng trong các vụ giết người với động cơ mục đích gây rối
hoặc mang tính chất côn đồ.

10


- Sử dụng độc tố.
- Dìm chết trong nước hoặc chất lỏng khác
- Sử dụng công cụ khác
Công cụ phương tiện phạm tội không phải là một dấu hiệu định tội song có
ảnh hưởng không nhỏ tới tính chất nguy hiểm của hành vi. Vì vậy, nó có ý nghĩa
quan trọng trong việc quyết định hình phạt.
- Phương pháp, thủ đoạn phạm tội.
Phương pháp, thủ đoạn phạm tội được hiểu là cách thức thực hiện hành vi
phạm tội, trong đó có cách thức sử dụng công cụ, phương tiện phạm tội. Đây cũng

không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội giết người. Tuy
nhiên, phương pháp và thủ đoạn phạm tội có sự ảnh hởng không nhỏ tới tính nguy
hiểm của hành vi. Trên thực tế, tội giết người được thực hiện với rất nhiều phương
pháp và thủ đoạn khác nhau. Có vụ giết người được thực hiện một cách man rợ và
trắng trợn. Cũng có những vụ được thực hiện một cách tinh vi, xảo quyệt với
phương thức và thủ đoạn được tính toán rất cẩn thận và kỹ lưỡng. Có nhiều vụ được
thực hiện một cách tự phát, không chuẩn bị trước, song cũng có những vụ giết
người mang tính chất chuyên nghiệp và chuẩn bị kỹ càng.
Thủ đoạn và phương pháp thực hiện tội phạm luôn luôn thể hiện tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, nó luôn được coi là tình tiết được
xem xét và cân nhắc đến khi quyết định hình phạt và được coi là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự theo điều 48 BLHS.
Việc nghiên cứu đặc điểm hình sự của tội giết người có ý nghĩa quan trọng.
đây là căn cứ định hướng cho cơ quan điều tra, điều tra viên đề ra phương pháp tổ
chức các hoạt động điều tra loại án này có hiệu quả nhanh chóng tìm ra tội phạm.
Để xác định một người có phạm tội giết người hay không phải căn cứ vào nhiều yếu
tố như mục đích, lỗi, hoàn cảnh, điều kiện, thực tế xảy ra và hậu quả xảy ra…Trên
phương diện khoa học hình sự thì để quy kết một người phạm tội giết người phải
căn cứ vào những dấu hiệu cơ bản sau: Thứ nhất, người phạm tội phải là người có
đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự (đủ 14 tuổi trở lên), thể hiện ở hành vi khách

11


quan của tội phạm bao gồm cả hành động và không hành động. Thứ hai, về mức độ
nguy hiểm cho xã hội thì hành vi đó phải là hành vi tước đoạt tình mạng của người
khác trái pháp luật (điều này để phân biệt với việc giết người ở dạng khác như khi
thực hiện nhiệm vụ: thi hành án tử hình...). Thứ ba, về lỗi hành vi tước đoạt tính
mạng người khác là hành vi được thực hiện do cố ý, có nghĩa là người phạm tội
nhận thức rõ hành động (không hànhđộng) của mình tất yếu gây ra cái chết của nạn

nhân. Thứ tư, chủ thể là nạn của hành vi giết người phải là người còn sống, vì tội
giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người (khác với xâm phạm thi thể,
mồ mả…) Đặc điểm hình sự của tội giết người luốn là vấn đề quan trọng để xác
định khung hình phạt và định tội danh tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến
hành tố tụng giải quyết vụ án một cách hiệu quả đạt kết quả cao nhất trong giải
quyết vụ án
Thực tiễn cho thấy trong quá trình THQCT các vụ án giết người, do KSV
không chú ý các dấu hiệu đặc trưng của tội Giết người và các điểm khác biệt cơ bản
giữa tội giết người với một số tội phạm có dấu hiệu tương tự, xảy ra hậu quả chết
người, dẫn đến tình trạng VKS truy tố về các tội Cố ý gây thương tích, tội Bắt giữ
người trái pháp luật, tội Đe dọa giết người, tội Giết người do vượt qua giới hạn
phòng vệ chính đáng, tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh…
nhưng khi xét xử tòa án các cấp đã đổi sang tội danh giết người hoặc ngược lại. Do
đó, để xác định chính xác tội danh cần nắm vững các dấu hiệu đặc trưng của tội giết
người và phân biệt sự khác biệt giữa tội giết người với một số tội phạm có dấu hiệu
tương tự xảy ra hậu quả chết người sau đây:
Phân biệt tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến chết
người
Sự khác nhau cơ bản giữa tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích”
dẫn đến chết người là ý thức chủ quan của người phạm tội, được chứng minh bởi
các yếu tố như: động cơ, mục đích phạm tội; vị trí tấn công trên cơ thể người bị hại
và mức độ nghiêm trọng của thương tích; nguyên nhân và thời gian chết của nạn
nhân; vũ khí, hung khí tấn công và cường độ tấn công.

12


+ Động cơ, mục đích phạm tội:
Đối với tội “Giết người”, động cơ mục đích của người phạm tội là mong
muốn tước đoạt sinh mạng của người khác (lỗi cố ý trực tiếp) hoặc không mong

muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra (trường hợp lỗi cố ý
gián tiếp). Động cơ, mục đích giết người có thể là: giết người vì ghen tuông, vì quan
hệ tình ái, giết người để trả thù cá nhân, giết người thuê để kiếm tiền… và trong
nhiều trường hợp, động cơ giết người có thể đi liền với các mục đích khác nhau như
giết người để cướp tài sản, giết người bịt đầu mối hoặc để che giấu tội phạm khác.
Đối với tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến chết người, người phạm tội chỉ
nhằm xâm phạm đến sức khỏe của nạn nhân mà không mong muốn tước đoạt sinh
mạng của họ, hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm
tội, có thể do những yếu tố khách quan khác mang lại như do người bị hại bị bệnh
lý, chỉ cần một lực tác động không đáng kể cũng dẫn đến chết; do người bị hại say
rượu có nồng độ cồn trong máu cao; do mất máu mà không được cấp cứu kịp thời…
+ Vị trí tấn công trên cơ thể nạn nhân và mức độ nghiêm trọng của thương
tích:
Đối với tội “Giết người”, thông thường người phạm tội lựa chọn những vùng
xung yếu trên cơ thể (như vùng đầu, vùng cổ, ngực, vùng bụng...) để tấn công làm
cho nạn nhân có thể chết ngay. Trong trường hợp này cần xác định người phạm tội
nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra cái chết cho nạn nhân nhưng vẫn
thực hiện hành vi và mong muốn (hoặc bỏ mặc) cho hậu quả xảy ra.
Đối với tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến chết người, người phạm tội
không lựa chọn những vị trí xung yếu để tấn công mà tấn công vào bất kỳ vùng nào
trên cơ thể nạn nhân nhằm gây thương tích cho họ.
Tuy nhiên, việc xem xét vị trí tấn công trên cơ thể nạn nhân và mức độ
nghiêm trọng của thương tích cũng chỉ mang tính tương đối và trong từng trường
hợp cụ thể cần phải được xem xét một cách toàn diện cùng các yếu tố khác mới có
thể đánh giá đúng ý thức chủ quan của người phạm tội. Trong những điều kiện đặc
biệt như sự việc xảy ra trong đêm tối, người phạm tội bị nhiều người tấn công hoặc

13



trong lúc đang giằng co, vật lộn với nhau, bị can không hoàn toàn làm chủ được
hành vi của mình mà đâm chém bừa thì nên xem xét thận trọng, toàn diện để xác
định tội danh cho chính xác.
+ Nguyên nhân và thời gian chết của nạn nhân
Đối với tội “Giết người”, nếu nạn nhân bị các vết thương vào các vùng
nguy hiểm trên cơ thể như hộp sọ, tim, gan, phổi… và chết ngay thì các cơ quan
tiến hành tố tụng xác định tội danh là giết người.
Đối với tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến chết người, nạn nhân thường bị
thương vào các vùng khác nhau trên cơ thể và phải sau một thời gian điều trị thì nạn
nhân mới chết.
Nói chung, trong cả hai trường hợp thì thương tích đều là nguyên nhân dẫn
đến chết người. Tuy nhiên, thời điểm nạn nhân chết không phải là căn cứ duy nhất
để định tội danh vì trong thực tiễn, có những trường hợp xảy ra ngoài quy luật thông
thường nói trên. Tùy theo mức độ vết thương, thể trạng và sức khỏe của từng người
cũng như phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cứu chữa mà nạn nhân có thể chết
ngay hoặc sau một thời gian mới chết. Do đó, để kết luận chính xác thì phải trưng
cầu giám định y pháp. Nếu vết thương được xác định là nghiêm trọng, nạn nhân được cứu chữa trong điều kiện đầy đủ mà vẫn chết thì cần truy tố bị can về tội giết
người. Ngược lại, vết thương không nghiêm trọng nhưng vì không được cứu chữa
kịp thời hoặc việc cứu chữa có sai sót nên nạn nhân chết thì cần xem xét, xử lý
người phạm tội về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người.
+ Vũ khí, hung khí tấn công:
Đối với tội “Giết người”, người phạm tội thường sử dụng vũ khí hoặc các
loại hung khí có mức độ nguy hiểm cao, có nhiều khả năng gây chết người như
súng, lựu đạn, lưỡi lê, dao nhọn, mã tấu... đã được chuẩn bị từ trước để tấn công nạn
nhân.
Đối với tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến chết người, thông thường người
phạm tội chỉ sử dụng tay, chân, để đấm, đá hoặc dùng các loại hung khí bất kỳ có
mức độ nguy hiểm không cao để tấn công nạn nhân.

14



Tuy nhiên, sự phân biệt trên cũng chỉ mang tính tương đối bởi vì trên thực tế
có trường hợp người có võ thuật chỉ dùng tay chân đấm đá vào những vùng nguy
hiểm dẫn đến hậu quả chết người thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết
người. Ngược lại, có trường hợp chuẩn bị dao Thailan mang đi đánh nhau, đâm vào
vùng nguy hiểm trên cơ thể nạn nhân nhưng được cấp cứu kịp thời nên không chết
cũng chỉ bị xử lý về tội cố ý gây thương tích…
+ Cường độ tấn công
Đối với tội “Giết người”, do mong muốn tước đoạt sinh mạng của nạn nhân
nên cường độ tấn công của người phạm tội rất cao và quyết liệt để có thể làm cho
nạn nhân chết ngay.
Đối với tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến chết người, do mong muốn chỉ
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nên thông thường,
cường độ tấn công của người phạm tội có mức độ, hậu quả chết người xảy ra là do
những nguyên nhân khách quan khác…
Tóm lại, các yếu tố để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội như đã
phân tích trên chỉ mang tính chất tương đối. Để định tội danh được chính xác cần
xem xét một cách khách quan, toàn diện các yếu tố trên và cần được xem xét trong
mối quan hệ biện chứng với các chứng cứ khác mới có thể xác định được đúng bản
chất của tội phạm và ý thức chủ quan của người phạm tội. Nếu tuyệt đối hoá một
trong các yếu tố này sẽ dẫn đến việc xem xét, đánh giá vụ án theo ý chí chủ quan,
dẫn đến việc định tội danh không chính xác.
Phân biệt tội “Giết người” với tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh”
Về cơ bản, cấu thành tội phạm của hai tội này gần giống nhau, điều khác
nhau duy nhất là ở dấu hiệu lỗi của nạn nhân. Đối với tội “Giết người” thông
thường, nạn nhân không hề có lỗi. Còn trong tội “Giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh”, nạn nhân có lỗi là đã thực hiện hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm

tội, làm cho họ mất khả năng tự chủ, kìm chế hành vi của mình. Để phân biệt tội

15


“Giết người” với tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” cần
chú ý các đặc điểm sau đây:
+ Hành vi của nạn nhân phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trước hết bao gồm những
hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm tới lợi ích người phạm tội hoặc đối
với người thân thích của họ. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy thông
thường những hành vi trái pháp luật của nạn nhân xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự nhân phẩm của người phạm tội hoặc đối với người thân thích của họ
thì bị coi là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp xâm phạm đến tài sản của người phạm tội như đập phá tài sản, đốt nhà,
phá hoại vườn tược… thì tùy từng trường hợp cụ thể cũng có thể coi là hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân.
+ Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh của người phạm tội phải có mối quan hệ nhân quả.
Mối quan hệ giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với với
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội phải là mối quan hệ nhân
quả, biện chứng và tất yếu. Nếu không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của
nạn nhân thì sẽ không có trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội
và vì thế, nếu người phạm tội không bị kích động bởi hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân thì không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh mà thuộc trường hợp phạm tội giết người. Ví dụ: do A gây
thương tích cho con của mình nên B cầm dao đuổi theo để đánh A nhưng không
được. Khi đi qua nhà A, thấy mẹ của A đang đứng trong sân, B xông vào dùng dao
chém chết mẹ của A. Trong trường hợp này hành vi của B là hành vi giết người bởi
lẽ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng gây nên trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh của B là A chứ không phải mẹ A.
+ Người thực hiện hành vi phạm tội phải bị kích động đến mức mất khả năng
tự chủ về hành vi của mình. Trong trường hợp người phạm tội bị kích động nhưng
chưa đến mức mất khả năng tự chủ thì không bị coi là kích động mạnh và không

16


thuộc trường hợp “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” mà họ
phạm tội “Giết người”, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy
định tại điểm đ, khoản 1, Điều 46 BLHS. Ví dụ: do A tát con của mình nên B đã lấy
gậy tre đập vào đầu khiến A tử vong. Trong trường hợp này cần xác định B phạm
tội giết người.
+ Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải gây ra trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh ngay tức thì hoặc ngay sau đó.
Điều đó có nghĩa là nếu nạn nhân có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng,
nhưng hành vi đó đã xảy ra từ trước, đã bị xử lý hành chính hoặc hình sự nhưng sau
đó, người phạm tội lấy lý do đó để giết nạn nhân thì không coi là “Giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” mà người phạm tội phải bị xử lý về tội
“Giết người”.
Trên thực tiễn, việc xác định một người có bị kích động mạnh về mặt tinh
thần hay không hết sức phức tạp, bởi lẽ trạng thái tâm lý của mỗi người là khác
nhau. Vì vậy, trong quá trình KSĐT cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể,
xem xét một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến vụ án như: nhân thân người
phạm tội; quá trình diễn biến của sự việc; nghề nghiệp, trình độ văn hóa, kiến thức
xã hội, hoàn cảnh gia đình, tính tình, bệnh tật…; quan hệ giữa người phạm tội với
nạn nhân… để từ đó xác định người thực hiện hành vi phạm tội đã phạm vào tội
“Giết người” hay tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.
Phân biệt tội “Giết người” với tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng” (Điều 96 BLHS)

Hai tội này có nhiều điểm giống nhau, tội giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng mang đầy đủ các dấu hiệu của tội giết người. Tuy nhiên, giữa
chúng còn có các đặc điểm khác nhau về lỗi của nạn nhân và để phân biệt hai tội
này cần phải căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Lỗi của nạn nhân: Nạn nhân phải là người có lỗi do đang có hành vi xâm
phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức xã hội, quyền, lợi ích chính đáng của người
phạm tội hoặc của người khác.

17


+ Mức độ phòng vệ của người phạm tội: Hành vi của người phạm tội được
thực hiện khi đang bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính
đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả một cách rõ ràng quá mức cần
thiết, không phù hợp, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi xâm hại (hay còn gọi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng) và
dẫn đến hậu quả là gây ra cái chết cho nạn nhân. Ví dụ: A dùng gậy gỗ để đánh B
nhưng B lại dùng dao, kiếm đâm chém chết A. Trường hợp này B tấn công lại A là
hành vi phòng vệ nhưng việc B dùng dao, kiếm đâm chém A là vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng (không tương xứng về hành vi và hung khí).
Để làm rõ được điều đó, Kiểm sát viên phải yêu cầu làm rõ tính chất, tầm
quan trọng của lợi ích và quyền lợi bị xâm hại; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội; hung khí được sử dụng của cả hai phía; cường độ của hành vi xâm hại và mức
độ thiệt hại do hành vi xâm hại gây ra; khả năng ngăn chặn hành vi tấn công của
nạn nhân trong hoàn cảnh cụ thể. Nếu mức độ chống trả của người có hành vi
phòng vệ chính đáng rõ ràng vượt quá mức cho phép thì phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.
Phân biệt tội “Giết người” với tội “Vô ý làm chết người”
Giữa tội “Giết người” và tội “Vô ý làm chết người” có điểm chung là đều có
hậu quả chết người xảy ra và có mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả. Tuy nhiên,

giữa chúng có sự khác biệt cơ bản về hành vi, động cơ, mục đích và lỗi của người
phạm tội và do đó, để phân biệt tội “Giết người” với tội “Vô ý làm chết người” cần
phải căn cứ vào các yếu tố trên.
+ Về hành vi: trong tội giết người, người phạm tội cố ý tấn công trực tiếp vào
nạn nhân gây nên cái chết cho họ. Còn trong tội vô ý làm chết người, hành vi của
người phạm tội không trực tiếp nhằm vào nạn nhân.
+ Động cơ, mục đích: trong tội giết người, kẻ phạm tội cố ý tước đoạt sinh
mạng của nạn nhân, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp; còn ở tội vô ý làm
chết người, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi vô ý, có thể là vô ý do cẩu thả hoặc vô
ý quá tin.

18


Tiêu chí để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cần phải căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra
sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước. Ngoài ra, còn phải căn cứ
vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay nghề…
1.2. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra đối với tội giết người
1.2.1. Lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với
tội giết người
* Khái niệm thực hành quyền công tố
Theo từ điển tiếng việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết
vào thực tiễn”, “Thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện”. Để thực hiện quyền
công tố, Viện kiểm sát nhân dân phải sử dụng các quyền năng thuộc quyền công tố
trong suốt quá trình tố tụng đối với vụ án. Do vậy theo chúng tôi khái niệm thực
hành quyền công tố được hiểu như sau: Thực hành quyền công tố là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và
buộc tội họ trước tòa.

Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định pháp luật của Nhà nước ta từ năm 1960
đến nay thì Viện kiểm sát nhân dân chính thức là cơ quan được giao chức năng thực
hành quyền công tố. “Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm
sát để sử dụng quyền công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát phải trông nom,
bảo đảm cho tốt” [13]. Thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố mấy chục năm
qua của Viện kiểm sát nhân dân các cấp cho thấy 100% các vụ án hình sự đều do
Viện kiểm sát truy tố và thực hiện sự buộc tội trước phiên tòa sơ thẩm, đưa ra lời
kết luận của mình tại phiên tòa theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm. Cùng với những hoạt động đó, Viện kiểm sát các cấp còn có trách nhiệm xem
xét, bảo đảm cho việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn được
hợp lý và hợp pháp, có quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố, xem xét việc khởi tố của Cơ
quan điều tra và Tòa án. Viện kiểm sát được áp dụng “các biện pháp do Bộ luật tố

19


tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội” (Điều 13 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003).
Do đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội, nên
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là hoạc động nhân danh nhà nước
thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, bảo đảm truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội
được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt
người, lọt tội, không làm oan người vô tội.
Phạm vi thực hành quyền công tố luôn gắn liền với việc tiến hành các hoạt
động điều tra, được bắt đầu từ khi vụ việc phạm tội xảy ra và trong xuốt quá trình
điều tra đến khi kết thúc việc buộc tội. Do đó, thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi việc điều tra kết thúc
hoặc đình chỉ vụ án. Khi nào và ở đâu, Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động

nghiệp vụ điều tra như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét,
lấy lời khai người làm chứng, hỏi cung bị can... thì khi đó VKS có trách nhiệm thực
hành quyền công tố. Trong trường hợp không có tội phạm thì quyền công tố bị triệt
tiêu, theo đó cũng chấm dứt mọi hoạt động tố tụng, trong đó có thực hành quyền
công tố .
Khái niệm THQCT nêu trên về cơ bản phù hợp quy định tại Điều 13 và 17
Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 112 BLTTHS năm 2003; được quy định
mới nhất tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014: “THQCT là hoạt
động của VKS nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện buộc tội của Nhà nước
đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác tin báo về tội
phạm, kiến nghị khổi tố và trong suốt qua trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự” [13].
Như vậy, khi THQCT trong giai đoạn điều tra VKS được trao rất nhiều
quyền năng pháp lý để thực hiện. Trong đó có những quyền chỉ duy nhất VKS có
quyền thực hiện như quyền truy tố và cũng có quyền năng pháp lý CQĐT hoặc Tòa

20


×