Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình lịch sử đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 10 trang )

Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

Phần 1: Đô thị thời kỳ Cổ đại và Trung đại
Chương 1: Đô thị thời kỳ Cổ đại

1. Nguồn gốc đô thị
Loài người bắt đầu xuất hiện trên trái đất khoảng hơn 3 triệu năm trước. Trong quá trình
tiến hóa, thông qua lao động, dần dần con người tự hoàn thiện và tổ chức xã hội.
Việc phát hiện ra lửa, biết dùng lửa và làm ra lửa được coi là một trong những phát minh
quan trọng của loài người trong thời kỳ đồ đá cũ. Con người dần thoát khỏi sự phụ thuộc
vào tự nhiên, biết tạo cho mình nơi lưu trú.
Trong quá trình phát triển, dần dần con người biết tận dụng và khai thác các điều kiện thuận
lợi của thiên nhiên để tạo dựng cho mình nơi cư trú, chống lại điều kiện khắc nghiệt của khí
hậu, thú dữ,…
Trong thời kỳ đồ đá mới, cách đây khoảng 4 vạn năm, xã hội loài người tồn tại ở hình thức
“xã hội thị tộc”: Tổ chức cơ sở của xã hội nguyên thủy gồm nhiều gia đình lớn cùng huyết
thống và có cùng hoạt động kinh tế chung.
Nông nghiệp và chăn nuôi là các hoạt động sản xuất chính của con người đồng thời, sự cải
tiến về công cụ lao động dẫn đến nhu cầu định cư ngày càng cao. Nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho sản xuất vật chất, tổ chức xã hội, hình thành đời sống tín ngưỡng, tinh thần của cộng
đồng xã hội thời kỳ đó.

Hình 1.2 Mặt bằng nơi cư trú của người tiền sử, dạng hình tròn được xây dựng bằng đá
được tìm thấy ở Abbasanta – Ý 1

1



Link: />
Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An

1


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

Hình 1-2: Mặt bằng làng tiền sử 2

Hình 1-3: Làng tiền sử ở Biscupin (Ba Lan) Thế kỷ thứ VII – IV TCN
Và dần dần, các ngôi làng tiền sử được hình thành với các ngôi nhà đơn sơ, gần nguồn nước
và có hàng rào bảo vệ chung quanh.
2

Nuraghi of Barumini, the most important nuraghi in Sardinia

Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An

2


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

Hình 1.3 Mặt bằng làng thời tiền sử ở Hallstatt – Đức

Làng của người tiền sử được con người thiết kế và xây dựng có ý thức, dần thoát khỏi sự lệ
thuộc vào môi trường tự nhiên. Các loại vật liệu được sử dụng tại chỗ, tổ chức đơn giản và
quy mô nhỏ. Ngày nay, mặc dù làng tiền sử không còn tồn tại nguyên vẹn, nhưng các nhà
khảo cổ học, sử học, nhân chủng học đã nghiên cứu và kết luận: Hình thức làng tiền sử
được phân bố ở nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt tập trung ở vùng khí hậu ôn hòa, đồng
bằng gần nguồn nước, dọc các con sông lớn, hoặc ở các vịnh biển.
Khi nông nghiệp và chăn nuôi phát triển, làng tiền sử dần chuyển hóa thành các làng nông
nghiệp cố định. Các làng nông nghiệp được phân tán tạo thành một hệ thống quần cư cố
định, có quan hệ với nhau, trong đó, yếu tố tự nhiên là nguồn nước (sông) có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng (lương thực, nước uống), là yếu tố không thể thiếu trong canh tác nông
nghiệp, giao thông, trao đổi sản phẩm, thông tin,…

Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An

3


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

Khi sản xuất thủ công và trao đổi buôn bán phát triển tách khỏi và dần chi phối các hoạt
động sản xuất nông nghiệp thì đô thị hình thành. Tổ chức quần cư dưới dạng đô thị của
loài người, xuất hiện đầu tiên vào khoảng 9000 năm TCN.

Hình 1-4 Đô thị cổ đầu tiên Catal Huyuk [9400-8200 years ago] in Anatolia (Turkey) – Lối
vào nhà được tổ chức đi từ trên mái xuống bằng cầu thang. Tuổi thọ của dân cư trong đô thị
này khoảng từ 29-32 tuổi (Rất thấp so với thời điểm hiện nay).
Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An


4


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

Khi thủ công và thương mại phát triển trên cơ sở dư thừa sản phẩm và nhân lực. Trong xã
hội xuất hiện thành phân dân cư mới không trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp. Thành
phần dân cư này có nhu cầu hoạt động tập trung và là nhân tố tạo thành đô thị.
Chính sự dư thừa sản phẩm, làm nảy sinh tư tưởng chiếm hữu và tập trung quyền lực, đưa
đến việc hình thành giai cấp. Mô hình tổ chức xã hội mới -> xã hội chiếm hữu nô lệ và nhà
nước ra đời. Đô thị - hình thức tổ chức quần cư mới hội đủ điều kiện để hình thành.
Tóm lại, đô thị sơ khai có nguồn gốc từ làng. Ban đầu chịu ảnh hưởng trực tiếp từ vùng
nông nghiệp bao quanh, dần dần đô thị phát triển chi phối và thống trị các vùng nông thôn
lân cận, trở thành trung tâm chính của vùng và của quốc gia. Đô thị là động lực phát triển
xã hội và là nơi diễn ra qua trình tiến hóa của văn minh nhân loại.

Hình 1-5: Làng Camorun – Châu phi
Câu hỏi tham khảo: Con người thời nguyên thủy phát hiện ra lửa, biết dùng lửa, hoàn
thiện tiếng nói và cải tiến công cụ lao động để dần bớt phụ thuộc vào môi trường tự nhiên.
Từ đó, họ biết tận dụng các điều kiện thiên nhiên để tạo dựng cho mình nơi cư trú cố định.
Và Nguồn Nước là một yếu tố quyết định điều này? Đề nghị các bạn cho biết lý do tại sao?

Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An

5


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại


Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

2. Đô thị Ai cập cổ đại
Lịch sử nền Văn minh Ai cập cổ đại: Ai cập là một trong những cái nôi xuất hiện nền Văn
minh sớm nhất của Xã hội loài người.

Hình 2-1: Các mốc lịch sử của Thế giới Ai cập cổ đại
Thế giới Cổ đại ra đời lúc chế độ công xã thị tộc tan rã và chế độ chiếm hữu nô lệ hình
thành. Sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi phát triển đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
các hoạt động sản xuất mới: thủ công nghiệp và thương nghiệp. Sức sản xuất tăng lên cùng
với sự cải tiến công cụ lao động, hoạt động trao đổi buôn bán, sự phân hoá sản xuất chăn
nuôi nông nghiệp ra thành thủ công nghiệp và nông nghiệp, tài sản xã hội gia tăng nhanh
chóng.
Đô thị xuất hiện, những thành phố Ai cập cổ đại (khoảng 3000 năm trước CN) ban đầu
gánh vác hai chức năng:
- (1) là nơi trao đổi, mua bán sản phẩm (thị)
- (2) là thành luỹ để chủ nô lệ cũng cố địa vị của mình (đô).
Hầu hết, các quốc gia cổ đại đều hình thành và phát triển tại những vùng đồng bằng lưu vực
các dòng sông lớn, nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông-ngư nghiệp, chăn
nuôi, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Do điều kiện tự nhiên thuận lợi (lưu vực sông Nil
dài khoản 700km và rộng khoảng 50 km) nên nông nghiệp có tầm quan trọng đối với sự
sinh tồn của đô thị. Thần quyền và Vương quyền cũng tác động khá mạnh đến sự hình
thành bộ mặt của thành phố nên những thành phố thường cũng là những trung tâm tôn giáo
với những đền thờ lớn hay bên cạnh các thành phố thường có những Kim tự tháp, Mastaba,
hoặc Hypoge.
Ngoài những quần thể kim tự tháp và đền đài với quy mô lớn được xây dựng bằng đá còn
tồn tại được đến nay, các kết quả của hoạt động xây dựng đô thị phần lớn đã bị sa mạc và
Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An


6


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

thời gian làm mất đi. Những hình thức của đô thị lúc bấy giờ chỉ có thể hình dung được một
phần qua dấu vết còn lại của một số đô thị được xây dựng để tập trung nô lệ phục vụ cho
việc xây dựng kim tự tháp.
Về Tôn giáo: Gồm nhiều hệ thần linh, trong đó quan trọng nhất là hệ mặt trời, thần Mùa
màng nông nghiệp, thần Chiến tranh, thần phồn thực,… các thần được biểu hiện bằng
những hình vẽ, điêu khắc mình người, đầu động vật. Nhìn chung, cách tổ chức và xây dựng
đô thị cổ Ai cập tương đối thống nhất, đã tạo nên hình thái đô thị đặc trưng riêng, dễ nhận
biết so với các đô thị cùng thời ở nhiều khu vực khác nhau trên Thế giới.
Quan niệm xây dựng đô thị của Ai cập cổ đại thể hiện ở sự phân chia các khu chức năng đô
thị một cách tách biệt:
Thành phố cho người chết (Thế giới vĩnh hằng của linh hồn sau khi chết): Bao gồm những
công trình lăng mộ của các vương triều Ai cập cổ đại. Người Ai cập cổ đại đã sử dụng phổ
biến một loại vật liệu bền vững là đá với kích thước lớn để xây dựng các công trình có quy
mô khổng lồ.
Theo tính toán, với kỹ thuật xây dựng của thời kỳ này thì để xây dựng kim tự tháp, vua
Pharaon Khufu phải dùng đến 100 000 Nhân công làm việc trong suốt 20 năm liên tục (có
đến 2 triệu 300 ngàn phiến đá lớn được sử dụng, mỗi phiến cân nặng trung bình 2 tấn)

Hình 2-2: Nhóm kim tự tháp ở Gizé, Ai Cập
Khu đền thờ thần Ai cập cổ đại (Thế giới thiêng liêng của thần linh): Đa thần giáo có ý
nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội Ai cập cổ đại. Kiến trúc tôn giáo Ai cập là một quần
thể các đền thờ thần, trong đó quan trọng nhất là ngôi đền chính thờ thần Mặt trời hay vị
thần bảo hộ của địa phương, ngoài ra còn có các đền thờ những vị thần thứ cấp khác.

Quần thể đền thờ được bao bọc bởi tường thành kiên cố, có cổng chính mở về hướng sông
Nil tạo thành một tổng thể độc lập khép kín trong thành phố. Bên trong có các công trình
phụ trợ khác như kho chứa, xưởng thủ công, nhà của giới tăng lữ và nhà ở của một bộ phận
nông nô.

Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An

7


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

Hình 2-3: L'archéologie égyptienne, Gaston Maspero, 1907. Anciennement appelé
"pyramide de Righa".
Khu vực cư trú của dân cư đô thị (Thế giới tạm thời của người sống): Thành phố cho
người sống là nơi cư trú của tầng lớp chủ nô và nô lệ. Khu vực này không được chú trọng
xây dựng như khu vực các công trình tín ngưỡng và tôn giáo. Vật liệu được dùng để xây
nhà ở chủ yếu là đất nung, quy mô công trình nhỏ, kiến trúc đơn giản, cách bố cục tự do với
mật độ xây dựng cao. Riêng khu ở cho các tầng lớp thống trị, được xây dựng với quy mô
lớn hơn, sử dụng vật liệu đá, tuy nhiên vẫn ở mức độ vừa phải.

Hình 2-4: Mặt bằng nhà ở điển hình thời kỳ Ai cập cổ đại
Đặc điểm chính về tổ chức không gian đô thị thời kỳ Ai cập cổ đại:
-

Cách tổ chức không gian có sự phân chia giai cấp rõ rệt, vai trò thống trị tuyệt đối
của các Pharaon.


-

Tôn giáo đa thần, và tin tưởng vào sự sống vĩnh hằng của linh hồn con người, nên
chú trọng xây dựng các khu lăng mộ và khu đền thờ.

Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An

8


Chương 1: Lịch sử đô thị thời kỳ cổ đại

Khoa Kiến Trúc – ĐHBK – ĐHĐN - 12.2012

-

Đặc điểm nổi bật của không gian kiến trúc đô thị là việc sử dụng nguyên tắc bố cục
hình học dựa trên các hệ trục đối xứng dành cho các công trình xây dựng thuộc khu
lăng mộ và đền thờ. Ngược lại, trong khu ở được xây dựng với bố cục tự do.

-

Sử dụng vật liệu đá, hình khối kỷ hà, sử dụng điêu khắc với quy mô đồ sộ vượt ra
ngoài khả năng cảm nhận thông thường của con người. Với mong muốn các công
trình trường tồn. Và điều đó đã được chứng minh bởi sự tồn tại của các Kim tự tháp.

-

Khu vực cư trú được thiết kế bằng các loại vật liệu kém bền hơn như là đất hoặc đất
nung. Bố cục đơn giản, tự do và có quy mô nhỏ.


Câu hỏi tham khảo:
Các anh chị tìm hiểu quy mô của đô thị thời kỳ Ai cập cổ đại của 3 thời kỳ chính:
Thời kỳ Cổ Vương quốc (3500-2000 TCN);
Thời kỳ Trung Vương quốc (2000-1590 TCN);
Thời kỳ Tân Vương quốc (1590-322 TCN)?
Phân tích đặc điểm và so sánh các đô thị của ba thời kỳ này?
(Câu hỏi này sẽ được ra trong phần bài tập Kiểm tra giữa kỳ)

Câu hỏi thảo luận: Các bạn liên hệ lại hệ thống đô thị Ai cập cổ đại, tìm và nêu các ví dụ
của đô thị Đà Nẵng hiện nay:
Nêu các công trình Tôn giáo của thành phố Đà Nẵng?
Nêu các công trình Văn hóa giải trí?
Nêu các công trình hành chính – Quản lý xã hội?
Nêu các công trình giáo dục, hướng nghiệp?
Nêu các công trình Thương mại?
Nêu các khu công nghiệp?
Nêu các khu vực còn hiện diện vai trò phát triển nông nghiệp?
Trình bày chức năng của các công trình này? Hiện nay các công trình này đang phát triển
như thế nào

Giáo trình bài giảng môn Lịch sử Đô thị - Ts. Kts. Phan Bảo An

9



×