Tải bản đầy đủ (.doc) (237 trang)

giáo trình lịch sử VN hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 237 trang )

Chương I
MIỀN BẮC ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ - DIỆM CƯỠNG ÉP ĐỒNG
BÀO DI CƯ, HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, KHÔI PHỤC
KINH TẾ, CẢI TẠO QUAN HỆ SẢN XUẤT, MIỀN NAM ĐẤU TRANH
CHỐNG CHẾ ĐỘ MỸ - DIỆM GÌN GIỮ HOÀ BÌNH (1954 - 1960)
I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954 VÀ NHIỆM VỤ
CÁCH MẠNG TRONG THỜI KỲ MỚI
1. Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Genève 1954
Hiệp định Genève (21-7-1954) về Đông Dương được ký kết đã chấm dứt cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung và Việt
Nam nói riêng sau gần 9 năm kháng chiến gian khổ. Ngoài việc thủ tiêu ách thống trị
của thực dân Pháp gần một thế kỷ trên đất nước ta, thắng lợi này còn là một đòn
mạnh đánh vào âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh Đông Dương của đế quốc
Mỹ.
Theo Hiệp định Genève, việc ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển giao
khu vực được thi hành trong vòng 300 ngày, kể từ ngày 21-7-1954. Tuy nhiên, ngay
từ những ngày đầu, đế quốc Mỹ, bọn phản động Pháp và chính quyền tay sai Ngô
Đình Diệm tìm mọi cách gây khó khăn và phá hoại việc thi hành các điều khoản của
Hiệp định Genève, như cố tình khiêu khích, trì hoãn việc ngừng bắn trên các chiến
trường; tiến hành dụ dỗ và cưỡng bức gần 1 triệu đồng bào miền Bắc, chủ yếu là
đồng bào Thiên Chúa giáo, di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi hoặc phá hoại máy móc,
dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt và gây khó khăn cho ta trong việc tiếp
quản vùng giải phóng ở miền Bắc; cài lại hàng ngàn gián điệp, hàng trăm nhóm phản
động cùng với các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế,
các công trình công cộng. Các phần tử tay sai, các đảng phái phản động lén lút kích
động quần chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương, tung truyền đơn, tài liệu xuyên
tạc chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa nhằm lung lạc
quần chúng, gây hoang mang dao động trong nhân dân.
Về phía Việt Nam, với chủ trương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Genève,
ngày 22-7-1954, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh cho các lực


lượng vũ trang ngừng bắn trên chiến trường toàn quốc (Bắc Bộ ngày 27-7; Trung Bộ
ngày 1-8; Nam Bộ ngày 11-8-1954); mặt khác, Chính phủ và nhân dân ta kiên quyết
đấu tranh đòi đối phương cũng phải nghiêm túc thi hành Hiệp định. Kết quả, các điều
khoản về việc ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực đã được thực
hiện đúng quy định. Ngày 10-10-1954, quân ta tiếp quản thủ đô Hà Nội trong sự đón
chào nồng nhiệt của nhân dân thành phố. Ngày 01-01-1955, tại quảng trường Ba
Đình lịch sử, một cuộc mít tinh trọng thể được tổ chức để chào mừng Trung ương
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về thủ đô với sự tham gia của hàng
chục vạn nhân dân thành phố. Sự kiện lịch sử này đã gây ấn tượng sâu sắc và có ý
nghĩa chính trị lớn đối với đồng bào cả nước.
1
Ngày 13-5-1955, tên lính viễn chinh cuối cùng của quân đội thực dân Pháp đã
rút khỏi Hải Phòng và đến ngày 16-5-1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà. Miền Bắc Việt
Nam đã sạch bóng quân xâm lược.
Ở miền Nam Việt Nam, theo quy định của hiệp định Genève, thực dân Pháp
tạm thời nắm quyền kiểm soát trong hai năm. Suốt thời gian này, thực dân Pháp luôn
gây cản trở và phá hoại các điều khoản của Hiệp định. Tuy nhiên, một mặt do sự đấu
tranh kiên quyết của nhân dân ta; mặt khác do âm mưu của Mỹ muốn gạt Pháp để độc
chiếm miền Nam, nên quân đội Pháp đã từng bước rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Ngày 14-4-1956, chính phủ Pháp gửi Thông điệp cho hai Chủ tịch Hội nghị Genève
1954 về Đông Dương thông báo về việc quân viễn chinh Pháp ở miền Nam đã rút hết
về nước.
Quân đội Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam trong khi còn những điều khoản
của hiệp định liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành, trong đó có điều
khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Nam - Bắc. Tập đoàn Mỹ
- Diệm, kẻ kế tục thực dân Pháp ở miền Nam, sẵn có âm mưu từ trước đã trắng trợn
phá hoại Hiệp định Genève.
Miền Nam từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, giờ đây
phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, toàn bộ hoạt động của cách
mạng phải chuyển sang phương thức vừa hợp pháp vừa không hợp pháp, vừa công

khai vừa bí mật. Đó là một đảo lộn lớn, một tình thế nguy hiểm đối với cách mạng ở
miền Nam. Sự thay đổi đó tác động mạnh đến tâm tư, tình cảm đồng bào, đồng chí
hai miền Bắc - Nam và đặt ra cho cách mạng Việt Nam những nhiệm vụ mới vô cùng
khó khăn.
2. Nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới
Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam xuất phát từ tình hình cụ thể của đất nước
sau Hiệp định Genève 1954 như đã đề cập; đồng thời cũng xuất phát từ chính sách
của Mỹ đi từ can thiệp đến xâm lược Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương được Mỹ đặc biệt quan tâm. Vì đây là
một hướng chiến lược quan trọng nhằm bao vây các nước xã hội chủ nghĩa (trước hết
là Liên Xô và Trung Quốc) từ hướng Đông và chống lại các trào lưu cách mạng ở
khu vực Đông Nam Á. Đây là vùng được thiên nhiên ưu đãi có dư thừa các tiền đề
vật chất (tài nguyên và nhân lực), chứa đựng một tiềm năng phát triển to lớn chưa thể
lường trước được. Đây còn là nơi có các tuyến đường hàng hải (Bắc - Nam và Tây -
Đông) vận chuyển phần lớn hàng hoá của “thế giới tự do” mà Mỹ cần phải bảo vệ.
Vì vậy, ngay khi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của Pháp (1945 -
1954) đang diễn ra, Mỹ đã bằng mọi cách giúp Pháp tránh được thất bại. Theo nhãn
quan của các nhà chiến lược Mỹ, cuộc kháng chiến của Việt Nam đang uy hiếp trực
tiếp quyền lợi của chủ nghĩa đế quốc ở vùng Đông Nam Á. Tổng thống Mỹ
Eisenhower đã lập luận rằng nếu để Việt Nam và Đông Dương rơi vào tay cộng sản
thì không chỉ Đông Nam Á mà "chuỗi đảo phòng thủ gồm Nhật Bản, Đài Loan, Phi-
líp-pin và hướng về phía Nam, nó chuyển sang ... cả Úc và Tân Tây lan"
1
đều bị đe
1
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987,
tr 18.
2
dọa. Mặt khác, Mỹ còn coi Việt Nam và Đông Dương có một vị trí quan trọng ở châu
Á . Theo giới cầm quyền Mỹ, nếu coi Đông Nam Á là cái ổ khóa để mở cửa đi vào

lục địa châu Á từ phía Nam, thì Việt Nam và Đông Dương là cái chìa khóa mở cửa
vào gần nhất. Việt Nam là cầu nối liền với hệ thống xã hội chủ nghĩa với vùng Đông
Nam Á đang sục sôi cách mạng; sau khi đánh thắng thực dân Pháp, Việt Nam là ngọn
cờ cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên khắp các lục địa Á, Phi, Mỹ
Latinh.
Từ cách nhìn trên đây, chính quyền Eisenhower đã không ngừng tăng viện trợ
cho thực dân Pháp, từ 150 triệu đô-la năm 1950 lên tới 1 tỉ vào năm 1954, chiếm gần
80% toàn bộ chiến phí của Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, sự chi viện to lớn của
Mỹ vẫn không tài nào ngăn chặn được sự thất bại hoàn toàn của Pháp. Ngày 7-5-
1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân ta toàn thắng, Mỹ tăng
cường chuẩn bị thế lực thay thực dân Pháp ở Việt Nam. Bằng sức ép của Mỹ đối với
Pháp và bằng nhiều cuộc vận động khác, ngày 16-6-1954, bù nhìn Bảo Đại cùng một
lúc ký hai sắc lệnh: Một chấp nhận đơn “từ chức” thủ tướng của Bửu Lộc; một chỉ
định Ngô Đình Diệm là thủ tướng “Quốc gia Việt Nam”. Ngày 7-7-1954, Ngô Đình
Diệm chính thức lập chính phủ bù nhìn tại Sài Gòn, mở đầu chế độ độc tài gia đình
trị Ngô Đình Diệm tại miền Nam. Tiếp theo, Hiệp định Genève (21-7-1954) được ký
kết, khách quan tạo cơ hội để Mỹ nhanh chóng gạt Pháp, trực tiếp tiến hành chiến
tranh xâm lược Việt Nam thông qua chủ nghĩa thực dân mới. Đế quốc Mỹ đã chuyển
từ vai trò một kẻ can thiệp sang kẻ xâm lược; và Việt Nam từ đây giữ một vai trò
quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ. Ngày 23-7-1954, hai
ngày sau khi Hiệp định Genève được ký kết, Ngoại trưởng Mỹ Dulles tuyên bố: "Từ
nay về sau, vấn đề bức thiết không phải là than tiếc dĩ vãng, mà là lợi dụng thời cơ
để việc thất thủ miền Bắc Việt Nam không mở đường cho chủ nghĩa cộng sản bành
trướng ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương"
1
.
Ngày 3-8-1954, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ cho rằng: "Hiệp định
Giơnevơ 1954 là một thảm họa, đã hoàn thành bước quan trọng của chủ nghĩa cộng
sản, có thể dẫn tới mất cả Đông Nam Á"
2

.
Tháng 9-1954, Mỹ lôi kéo một số nước (Anh, Pháp, Niu Dilân, Ôxtrâylia,
Philippin, Thái Lan và Pakixtan) lập ra khối “Liên minh quân sự Đông Nam Á”
(SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này.
Như thế, miền Nam Việt Nam từ sau khi ký kết Hiệp định Genève, tồn tại ba
lực lượng chính trị, quân sự chủ yếu là: Pháp (và các thế lực thân Pháp), Mỹ (và các
thế lực thân Mỹ) và các lực lượng cách mạng miền Nam. Pháp và các lực lượng thân
Pháp nhanh chóng bị gạt bỏ, còn lại hai lực lượng đối lập nhau gay gắt: Mỹ - Diệm
và nhân dân miền Nam.
Về phía Việt Nam, ngay khi Hội nghị Genève đang đi vào hồi kết, ngày 17-7-
1954, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) họp ở Việt Bắc. Hội nghị
đã thảo luận và nhất trí với đường lối và chủ trương mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh
1
Trần Bá Đệ. Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, tr
310.
2
Hoàng Tùng. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1974, tr 18.
3
nêu ra. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại
hoà bình ở Đông Dương ... và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân
dân Đông Dương”
1
. Hội nghị quyết định: “Thay đổi phương châm, chính sách và
sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt. Đây là
một sự thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng, nhưng mục
đích của cách mạng vẫn là một”
2
.
Đầu tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã kịp thời ra nghị quyết về "Tình hình mới,

nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng", nêu rõ cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã
bước vào một giai đoạn mới với nhiệm vụ là: "Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu
tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hiệp
định đình chiến để củng cố hòa bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi
và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc;
giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố
hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc"
3
.
Sau 300 ngày thi hành Hiệp định Genève, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm
hai miền. Miền Bắc được giải phóng; cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về
cơ bản đã hoàn thành; trong lúc đó miền Nam đang nằm dưới ách thống trị của Mỹ -
Diệm. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đến đây vẫn chưa hoàn
thành.
Vì vậy, cuộc đấu tranh vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ,
hòa bình chưa kết thúc; cuộc đấu tranh đó còn phải được tiếp tục dưới nhiều hình
thức và bằng những phương pháp thích hợp. Trong cuộc đấu tranh này, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân hai miền Bắc - Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau: Miền Bắc tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và miền Nam tiếp tục
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, tiến tới hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất nước nhà. Hội
nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa II) tháng 8-1955 khẳng định: “Điều cốt yếu là phải
ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam... Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình thế nào, miền Bắc
cũng phải được củng cố”
4
.
Nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng mỗi miền xét cho cùng cũng là nhiệm vụ,
mục tiêu chung của cách mạng cả nước là đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai,
giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân trong cả nước, thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mỗi chiến lược cách mạng nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể riêng của
từng miền, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít, tạo điều kiện cho nhau cùng
phát triển. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng
1
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15 (1954). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 225.
2
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15 (1954). Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 226.
3
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15 (1954). Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 287.
4
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16 (1955). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tr.
576-577.
4
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, mà còn nhằm giải phóng miền
Nam và đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước sau khi đất nước thống nhất. Cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam vừa có nhiệm vụ giải phóng miền Nam, vừa có
nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc. Phải dùng sức mạnh của cả nước để giải phóng miền
Nam, đồng thời cũng sử dụng sức mạnh của cả nước để bảo vệ và xây dựng miền
Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng đồng thời
cũng là mối quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến. Thắng lợi giành được ở mỗi
miền là thắng lợi chung của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc. Đây là
đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta trong giai đoạn lịch
sử 1954 - 1975.
Như vậy, về phía Mỹ do yêu cầu chiến lược phải ngăn chặn bằng được lực
lượng cách mạng ở Đông Nam Á và chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ đã
chọn Việt Nam làm điểm then chốt; còn một bên là các lực lượng cách mạng mà
nhân dân Việt Nam là đội xung kích, cần phải đẩy lùi chủ nghĩa đế quốc ra khỏi vị trí

chiến lược này để đưa cách mạng tiến lên. Hai lực lượng đối kháng, đại diện cho
cách mạng và phản cách mạng đã gặp nhau ở đây, tất yếu dẫn đến cuộc đụng đầu lịch
sử. Từ thực tế đó, Việt Nam đã trở thành "một điểm trung tâm, một chặng đường
trong quá trình phát triển lâu dài của cách mạng thế giới. Đây là sự đụng đầu tiêu
biểu giữa những lực lượng đối lập tiêu biểu của thời đại"
1
. Nói cụ thể hơn, cuộc
chiến đấu của dân tộc ta trong giai đoạn lịch sử 1954 - 1975 chống Mỹ xâm lược
không phải là một ngẫu nhiên, mà là một cuộc đụng đầu lịch sử trong thời đại chúng
ta.
II. MIỀN BẮC ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ - DIỆM CƯỠNG ÉP ĐỒNG BÀO
DI CƯ, HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, KHÔI PHỤC KINH TẾ,
CẢI TẠO QUAN HỆ SẢN XUẤT (1954 - 1960)
1. Thực trạng kinh tế - xã hội miền Bắc sau Hiệp định Genève
Sau Hiệp định Genève, miền Bắc có thêm những điều kiện chính trị - xã hội
thuận lợi. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng những khó khăn là không ít, nhất là về
kinh tế - xã hội do hậu quả của cuộc chiến tranh để lại.
Trong các vùng nông thôn, hậu quả của các cuộc càn quét theo chính sách
"tam quang" (đốt sạch, giết sạch, phá sạch), dồn dân lập “vành đai trắng” của
địch, hàng vạn héc ta đất bị bỏ hoang, đê đập bị phá hoại. Nhân công, nông cụ và
sức kéo đều thiếu nghiêm trọng. Kỹ thuật canh tác lạc hậu, đời sống nhân dân thấp
kém.
Các thành thị trong thời kỳ Pháp chiếm đóng mang nặng tính chất tiêu thụ, sự
phồn vinh chỉ là giả tạo. Hàng ngoại tràn ngập thị trường làm cho công nghiệp dân
tộc không phát triển được. Tiểu thủ công nghiệp bị chèn ép, sa sút hoặc phá sản. Ở
những cơ sở công nghiệp lớn do thực dân Pháp nắm giữ, như mỏ than Hòn Gai, nhà
máy xi măng Hải Phòng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy điện Hà Nội,... bị địch
tháo gỡ thiết bị hoặc phá hoại trước lúc rút lui nên không hoạt động được, hoặc chỉ
hoạt động cầm chừng. Vì thế, nhiều công nhân thất nghiệp, đời sống gặp khó khăn.
1

Hoàng Tùng. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1974, tr 18.
5
Tại các vùng tự do cũ, tuy nông nghiệp và công nghiệp được chú ý phát triển,
nhưng quy mô nhỏ bé, kỹ thuật lạc hậu. Do đó, năng suất thấp, không đáp ứng được
nhu cầu sản xuất và đời sống ngày càng tăng lên trong thời bình. Cuộc cải cách ruộng
đất bắt đầu từ năm 1953 cũng chỉ mới thực hiện ở một số địa phương thuộc vùng tự
do. Chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến vẫn tồn tại. Giai cấp
nông dân tuy đã đã được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân, nhưng vẫn còn
bị giai cấp địa chủ bóc lột, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất.
Sau khi hòa bình lập lại, nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng đặt ra. Số người mù
chữ rất đông. Hệ thống y tế nhỏ bé, lạc hậu. Các bệnh xã hội như lao phổi, hoa liễu,
sốt rét... hoành hành. Các tệ nạn mại dâm, nghiện hút, cướp giật, cờ bạc ... phổ biến
khắp nơi. Hàng trăm ngàn người thất nghiệp, lâm vào đói kém, 240.000 tề ngụy rã
đám chưa qua cải tạo, 11.000 phỉ vẫn tác oai, tác quái ở vùng cao.
Một tình hình nghiêm trọng hơn là địch cưỡng ép, dụ dỗ đồng bào miền Bắc,
chủ yếu là tín đồ Thiên Chúa giáo di cư vào Nam. Thực ra, âm mưu này của Mỹ đã
có từ trước: ''Ngay từ khi vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương
còn đang đàm phán, Tổng thống Mỹ Aixenhao đã lớn tiếng hô hào: Nếu Hội nghị
Giơnevơ đi đến ký kết, sẽ tổ chức một cuộc di cư có kế hoạch người Việt Nam từ Bắc
vào Nam”
1
.
Để gây hoang mang và thúc ép đồng bào bỏ nhà cửa tài sản di cư vào Nam,
Mỹ - Pháp cho tay sai tung tin bịa đặt tuyên truyền luận điệu rằng Chính phủ Việt
Minh cấm đạo, Chúa đã vào Nam, là con chiên ngoan đạo thì phải theo Chúa để được
yên phần xác lẫn phần hồn, ở với cộng sản sẽ bị mất linh hồn... Chúng còn đe dọa
chiến tranh sẽ trở lại, Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống Hà Nội, Đồng Hới, Vĩnh
Linh... Mặt khác, Mỹ cung cấp phương tiện chuyên chở, "Mỹ đã đưa một đoàn 19
máy bay và một đoàn 41 tàu thủy để chuyên chở những người bị cưỡng ép di cư này

vào Nam"
2
.
Tính đến tháng 7-1955, tổng số người bị địch dụ dỗ, cưỡng bức di cư vào
Nam là 887.895 người, tín đồ Thiên Chúa giáo là 754.710 (Phật giáo và Tin Lành là
133.185) chiếm tỉ lệ 85%
3
.
Từ tình hình thực tế kinh tế - xã hội trên, Đảng và Chính phủ chủ trương vừa
đấu tranh chống địch cưỡng ép đồng bào di cư vừa đẩy mạnh cuộc vận động cải cách
ruộng đất, khôi phục kinh tế, nhằm củng cố miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc
bước sang giai đoạn mới.
Cần phải thấy rằng những khó khăn trên đây đòi hỏi phải được giải quyết
nhanh chóng. Điều này không chỉ do sự đòi hỏi cấp bách của việc khôi phục và phát
1
Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, t. 2, (1954-1975). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 62.
2
Phong Hiền. Chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Nxb Thông tin Lý
luận, Hà Nội, 1984, tr. 53.
3
Tổng kết thành tích đệ nhị chu niên của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Sài Gòn, 1956, tr.
224.
3
Chỉ thị (Mật, Khẩn) số 126-PTT/DL/M ngày 23-7-1954 của Ngô Đình Diệm gửi các ông
Tổng trưởng và Bộ trưởng, Uỷ ban bảo vệ Bắc Việt, Ông Đại biểu Chính phủ ở Trung Việt,
ông Đổng lý Văn phòng Đức Quốc trưởng tại Đà Lạt. Ký hiệu tài liệu PTT-14613.
6
triển kinh tế sau chiến tranh, mà còn bao hàm ý nghĩa chính trị sâu sắc, nhất là trong
điều kiện nước nhà đang tạm thời bị chia cắt làm hai miền.

2. Đấu tranh chống Mỹ - Diệm cưỡng ép đồng bào di cư
Ngay sau Hiệp định Genève, ngày 23-7-1954, Ngô Đình Diệm chỉ thị cho các
Tổng trưởng và Bộ trưởng, Ủy ban bảo vệ Bắc Việt, Đại biểu Chính phủ ở Trung
Việt, Đổng lý Văn phòng Đức Quốc trưởng tại Đà Lạt ”Cần phải tổ chức gấp rút
chuyển vào Trung và Nam dân chúng và tài sản công”, trong đó ưu tiên trước hết là
ngân khố, sau là quân đội chính quy và địa phương quân và gia đình, công chức và
gia đình. Về “dân chúng, lưu ý trước tiên đến những phần tử chuyên nghiệp (thợ
chuyên môn) và những phần tử có khả năng sản xuất”
1
. Tiến hành chính sách cưỡng
ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, đế quốc Mỹ và tay sai nhằm mục đích cơ bản
sau:
Một là, về mặt chính trị, đối với thế giới, Mỹ và tay sai cố tạo ra dư luận xấu
về chế độ ta ở miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với
cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta, tạo ra ảnh hưởng xấu của cách
mạng Việt Nam đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tờ Revue Socialist
(Pháp) ra ngày 2-11-1954 viết: “Cuộc di cư này trước hết là một hành động chính
trị, nhằm làm cho dư luận thế giới ngỡ rằng nhân dân Việt Nam chán ghét Việt Minh
và chủ nghĩa cộng sản”
2
. Tuy nhiên, âm mưu của Mỹ - Diệm đã bị báo chí phương
Tây vạch mặt: “Sự thật, đại đa số nhân dân Việt Nam đều biểu lộ cảm tình của mình
đối với Việt Minh”
3
.
Hai là, về kinh tế - xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ - Diệm hy vọng rút được
một số lượng trí thức, công nhân kỹ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá
hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người ly
tán, nội bộ lục đục, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và
hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư

sẽ là nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt cho các đồn điền cao su, cà phê, chè, cây ăn
quả và một số cây công nghiệp mới du nhập vào miền Nam sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. Tài liệu địch nói rõ: “Về kinh tế: đồng bào di cư là những người đã làm ăn
một cách cần cù, siêng năng, ưa sống một đời giản dị. Họ hoàn toàn là những nhà
sản xuất nhiều và tiêu thụ ít, nên sau này sẽ giúp cho nền kinh tế quốc gia thịnh
vượng. Hơn thế, đồng bào bổ khuyết cho tình trạng thiếu nhân công để khai thác
trong miền Nam nước Việt. Do đó, những chương trình mở mang kinh tế của Chính
phủ cũng có thi hành dễ dàng một phần nào về phương diện nhân công mà không
phải là chiếm quyền lợi kinh tế của đồng bào miền Nam”
4
. Derocheau, Phó Thư kí
Phòng Cứu tế giáo dân đến Đông Dương nghiên cứu vấn đề di cư đã cho rằng: “Biện
pháp để giải quyết trong việc sử dụng dân di cư là đưa họ lên các đồn điền cao su
1
2
Trần Văn Giàu. Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 1. Nxb Khoa học, Hà Nội, 1964, tr.
49.
3
Trần Văn Giàu, Sđd., tr. 50.
4
Báo cáo số 655/TU/VP/M của Phủ Tổng uỷ di cư tỵ nạn về “Hoạt động của Phủ tổng uỷ di
cư tị nạn trong năm chấp chánh thứ hai của Ngô Tổng thống (từ tháng 7-1955 đến tháng 7-
1955)”. Trung tâm lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu: Đệ I CH-4400, tr. 19.
7
đang thiếu nhân công”
1
. Với mục đích đó, Mỹ - Diệm đã đưa một số lượng lớn đồng
bào di cư đến lao động ở các đồn điền. Theo tờ Le Monde (Pháp) ra ngày 29-1-1955,
số người di cư đưa đến các đồn điền là 5 vạn người
2

.
Ba là, ở miền Nam, với số người di cư, địch nhằm “thăng bằng sự chênh lệch
giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu”. Nghĩa là “tăng thêm
hy vọng của thắng lợi tổng tuyển cử đối với những lãnh tụ quốc gia”
3
; đồng thời tạo
ra cơ sở xã hội vững chắc cho chế độ Ngô Đình Diệm. Đồng bào di cư là nguồn nhân
lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Tờ Le Monde
(Pháp), ra ngày 29-11-1954, viết: “Nhà cầm quyền miền Nam quyết tuyển mộ binh
lính trong số những người miền Bắc di cư; họ xem số người miền Bắc như là một
khối dự trữ cho quân đội của họ, cho những tổ chức chính trị của họ, trong khối dự
trữ đó, họ mộ được những tay chân cuồng tín”
4
và “Thanh niên công giáo di cư sẽ
là nguồn bổ sung cho một đội quân nguỵ dự kiến là 10 sư đoàn ... Mỹ - Diệm hy vọng
rằng một quân đội gồm phần lớn là người công giáo sẽ có một tinh thần chống cộng
mạnh mẽ”
5
.
Để thực hiện việc cưỡng ép đồng bào di cư, Mỹ - Diệm cho thành lập “Phủ
Tổng ủy di cư tị nạn”, với nhiệm vụ điều khiển việc di cư từ Bắc vào Nam. Bên cạnh
”Phủ Tổng ủy di cư tị nạn”, một tổ chức cứu trợ di cư cũng được thành lập do Linh
mục Phạm Ngọc Chi đứng đầu. Tiếp theo, Ngô Đình Diệm còn thành lập “Ủy ban di
cư Bắc Việt” lo việc huấn luyện gián điệp, tổ chức hoạt động dụ dỗ, cưỡng bức di cư.
Chính đế quốc Mỹ đã cung cấp nhiều phương tiện vận tải, tiền bạc, thuốc men, lương
thực, thực phẩm và cử Hồìng y Spellman, Tổng tuyên uý trong quân đội Mỹ sang
Việt Nam để chỉ đạo chiến dịch này. Ngày 2-8-1954, Ngô Đình Diệm đích thân ra Hà
Nội kiểm tra công việc tổ chức di cư. Diệm đã trắng trợn tuyên bố rằng: “Tôi sẽ
hướng mọi nỗ lực của tôi vào công việc tổ chức di cư”
6

.
Bộ máy nhà nước Diệm tập trung ở mức cao nhất tuyên truyền cho chiến dịch
cưỡng ép di cư, rằng cộng sản là vô thần nên ”sẽ cấm đạo, ai mang tượng Đức Mẹ
phải đóng thuế 50 đồng Đông Dương và mỗi lần đến lễ ở nhà thờ phải trả 5 đồng”
7
.
Thâm độc nhất là Mỹ - Diệm lợi dụng sự hiểu biết hạn chế của giáo dân, dựng lên
1
Bộ Tuyên truyền. Tội ác của đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản Hiệp định và bè lũ Ngô
Đình Diệm trong âm mưu cưỡng ép và dụ dỗ đồng bào di cư ở Việt Nam. Bộ Tuyên truyền
xuất bản, 1955, tr. 58.
2
Bộ Tuyên truyền, Sđd., tr. 58.
3
Hoàng Linh. Tội của đế quốc Mỹ trong việc bắt ép đồng bào di cư vào Nam. Nxb Sự Thật,
Hà Nội, 1955, tr. 27.
4
Trần Văn Giàu, Sđd., tr. 50.
5
Phong Hiền. Chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Nxb Thông tin lý
luận, Hà Nội, 1984, tr. 55.
6
Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-
1975, Tập 2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 35.
7
Lê Thành Nam. Chính sách di cư của Mĩ và chính quyền Sài Gòn những năm sau Hiệp
định Genève (1954-1956) trong “Việt Nam 1954 - 2005”. Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Mình,
2005 , tr. 97.
8
chiêu bài: “Đức Mẹ và con trai là Chúa Giê-su đã vào Nam"

1
để cưỡng ép giáo dân
di cư vào Nam.
Đối tượng mà Mỹ - Diệm tập trung cưỡng ép di cư vào Nam bao gồm ngụy
binh và gia đình của họ, giáo dân, thanh niên, công chức, giáo viên và những người
trí thức, nhà chuyên môn... Và để cưỡng bức được nhiều đồng bào di cư vào Nam,
cuối tháng 7-1954, địch đóng cửa Ngân hàng Đông Dương, không cho rút tiền ra.
Sang tháng 8, địch chuyển tiền vào Nam, buộc những người có tiền gửi ngân hàng
phải vào Sài Gòn để lĩnh, v.v..
Cùng với các biện pháp trên, Mỹ - Diệm còn sử dụng quân đội, công an, cảnh
sát để càn quét, khủng bố bắt ép nhân dân di cư. Tại thôn Vạn Lộc (Quảng Bình),
địch dùng máy bay thả bom, bắn đạn cháy 34 nhà cùng tất cả tài sản, làm 4 người
chết, 439 người bị bắt đi. Tại Thanh Giã và Giã Khê (Bắc Giang), ngày 29-7-1954,
Mỹ - Diệm đã lừa bắt nhân dân xếp đầy 100 xe chở đi mà không ai kịp lấy quần áo,
gạo thóc. Tại Móng Cái, ngày 31-7-1954, chúng đã bắt hơn 1000 người,... Không chỉ
ở nông thôn mà cả những thành phố lớn, như Hà Nội, Hải Phòng,... địch cũng sử
dụng lực lượng quân sự, công an, cảnh sát,... để vây ráp, bắt nhân dân di cư. Ngày
20-8-1954, chúng vây Quảng Bá (Hà Nội) bắt 20 người; ngày 25-8-1954, vây bãi
Phúc Xá (Hà Nội) bắt 50 người,... Việc dùng bạo lực cưỡng ép di cư diễn ra phổ biến
khắp miền Bắc, nhất là những địa phương có đông tín đồ Thiên Chúa giáo.
Nắm bắt kịp thời âm mưu của Mỹ - Diệm về chính sách cưỡng ép đồng bào
miền Bắc di cư vào Nam, ngày 5-9-1954, Ban Bí thư ra chỉ thị nêu rõ: “Cuộc đấu
tranh chống địch bắt ép một số nhân dân ta vào Nam... là một cuộc đấu tranh chính
trị gay go và cấp bách. Các cấp uỷ Đảng phải nhận rõ tính chất và ý nghĩa quan
trọng của cuộc đấu tranh này”
2
. Tiếp theo, ngày 6-11-1954, Ban Bí thư ra tiếp chỉ
thị và nhấn mạnh rằng: “Địch đang theo đuổi một âm mưu rất thâm độc để phá
chúng ta. Các cấp ủy phải coi cuộc đấu tranh chống địch ngụy bắt dân di cư vào
Nam là một cuộc vận động chính trị to lớn, một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt với

đối phương, không phải một đôi tuần, một vài tháng, mà là một cuộc đấu tranh lâu
dài, gian khổ. Một mặt phải đối phó kịp thời với những việc bất ngờ xảy ra, một mặt
phải có kế hoạch thông suốt, lâu dài để đối phó với toàn bộ âm mưu của địch”
3
.
Sang năm 1955, Trung ương tăng cường chỉ đạo, giải quyết một số vướng
mắc, bế tắc trong việc chỉ đạo đấu tranh. Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị,
ngày 16-2-1955 yêu cầu phải: “Đẩy mạnh đấu tranh mọi mặt, phá âm mưu mới của
địch trong việc dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di cư, chủ động tiến công địch, tranh thủ
cảm tình của quần chúng, tranh thủ dư luận trong nước và thế giới”
4
. Tiếp theo, Chỉ
thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư, ngày 21-4-1955, yêu cầu các cấp ủy Đảng khắc
phục ngay những tư tưởng lệch lạc, kiên quyết tập trung lực lượng phát động quần
chúng tiến công mạnh mẽ, rộng khắp, toàn diện để phá âm mưu của địch.
1
Lê Cung. Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 (in lần thứ ba). Nxb Thuận
Hoá, Huế, 2005, tr 68.
2
Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 15 (1954). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 270.
3
Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 15 (1954). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nôi, 2002, tr. 368.
4
Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 16 (1955). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 71.
9
Những chủ trương và biện pháp trên đây của Đảng cho thấy chính sách cưỡng
ép di cư của Mỹ - Diệm là hết sức thâm độc và đã gây ra những khó khăn nghiêm
trọng đối với ta trong việc tiếp quản những vùng do địch chiếm đóng; đồng thời cũng
thấy được sự tỉnh táo, sáng suốt của Đảng trước tình thế khó khăn, cấp bách đặt ra.
Những chủ trương và biện pháp này từng bước lãnh đạo nhân dân miền Bắc đi vào

cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư.
Thực hiện chủ trương của Đảng, trên nhiều địa phương ở miền Bắc, các Ban
chỉ đạo chống cưỡng ép di cư được thành lập, hàng vạn cán bộ, bộ đội được huy
động về giúp các địa phương vận động quần chúng đấu tranh, vạch trần âm mưu và
thủ đoạn của địch.
Ở khu Tả ngạn sông Hồng, Mỹ - Diệm đã tạo ra một tình hình hết sức căng
thẳng. Tại Kim Động (Hưng Yên), trước khi rút vào khu tập kết, địch đốt phá làng
Thiên Chúa giáo Ngọc Đồng rồi vu khống cho Việt Minh. Ở Thanh Miện, Ân Thi,
Tứ Kỳ, Gia Lộc và Cẩm Giàng (Hải Dương), địch cho máy bay thả côn trùng phá
hoại mùa màng. Ở Hải Phòng, tại nhà thờ phố Dinh (nay là phố Trần Nguyên Hãn),
tháng 1-1955, sau buổi lễ, cha xứ tháo chuông và ảnh Đức Mẹ, chúng ép buộc ai
không đi Nam phải bước qua ảnh Đức Mẹ. Giáo dân kinh hoàng, khóc than và tất cả
phải ký giấy đồng ý ra đi. Chúng bắt giáo dân ký vào đơn kiện lên Ủy ban quốc tế và
giám sát đình chiến ở Việt Nam rằng Chính phủ Việt Nam vi phạm điều 14c, 14d của
Hiệp định Giơnevơ.
Ngày 6-8-1954, Khu ủy Tả ngạn ra Chỉ thị 27-CT, phân tích âm mưu địch, đề
ra 6 nhiệm vụ mà các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần thực hiện nhằm vận động giáo
dân ở lại. Hội nghị cán bộ Khu tả ngạn tháng 8-1954 chỉ rõ: “Tranh thủ giáo dân
chống âm mưu cưỡng bức di cư của địch” là một trong 8 công tác cấp bách của toàn
khu. Tiếp theo, Khu ủy tổ chức các đoàn cán bộ xuống các vùng có đông đồng bào
Thiên Chúa giáo, vùng mới giải phóng và nơi địch sắp rút quân, làm công tác vận
động. Nhiều giáo dân chuẩn bị đi, sau khi nghe cán bộ tuyên truyền, giải thích, đã
quyết định ở lại; hoặc nhiều người đang đi thì trốn về. Từ ngày 21-7 đến ngày 18-8-
1954, toàn Khu vận động được 56 gia đình (khoảng 4.370 người) đang đi quay trở
lại.
Tỉnh Nam Định, có 936 giáo dân đến gặp chính quyền ta tố cáo kẻ chủ mưu
dụ dỗ, cưỡng ép họ bỏ nhà ra đi. Giáo dân ở đây cũng đã kịp thời báo cáo và giúp đỡ
chính quyền cách mạng đập tan âm mưu của bọn đầu sỏ tập trung giáo dân ở 14 xứ
đạo về Xuân Ninh (Xuân Trường) dụ dỗ họ di cư hàng loạt.
Đối với những phần tử ngoan cố, vi phạm pháp luật Nhà nước, ta kiên quyết

trừng trị. Ngày 1-11-1954, Ủy ban hành chính tỉnh Ninh Bình ra lệnh giải tán các trại
tập trung ở Phát Diệm. Hàng ngàn đồng bào tấp nập quay về. Trong năm 1955, các
tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã phát hiện và xử lý 17 vụ phản động tấn công
vào bộ đội, 4 vụ cài mìn...
Ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá), Mỹ - Diệm chọn Ba Làng làm tụ điểm tập trung giáo
dân, biến nơi đây thành điểm tập kết, gây sức ép để Ủy ban Quốc tế can thiệp. Ngày
5-12-1954, địch đã bắt ép một số đông giáo dân tập trung vào nhà xứï để chờ đi Nam.
Để thực hiện âm mưu, chúng tổ chức một ổ võ trang có hệ thống ở Ba Làng.
10
Trước tình hình đó, ngày 18-12-1954, Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh Hoá họp, ra
nghị quyết: “Tích cực đẩy mạnh đoàn kết tuyên truyền, giáo dục, phát động quần
chúng trấn áp phản động” và chủ trương: “Tước vũ khí, bắt đầu sỏ, giải phóng nhân
dân, đẩy mạnh tuyên truyền, phân hoá từng loại để xử lý”. Bằng nhiều biện pháp
khác nhau, đến ngày 20-12-1954, ta đã giải tán được trên 2.000 giáo dân từ các nơi
kéo về Ba Làng tập trung.
Mặc dù vậy, địch vẫn ngoan cố, tiếp tục tổ chức lực lượng vũ trang, lùng bắt
cán bộ, cướp vũ khí của bộ đội, phá tài sản của nhân dân. Chúng còn liên lạc với tàu
Pháp ở ngoài biển để đưa dân đi Nam. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Thanh Hoá,
ngày 3-1-1955, ta dùng hệ thống loa phát thanh giải thích chính sách của Đảng và
Chính phủ, vạch rõ âm mưu thâm độc của địch và vận động các gia đình kêu gọi
người thân trở về. Địch tiếp tục dùng lực lượng vũ trang kìm hãm giáo dân, nổ súng
làm một số cán bộ, bộ đội hy sinh, 40 đồng chí bị thương, 6 cán bộ, bộ đội bị chúng
bắt giữ.
Tuy vậy, ta vẫn kiên trì giải thích chính sách của Đảng, song địch vẫn ngoan
cố chống lại. Ngày 8-1-1955, lực lượng của ta buộc phải tiến vào bên trong để giải
thoát cho những đồng bào bị địch giam giữ và trừng trị những tên phản động. Địch
huy động thanh niên dùng vũ khí xông vào đâm chém. Mặc dầu có người bị thương
nặng, nhưng các chiến sĩ của ta vẫn bình tĩnh chống đỡ, rồi giải thích cho nhân dân;
mặt khác kiên quyết trừng trị bọn chủ mưu. Bọn phản động bị cô lập, hơn 1.000 giáo
dân, 6 cán bộ, bộ đội bị giam giữ được giải thoát. Tiếp theo, Toà án Nhân dân Thanh

Hoá mở phiên toà xét xử bọn phản động cầm đầu gây ra vụ bạo loạn ở Ba Làng nhằm
đưa đồng bào di cư vào Nam.
Tại Diễn Tiến (Nghệ An), tháng 4-1955, địch cho 17 tên phản động từ trong
Nam ra, tổ chức một đội vũ trang 100 người, được trang bị giáo mác, kết hợp với bọn
phản động địa phương lôi kéo giáo dân đi Nam, kích động bạo loạn... Trước tình hình
đó, Liên khu IV và Tỉnh đội Nghệ An đã chỉ đạo và phối hợp với địa phương đấu
tranh chống địch. Ta tổ chức giáo dục, huấn luyện 1.000 đồng bào đi vào đám đông,
giải thích rõ âm mưu của kẻ thù, khuyên bà con trở về làm ăn. Tiếp đó, ta cho một
đội vũ trang vào nhà thờ Diễn Tiến bắt 5 tên phản động đội lốt linh mục đưa ra trước
quần chúng buộc phải công khai thú tội.
Tại xã Thạch Tân (Hà Tĩnh), địch tổ chức một đội “cảm tử vì đạo” gồm 30
người có vũ trang cưỡng ép giáo dân bán nhà, làm đơn gửi lên chính quyền đòi đi
Nam. Trước hành động ngang ngược của địch, ta bắt 3 tên đầu sỏ, đồng thời giải
thích cho dân hiểu rõ âm mưu của địch. Kết quả, đã có 70 gia đình xin ở lại.
Ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), số người di cư đổ dồn về đây để vượt tuyến vào
Nam đông tới hàng vạn người. Tình hình này đã gây ra những khó khăn, phức tạp đối
với ta khi hoà bình mới lập lại. Căn cứ vào chủ trương của Trung ương và tình hình
thực tế của địa phương, Đảng ủy khu vực đề ra chủ trương chống địch dụ dỗ, cưỡng
ép đồng bào di cư vào Nam. Ban chống cưỡng ép di cư được thành lập, gồm 28 đồng
chí, phân công nhau về cơ sở bám địa bàn, bám dân, tuyên truyền giải thích chính
sách tôn giáo của Đảng, giúp giáo dân sửa lại nhà thờ, giải quyết khó khăn về đời
sống, đẩy mạnh việc việc tăng gia sản xuất, nổi lên là công tác vận động ở 2 nhà thờ
lớn nhất: Di Loan và Phước Sơn. Ngoài ra, Ban chống cưỡng ép di cư còn lập nhiều
11
trạm dọc Quốc lộ I để đón khoảng trên 2 vạn giáo dân từ các tỉnh miền Bắc bị mắc
mưu địch di cư vào Nam, giải thích cho giáo dân rõ về âm mưu của Mỹ - Diệm trong
việc dụ dỗ, cưỡng ép, lừa gạt giáo dân di cư vào Nam.
Cuộc đấu tranh chống địch dụ dỗ và cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào
Nam diễn ra rất phức tạp. Nhờ sự lãnh đạo kịp thời, kiên quyết của Đảng và Chính
phủ, cán bộ, bộ đội công an ta kiên trì, chịu đựng gian khổ, bám sát nhân dân nên đã

hạn chế được hành động của địch đưa người vào Nam ồ ạt, chúng ta thu được một số
thắng lợi nhất định. Tuy vậy, khách quan mà nói, trong phong trào đấu tranh, chúng
ta còn bộc lộ một số hạn chế. Chỉ thị số 16-CT/TW, ngày 21-4-1955 của Ban Bí thư
vạch rõ nguyên nhân mắc khuyết điểm: “Ở Trung ương, kế hoạch còn nặng nề về đối
phó, thiếu chủ động tiến công địch; chưa huy động đủ lực lượng cần thiết để thực
hiện kế hoạch chống cưỡng ép di cư. Bộ phận chỉ đạo công tác chống địch cưỡng ép
di cư và bộ phận chuyên trách việc này trong Ủy ban liên hiệp đình chiến Trung
ương còn yếu... Nhiều địa phương vẫn chưa thấy hết âm mưu địch, cho nên vẫn còn
chủ quan, thấy việc thì đối phó, xong việc lại lơ là. Chỉ đạo chưa được tăng cường
một cách thường xuyên, chưa có bộ phận chuyên trách dứt khoát và có đủ cán bộ”
1
.
Như ở Thanh Hoá, ta chưa bám sát dân, đặc biệt là trong vụ phiến loạn Ba Làng
(Tĩnh Gia) cuối năm 1954, đầu năm 1955, tuy “được quần chúng ủng hộ mà không
thấy được giáo dục, phát động quần chúng để trấn áp địch... nên đã kéo dài tình
trạng khổ cực của nhân dân trong một thời gian”
2
. Ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), "do ta
chậm phát hiện âm mưu thâm độc của địch, công tác vận động đồng bào theo đạo
Thiên Chúa của ta có sơ hở nên bọn phản động đã đưa được 7.164 đồng bào giáo
dân ở địa phương Vĩnh Linh di cư vào Nam"
3
. Nếu tính chung cả miền Bắc thì địch
đã đưa hơn hai phần ba giáo dân di cư vào Nam. Theo Tạp chí Missi, cơ quan ngôn
luận Thiên Chúa giáo (Pháp), số tháng 2-1956, trước cuộc di cư, giáo dân ở phía Bắc
vĩ tuyến 17 có 1.133.000 người. Sau cuộc di cư, chỉ còn 457.000 người
4
.
Những hạn chế trên đây đã góp phần giúp chúng ta rút được những bài học
kinh nghiệm quý báu trong cuộc đấu tranh cách mạng ở các giai đoạn tiếp theo.

3. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh (1954-1957)
a. Hoàn thành cải cách ruộng đất
Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và yêu cầu về quyền lợi kinh tế và chính trị của
nông dân, nhằm củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất, Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương ra nghị quyết: "Đẩy mạnh phát động
quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất".
Thực hiện chủ trương của Trung ương, đợt 6 giảm tô và đợt 2 của cải cách
ruộng đất là những việc đầu tiên được tiến hành trong hoàn cảnh đất nước hoàì bình.
1
Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 16 (1955). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 269-
270.
2
Tỉnh ủy Thanh Hóa. Bản kiểm thảo của Tỉnh ủy trong hội nghị cán bộ từ ngày 8 đến ngày
16-10-1955. Phòng lưu trữ Tỉnh ủy, Hồ sơ 15, cặp số 3, tr. 3.
3
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1999). Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, Tập 2
(1954-1975). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 78-79.
4
Vũ Văn Mẫu (2003). Sáu tháng Pháp nạn 1963. Giao Điểm, USA, tr. 227.
12
Từ đó việc đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất bắt đầu lan
rộng vào vùng trung du và đồng bằng mới giải phóng. Từ sau hoà bình lập lại cho
đến tháng 7-1956, cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tiến hành liên tiếp 4 đợt, từ
đợt 2 đến đợt 5. Riêng đợt 5 bắt đầu từ tháng 12-1955, tiến hành ở 1720 xã
1
thuộc 20
tỉnh và 2 thành phố. Đây là những vùng trước đó không lâu còn bị địch chiếm đóng,
vì thế so với các đợt trước, đợt 5 diễn ra gay go, phức tạp.
Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, 1.595.203 ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu

nông cụ từ tay giai cấp địa chủ được chia cho trên 2 triệu nông dân lao động. Khẩu
hiệu "người cày có ruộng" đã trở thành hiện thực. Giai cấp địa chủ và tàn dư của chế
độ phong kiến miền Bắc bị xoá bỏ. Giai cấp nông dân được giải phóng và được đưa
lên địa vị người chủ ở nông thôn. Với thành quả này, miền Bắc “đã căn bản hoàn
thành nhiệm vụ phản phong kiến”
2
. Đây là thắng lợi của cải cách ruộng đất và là
thành tựu to lớn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Tuy vậy, khi đợt 5 đang đi vào thời điểm kết thúc, Đảng và Chính phủ phát
hiện ra những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình cải cách ruộng đất và chỉnh đốn
tổ chức. Đó là sự vi phạm đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn (xâm phạm lợi
ích của trung nông, không liên hiệp với phú nông, không phân biệt đối xử với các loại
địa chủ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến), cường điệu việc trấn áp phản cách
mạng; không dựa vào tổ chức cũ, mắc chủ nghĩa thành phần; nghiêm trọng nhất là
trong việc chỉnh đốn tổ chức. Từ đó dẫn đến một số nông dân, cán bộ, đảng viên,... bị
quy nhầm là địa chủ. Một số địa chủ kháng chiến, những người thuộc tầng lớp trên có
công với cách mạng cũng bị đưa ra đấu tố. Sai lầm còn thể hiện trong phương pháp
đấu tranh còn thô bạo.
Nguyên nhân sâu xa của những sai lầm trên là do không nắm vững vấn đề dân
tộc và giai cấp ở nước ta, không thấy được những biến đổi to lớn về sở hữu ruộng
đất, về giai cấp địa chủ và chế độ phong kiến ở nông thôn ở miền Bắc từ sau Cách
mạng tháng Tám. Thật vậy, nếu “căn cứ vào số ruộng đất đã chia cho nông dân
trong cải cách ruộng đất, căn cứ tác hại rất nghiêm trọng của sai lầm cải cách
ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì chủ trương cải cách ruộng đất như đã làm là
không cần thiết. Đó là vì trước khi tiến hành cải cách cách ruộng đất, giai cấp địa
chủ, chế độ phong kiến đã căn bản bị xoá bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã căn
bản được thực hiện với tỉ lệ 2/3 ruộng đất đã về tay nông dân, với quyền làm chủ của
nông dân trong nông thôn đã được thực hiện từ Cách mạng tháng Tám đến kháng
chiến chống Pháp ...”
3

.
Mặt khác, trong tiến hành cải cách ruộng đất, không giữ vững đường lối độc
lập tự chủ, áp dụng máy móc, giáo điều kinh nghiệm nước ngoài một cách giản đơn,
nên trong chỉ đạo đã cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, ngả sang tả,
đánh nhầm vào nội bộ nông dân, đặc biệt là tầng lớp trung nông lớp trên. "Đó là
những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những
vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng,... trái với chế độ pháp luật của nhà
1
Nếu tính cả 5 đợt, tổng cộng số xã tiến hành cải cách ruộng đất là 3.314 .
2
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 17 (1956). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 539.
3
Kết luận của Bộ Chính trị về một số vấn đề lịch sử Đảng thời kỳ 1954 - 1975, ngày 25-5-
1994.
13
nước... Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thắng lợi đã thu được, mà
lại gây ra nhiều tổn thất... ảnh hưởng tai hại đến chính sách mặt trận của Đảng...,
làm cho tình hình nông thôn căng thẳng ..."
1
.
Những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất đã gây tổn thất lớn cho
nhân dân và hạn chế nhất định những thành quả cải cách ruộüng đất.
Ngay trong tháng 4-1956, khi phát hiện ra những sai lầm, Đảng và Chính phủ
đã có chỉ thị sửa chữa. Ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng
bào nông thôn và cán bộ, chỉ rõ những thắng lợi và những sai lầm trong cải cách
ruộng đất. Tháng 9-1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp,
thảo luận và đi đến kết luận về những thắng lợi và những sai lầm trong cải cách
ruộng đất. Hội nghị khẳng định: “Chúng ta không sợ vạch rõ sai lầm, khi thấy sai
lầm thì chúng ta kiên quyết sửa chữa được”; đồng thời Hội nghị đề ra một số chủ
trương, biện pháp để sửa chữa sai lầm, như khôi phục danh dự, quyền lợi cho những

người bị xử oan và thi hành kỷ luật đối với một số cán bộ có trách nhiệm
2
.
Tiếp theo, tháng 10-1956, Hội đồng Chính phủ họp thực hiện nhiệm vụ sửa
sai, đã nhận định: “... Công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã phạm sai
lầm nghiêm trọng. Luật cải cách ruộng đất hợp tình hợp lý do Quốc hội thông qua
không được chấp hành nghiêm chỉnh. Pháp luật nhà nước không được tôn trọng.
Chế độ pháp trị dân chủ bị xâm phạm. Những sai lầm ấy đã gây nhiều tổn thất trong
nhân dân, đụng chạm đến tình cảm và đời sống bình thường của nhân dân, có hại
cho chính sách đại đoàn kết của Mặt trận dân tộc thống nhất. Nó hạn chế những kết
quả đã thu được trong cải cách ruộng đất và gây cho chúng ta nhiều khó khăn”.
Chính phủ tự kiểm điểm “nhận thấy sâu sắc trách nhiệm về mình” và quyết định
thay đổi về mặt tổ chức: “Từ nay các Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương và địa
phương không có quyền chỉ đạo mà chỉ là những cơ quan nghiên cứu trực thuộc
chính quyền các cấp. Bãi bỏ các Toà án đặc biệt” ; đồng thời Chính phủ cũng quyết
định thi hành kỷ luật đối với một số cán bộ liên quan
3
. Mặt khác, Trung ương quyết
định phục hồi những chi bộ đảng bị giải tán sai, sửa lại thành phần cho những cá
nhân bị quy sai, khôi phục đầy đủ quyền lợi, danh dự, công tác cho những người bị
xử lý sai, bãi bỏ mọi hình thức quản chế đối với những trường hợp bị quy sai là Việt
gian, phản động; chấp hành nghiêm các chế độ, chính sách đối với các gia đình quân
nhân cách mạng, các chính đảng, tôn giáo, dân tộc, các địa chủ có công với kháng
chiến.
1
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 17 (1956). Nhà xuất bản CTQG, HN, 2002, tr. 539-540.
2
Hội nghị Trung ương lần thứ 10 quyết định đưa đồng chí Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp
hành Trung ương, đồng ý để đồng chí Lê Văn Lương rút ra khỏi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và
đưa xuống làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương, ... đồng chí Trường Chinh đã

tự phê bình, xin từ chức Tổng bí thư và được Hội nghị đồng ý. Văn kiện Đảng toàn tập, tập
17 (1956). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 577.
3
Đối với ông Hồ Viết Thắng, cách chức Phó chủ nhiệm, Uỷ viên thường trực ban cải cách
ruộng đất trung ương và buộc từ chức Thứ trưởng Bộ Nông Lâm; đối với ông Lê Văn
Lương, chấp nhận đơn xin từ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Chủ nhiệm Văn phòng Nội
chính Thủ tướng phủ.
14
Ngày 8-12-1956, trong cuộc nói chuyện tại trường Đại học Nhân dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Chế độ dân chủ cộng hoà của ta dù có những sai lầm
thiếu sót vì chúng ta còn thiếu kinh nghiệm và còn có nhiều khó khăn. Đảng và Chính
phủ chỉ lo việc phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là của nhân dân lao động
chân tay và lao động trí óc. Trong cải cách ruộng đất, cán bộ đã phạm sai lầm,
khuyết điểm nghiêm trọng, cần phải kiên quyết sửa chữa, nhưng không nên vì sai
lầm, khuyết điểm mà bi quan. Trái lại vẫn vững lòng tin tưởng vào Đảng và Chính
phủ”
1
.
Do có chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và được toàn dân ủng hộ, nên
đến cuối năm 1957, công tác sửa sai đã đem lại kết quả tốt. Nông thôn dần dần đi vào
ổn định, nội bộ Đảng đoàn kết, lòng tin của nhân dân được khôi phục, sản xuất nông
nghiệp được đẩy mạnh, khối liên minh công nông được củng cố, chính quyền nhân
dân được ổn định và sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, nhờ đó ý nghĩa thắng
lợi của cải cách ruộng đất vẫn hết sức to lớn. Bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều
thay đổi. Thắng lợi của cải cách ruộng đất đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn
thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.
b. Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh
Chủ trương và phương châm khôi phục kinh tế được Chính phủ trình bày
trước Quốc hội khoá I kỳ họp thứ 4 (3-1955) và được Quốc hội thông qua tại kỳ họp
thứ 5 (9-1955). Mục tiêu là khôi phục cơ sở sản xuất và mức sản xuất bằng trước

chiến tranh (năm 1939); đồng thời “phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với
chế độ dân chủ nhân dân. Phương châm khôi phục gồm 5 điểm cụ thể:
1) Chủ yếu phải khôi phục nông nghiệp, chú trọng công tác cải cách ruộng
đất, rất coi trọng giao thông vận tải, chăm lo khôi phục, xây dựng một số công trình
cần thiết, chú trọng gây cơ sở cho công nghiệp hoá.
2) Khôi phục kinh tế phải theo đường lối chung là phát triển sản xuất làm cho
kinh tế dồi dào, công tư đều được chiếu cố, lao động và tư bản đều có lợi, thành thị
và thôn quê giúp đỡ lẫn nhau, mở rộng trao đổi giữa trong nước và ngoài nước.
3) Khôi phục phải đi đôi với cải tạo nền kinh tế cũ còn nặng tính chất phong
kiến, thực dân và di tích chiến tranh thành nền kinh tế độc lập, dân chủ, phục vụ dân
sinh.
4) Tăng cường một cách vững chắc bộ phận kinh tế quốc doanh và chăm
loxây dựng dần dần bộ phận kinh tế hợp tác xã, phát huy đến cao độ tính tích cực
của quảng đại quần chúng lao động ở thành thị và thôn quê; hướng dẫn, khuyến
khích và giúp đỡ công việc làm ăn, buôn bán của các tầng lớp tiểu tư sản và công
cuộc kinh doanh của tư sản dân tộc.
5) Trong khôi phục kinh tế phải thực hiện sự phát triển cân đối giữa các
ngành: nông nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng lại các thành phố bị
tàn phá, thương mại”
2
.
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8 (1955-1957). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 276-
278.
2
Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam. Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1955 -
1976. Hà Nội, 2004, tr.12.
15
Các phương châm kể trên đều quán triệt đường lối đại đoàn kết toàn dân theo
Cương lĩnh Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam nhằm xây dựng một nền kinh tế

nhiều thành phần dưới sự chỉ đạo và quản lý của nhà nước dân chủ nhân dân.
Khôi phục sản xuất nông nghiệp: Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung,
kinh tế nông nghiệp có vị trí hết sức quan trọng. Nông nghiệp cung cấp lương thực,
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp được khôi
phục mới giải quyết được vấn đề lương thực, làm cơ sở cho việc khôi phục và phát
triển các ngành kinh tế khác, nâng cao mức sống cho nhân dân, do đó, sẽ củng cố
vững chắc khối liên minh công nông. Vì vậy, Đảng và Nhà nước chủ trương lấy khôi
phục nông nghiệp làm chủ yếu, trên cơ sở đó khôi phục toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Giai cấp nông dân miền Bắc, với niềm phấn khởi và tin tưởng vô hạn vì mới
được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và được chia ruộng
đất, đã tích cực hưởng ứng phong trào khôi phục và phát triển sản xuất. Vượt qua
mọi khó khăn, thiếu thốn, nông dân đã ra sức khai hoang, chống hạn, bảo đảm cấy
hết diện tích ruộng đất, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ... Đến cuối năm
1957, những vết thương chiến tranh trên đồng ruộng đã hàn gắn xong: 125.000 mẫu
ruộng hoang đã trở thành những cánh đồng xanh tốt; 12 hệ thống nông giang bị địch
phá hoại trong chiến tranh được sửa chữa, cùng với việc xây dựng những công trình
thủy nông mới, như đập nước Đô Lương, Bái Thượng, Thác Huống. Hệ thống đê
điều dài 3.500 km bị hư hỏng trong chiến tranh cũng được sửa chữa, củng cố lại,...
Kết quả, sản lượng lương thực và hoa màu tăng nhanh. Trong thời gian này,
tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt 4.000.000 tấn, vượt xa mức trước chiến
tranh (năm 1939: 2.407.000 tấn). Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt bình quân
hàng năm là 680.000 tấn, gấp ba lần mức năm 1939 (220.000 tấn). Do vậy, nạn đói
có tính chất kinh niên ở miền Bắc bước đầu được giải quyết, đời sống nhân dân lao
động được cải thiện một bước quan trọng.
Khôi phục sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp: Do bị chính sách thuộc
địa của thực dân Pháp kìm hãm, nền công nghiệp Việt Nam nói chung, công nghiệp
miền Bắc nói riêng, rất nhỏ bé. Công nghiệp nặng miền Bắc hầu như không đáng kể
(cuối năm 1954, giá trị sản lượng công nghiệp chiếm 1,5% tổng sản lượng công nông
nghiệp). Công nghiệp nhẹ đã nhỏ bé lại bị chiến tranh tàn phá, kỹ thuật lạc hậu. Từ
thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương trước hết phải tập trung khôi phục và

phát triển công nghiệp nhẹ, đồng thời củng cố và phát triển công nghiệp nặng trong
phạm vi cần thiết và có khả năng.
Giai cấp công nhân nêu cao tinh thần tự lực, tự cường kết hợp với việc sử
dụng có hiệu quả viện trợ của các nước anh em, đã nhanh chóng khôi phục và mở
rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng, như mỏ than
Hòn Gai, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà
Nội. Một số nhà máy mới được xây thêm, như nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy diêm
Thống Nhất, nhà máy gỗ Cầu Đuống, nhà máy thuốc lá Thăng Long, nhà máy cá hộp
Hải Phòng, nhà máy chè Phú Thọ... Trong đó, việc xây dựng nhà máy cơ khí Hà Nội
là sự kiện quan trọng trong lịch sử phát triển công nghiệp Việt Nam. Đây là cơ sở đầu
tiên của ngành chế tạo máy ở nước ta. Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà
máy, xí nghiệp do nhà nước quản lý.
16
Cùng với việc khôi phục và phát triển công nghiệp, các ngành thủ công nghiệp
cũng được phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1957, số thợ thủ công tăng lên gần
460.000 người (gấp 2 lần số so với năm 1941, là năm mà ngành thủ công nghiệp phát
triển cao nhất trước Cách mạng tháng Tám). Ngành thủ công nghiệp đã cung cấp
58,8% số hàng hóa công nghiệp trong nước. Các ngành sản xuất vật liệu xây dựng,
nông cụ, dệt, may mặc, làm muối.... đều vượt mức trước năm 1941.
Nhìn chung, trong ba năm khôi phục kinh tế, giá trị tổng sản lượng công
nghiệp và thủ công nghiệp hàng năm tăng khá nhanh. Năm 1955: 213.500 triệu đồng;
1956: 432.000 triệu đồng; 1957: 573.000 triệu đồng.
Khôi phục ngành thương nghiệp: Sau khi hòa bình lập lại, một vùng đồng
bằng rộng lớn, phì nhiêu, có nhiều thóc gạo và nông phẩm, ... được giải phóng; mặt
khác, sự lũng đoạn của tư bản Pháp bị thủ tiêu trên thị trường miền Bắc. Đó là những
thuận lợi cơ bản cho việc mở rộng hoạt động thương nghiệp.
Tuy nhiên, trong tình hình mới, ngành thương nghiệp miền Bắc cũng gặp
nhiều khó khăn. Nhu cầu cung cấp tăng lên trong khi sản xuất công, nông nghiệp bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, không đủ sức cung cấp cho thị trường khối lượng hàng
hóa cần thiết. Bên cạnh nền thương nghiệp độc lập, tự chủ, phục vụ sản xuất, phục vụ

dân sinh trong các vùng tự do cũ, lại có thêm thương nghiệp vùng mới giải phóng còn
mang tính chất phụ thuộc kinh tế thực dân. Phần lớn hàng hóa giao lưu trên thị
trường nằm trong tay tư nhân. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa còn bé nhỏ.
Căn cứ vào tình hình cụ thể trên, Nhà nước chủ trương chuyển hoạt động
thương nghiệp theo hướng phục vụ sản xuất, phục vụ nhân dân; hướng dẫn một số
thương gia trước đây buôn bán những mặt hàng không cần thiết sang kinh doanh
công nghiệp; tăng cường mậu dịch quốc doanh, làm cho mậu dịch quốc doanh phát
huy tác dụng đối với đời sống nhân dân. Hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác
xã mua bán được mở rộng và cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng cho nhân dân. Việc
giao lưu hàng hóa giữa các địa phương ngày càng phát triển. Hoạt động ngoại thương
dần dần tập trung trong tay nhà nước. Quan hệ buôn bán với nước ngoài bước đầu
được tăng cường. Đến năm 1957, miền Bắc nước ta đã đặt quan hệ thương mại với
27 nước trên thế giới.
Khôi phục ngành giao thông vận tải: Hệ thống giao thông miền Bắc dưới
thời Pháp rất lạc hậu, lại bị tàn phá, hư hỏng nghiêm trọng trong thời gian chiến
tranh. Trước khi rút quân khỏi miền Bắc, thực dân Pháp tiếp tục phá hoại hoặc mang
đi hầu hết các thiết bị máy móc...
Sau hòa bình, với yêu cầu, nhiệm vụ khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, cải
thiện đời sống nhân dân và tăng cường quốc phòng, Nhà nước chủ trương khôi phục
nhanh chóng đường xe lửa, đường ô tô, vận tải sông ngòi, bưu điện... Đây chính là
những công tác có ý nghĩa quan trọng bậc nhất, là điều kiện không thể thiếu trong
việc phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế.
Cuối năm 1957, trên toàn miền Bắc, nhân dân ta đã khôi phục được 681 km
đường sắt (quan trọng nhất là tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn); khôi phục và làm
thêm được 10.607 km đường ô tô. Các bến cảng, cửa sông được tu sửa và củng cố,
góp phần rất quan trọng trong việc phát triển giao lưu hàng hóa, hồi phục kinh tế.
Đường hàng không dân dụng quốc tế được khai thông.
17
Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nỗ lực của toàn dân, mà nòng cốt là
công nông, đến năm 1957 miền Bắc đã có những đổi thay về nhiều mặt. Thành phần

kinh tế thực dân, phong kiến bị xóa bỏ; thành phần kinh tế quốc doanh chiếm ưu thế
và đã nắm toàn bộ hoặc phần lớn những ngành then chốt, chiếm 58% giá trị sản
lượng trong công nghiệp, 100% trong các ngành ngân hàng, xây dựng cơ bản, bưu
điện, đường sắt, 61% trong các ngành thương nghiệp, 97% trong ngành ngoại
thương...
c. Phát triển văn hoá, giáo dục, y tế
Nhiệm vụ phát triển giáo dục được Chính phủ đặt ra một cách thực tế: “Củng
cố và phát triển bình dân học vụ, thống nhất và củng cố ngành phổ thông, chú trọng
phát triển các lớp của trung học (cấp III), đặc biệt chú trọng phát triển đại học ...
Mở rộng cơ sở rèn luyện cán bộ”
1
. Nhiệm vụ trên được triển khai thành 5 công tác
lớn là:
1. Phát triển giáo dục phổ thông;
2. Phát triển đại học và trung học chuyên nghiệp;
3. Thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hoá;
4. Phát triển giáo dục miền núi;
5. Ổn định tình hình và phát triển giáo dục đối với học sinh miền Nam tập kết.
Kết quả, so với năm 1939, các chỉ tiêu tăng lên khá cao, cả về số lượng trường
sở, về tổng số học sinh, sinh viên, số người được thanh toán nạn mù chữ, được bổ túc
văn hoá, số học sinh miền Nam tập kết được sắp xếp vào các trường... So với năm học
1939-1940 thì năm học 1957-1958, chúng ta có các số liệu cụ thể sau:
Tổng số trường học, từ 4.413 lên 5007.
Tổng số giáo viên, từ 8.365 lên 23.340.
Tổng số học sinh vỡ lòng, từ 82.000 lên 857.000
Tổng số học sinh phổ thông, từ 417.000 lên 1.008.000.
Tổng số sinh viên đại học, từ 582 lên 3.664 trong đó có 306 là nữ.
Công tác y tế được coi trọng, nhiều bệnh xã hội, truyền nhiễm bị đẩy lùi. Cuối
năm 1957, miền Bắc đã có 55 bệnh viện, 13 viện điều dưỡng, 85 bệnh xá, 19.700
giường bệnh, 362 nhà hộ sinh. Năm 1939, cả Đông Dương chỉ có 138 thầy thuốc thì

đến năm 1957, miền Bắc đã có 49 bác sĩ, 1.087 y sĩ trung cấp, 175 dược sĩ trung cao
cấp, 683 nữ hộ sinh và 6.641 y tá
2
.
Nghệ thuật và văn hoá quần chúng được Đảng và Nhà nước quan tâm phát
triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp khôi phục kinh tế. Phương châm chung là
phát triển nền văn hoá dân tộc, học tập văn hoá tiên tiến của thế giới, trước hết là của
các nước bạn, quét sạch tàn dư văn hoá nô dịch. Phát triển sinh hoạt văn hoá vui tươi,
1
Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam. Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1955 -
1976. Hà Nội, 2004, tr.19.
2
Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam. Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1955 -
1976. Hà Nội, 2004, tr. 20.
18
lành mạnh trong nhân dân, gây phấn khởi sản xuất và đấu tranh chính trị. Ba nhiệm
vụ chính được triển khai trong văn hoá nghệ thuật:
1. Phát triển văn hoá quần chúng.
2. Phục hồi và bước đầu phát triển nghệ thuật.
3. Đẩy mạnh việc trao đổi văn hoá với nước ngoài.
Trên cơ sở thực hiện ba nhiệm vụ trên đây, các ngành văn hóa quần chúng như
xuất bản và phát hành sách, báo, thư viện, chiếu bóng, biểu diễn văn nghệ đều được
phát triển. Cụ thể: Sách xuất bản năm 1957 tăng gấp 6 lần so với năm 1939. Năm
1957 đã xây dựng được 33 thư viện với 458.000 cuốn sách. Tới tháng 9-1956 đã có
53 câu lạc bộ của các xí nghiệp, cơ quan, công trường và 732 nhà văn hóa nông thôn.
Năm 1957, ngoài 5 rạp hát quốc doanh còn có 35 rạp hát tư doanh được Chính phủ
cho phép hoạt động, v.v... Các tổ chức văn hoá, văn nghệ được củng cố và phát triển
thêm, như Đại hội Văn công toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức năm 1955. Hội
Liên hiệp văn học nghệ thuật, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội
Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam lần lượt ra đời. Giao lưu nghệ

thuật với nước ngoài phát triển. Chúng ta đã đón tiếp nhiều đoàn nghệ thuật nước
ngoài đến biểu diễn và cử nhiều đoàn văn công đi dự các cuộc liên hoan nghệ thuật
quốc tế và biểu diễn ở một số nước bạn bè, anh em.
Đánh giá về những thành tựu mà nhân dân miền Bắc đã giành được trong 3
năm (1954-1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trải qua thời gian ba năm, nhân dân
miền Bắc đã ra sức khắc phục khó khăn, lao động sản xuất, thu được những thành
tích to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bước
đầu phát triển văn hoá, giảm bớt khó khăn và dần dần cải thiện đời sống cho nhân
dân cả miền đồng bằng và miền núi. Cải cách ruộng đất căn bản hoàn thành, công
việc sửa chữa sai lầm làm phát huy thắng lợi trong nhiều địa phương đã làm xong và
thu được kết quả tốt. Nông nghiệp đã vượt hẳn mức trước chiến tranh. Công nghiệp
đã khôi phục các xí nghiệp cũ, xây dựng một số nhà máy mới. An ninh trật tự được
giữ vững, quốc phòng được củng cố”
1
.
4. Cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa (1958
- 1960)
a. Cải tạo quan hệ sản xuất
Tuy đạt được một số thành tựu như đã trình bày ở trên, nhưng nền kinh tế
miền Bắc căn bản vẫn là một nền nông nghiệp phân tán, lạc hậu, lao động thủ công
với năng suất thấp. Các thành phần kinh tế dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất còn phổ biến, trong đó kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, tiểu
thương chiếm phần rất lớn. Thành phần kinh tế công - thương nghiệp tư bản tư doanh
mới được cải tạo bước đầu.
Trong tình hình đó, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
(11-1958), chủ trương bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hoá trong 3 năm
(1958-1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông
dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh, trong đó trọng tâm
trước mắt là cải tạo thành phần kinh tế cá thể của nông dân. Tháng 12-1958, tại kỳ
1

Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 483.
19
họp thứ 9, Quốc hội khóa I đã thông qua kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế
- văn hóa (1958-1960) bao gồm những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông
nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời rất chú
trọng sản xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu sản xuất và giải quyết phần
lớn hàng tiêu dùng.
- Cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư
doanh theo hướng xã hội chủ nghĩa, khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp, đồng
thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh.
- Trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân, nhất là đời sống của nhân dân lao động; và tăng cường củng
cố quốc phòng.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp: Cải tạo theo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong nông nghiệp tức là phải thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất kết hợp
với cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động và giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa
cho nông dân, nhằm đưa giai cấp nông dân từ chỗ làm ăn riêng lẻ đi dần vào con
đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa. Đây là khâu chính trong toàn bộ sự nghiệp cải
tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp được tiến hành qua ba bước, từ thấp
đến cao là: “Tổ đổi công có mầm mống xã hội chủ nghĩa, hợp tác hóa bậc thấp nửa
xã hội chủ nghĩa và hợp tác hóa bậc cao hoàn toàn xã hội chủ nghĩa”
1
; từng bước
làm cho nông dân quen dần với lối làm ăn tập thể và phù hợp với trình độ quản lý của
cán bộ hợp tác xã.
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình vận động hợp tác hóa, một mặt phải
đi đúng đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn; mặt khác phải đảm bảo tuân thủ ba
nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi và quản lí dân chủ.

Tự nguyện là phải để nông dân thấy được tính hơn hẳn của hợp tác xã đối với
sản xuất cá thể mà tự nguyện, tự giác tham gia, nhất thiết không được cưỡng ép,
mệnh lệnh dưới bất cứ hình thức nào.
Cùng có lợi là: đối với những tư liệu sản xuất của xã viên đưa vào hợp tác xã
cũng như khi sắp xếp công việc, bình công chấm điểm, chia hoa lợi... đều phải giải
quyết một cách hợp lý trong mối quan hệ giữa lợi ích chung của hợp tác xã với lợi ích
riêng của từng xã viên nhằm lợi cho đoàn kết, lợi cho sản xuất.
Quản lý dân chủ là quản lý ba mặt: lao động sản xuất, tài vụ cũng như các việc
khác của hợp tác xã đều phải được bàn bạc một cách dân chủ và do tập thể xã viên
quyết định, không được độc đoán, mệnh lệnh...
Để thực hiện có kết quả cuộc vận động hợp tác hóa, một mặt nhà nước mở các
lớp huấn luyện cán bộ hợp tác xã để xây dựng và phát triển phong trào, tổ chức cho
nông dân học tập chính sách hợp tác hóa nông nghiệp, nhận thức được ý nghĩa của
1
Trường Chinh. Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hoá
nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội (Báo cáo tại khoá họp lần thứ 10 của Quốc hội ngày
20-5-1959). Nxb Sự thật, Hà Nội, 1959.
20
con đường làm ăn mới; mặt khác nhà nước đã đầu tư vào nông nghiệp 180 triệu
đồng, cho nông dân vay 138 triệu đồng, cung cấp cho nông dân 30 vạn tấn phân hóa
học, 6 vạn trâu bò, 4 triệu nông cụ các loại, xây dựng 19 công trình thủy lợi, bảo đảm
nước tưới cho 153 vạn ha ruộng đất
1
.
Sau ba năm tiến hành thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp, đến cuối năm 1960
trên toàn miền Bắc đã có 40.000 hợp tác xã nông nghiệp bao gồm 85,8% hộ nông dân
với 68,1% diện tích ruộng đất, trong đó có gần 12% số hộ tham gia hợp tác xã bậc
cao.
Tại miền núi, do có những đặc điểm riêng, Đảng và Nhà nước chủ trương
cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất kết hợp với việc hoàn

thành cải cách dân chủ. Cuộc vận động đã diễn ra trong 2.000 xã với 3 triệu dân. Tính
đến tháng 6 - 1961, toàn miền núi có 357.000 hộ nông dân vào hợp tác xã, chiếm
75,64% tổng số hộ nông dân.
Cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không
chỉ mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, mà còn đảm bảo những điều kiện vật
chất, tinh thần, chính trị cho bộ phận tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Thắng
lợi của công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp góp phần tạo điều kiện cho việc cải tạo
các thành phần kinh tế khác theo hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ số phát triển tổng sản
lượng nông nghiệp: Lấy năm 1957 là 100 thì năm 1958 là 116,9, năm 1959 là 124,5,
năm 1960 là 113,7
2
. Nhiệm vụ hợp tác hoá nông nghiệp được Đảng và Chính phủ
tổng kết là về cơ bản đã hoàn thành. Nhưng xét theo phương châm “vững chắc” mà
Chính phủ đề ra thì chưa đảm bảo, vì phong trào tiến quá nhanh
3
, chất lượng hợp tác
xã yếu kém; đặc biệt là ba nguyên tắc “tự nguyện”, dân chủ, cùng có lợi đều bị vi
phạm
4
. Như vậy, tuy Nhà nước chăm lo dân chủ hoá, pháp chế hoá bộ máy và cơ
quan vận hành, nhưng ở đây lại chưa được quán triệt và thực thi đầy đủ. Xét chỉ tiêu
kế hoạch nông nghiệp có tăng nhưng xét về hợp tác hoá, ngay từ năm 1960 đã có
chiều hướng giảm sút
5
.
1
Trần Thục Nga (Chủ biên). Lịch sử Việt Nam (1945 - 1975). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1987,
tr. 79.
2
Tổng cục thống kê. Số liệu thống kê “Ba năm cải tạo và phát triển kinh tế phát triển văn

hoá của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1961, tr. 37.
3
Chỉ trong 6 tháng.
4
Cụ thể có nơi nông dân chưa tự nguyện vào hợp tác xã liền bị “chụp mũ”. Việc bình công
chấm điểm làm không tốt khiến cho xã viên suy bì, tị nạnh với nhau. Trong hợp tác xã bậc
thấp, chia hoa lợi chưa được thoả đáng làm cho xã viên thắc mắc. Quản lý thiếu dân chủ, xã
viên không bằng lòng, cán bộ tự tư, tự lợi (Trường Chinh.. Kiên quyết đưa nông thôn miền
Bắc nước ta qua con đường hợp tác hoá nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội. - Báo cáo tại
khoá họp lần thứ 10 của Quốc hội ngày 20-5-1959. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1959, tr. 50).
5
Do xây dựng một cách “đại trà” nên chất lượng không đảm bảo. Ngay con số 119 hợp tác
xã bậc cao thì thực tế chỉ có “hoàn toàn công hữu hoá tư liệu sản xuất và ăn chia theo lao
động, còn kỹ thuật thì thô sơ, sản xuất lạc hậu, năng suất không cao, đời sống xã viên không
được cải thiện ... Tính “không vững chắc” đã lộ rõ là ngay trong 2 năm 1958-1959, ở 13 tỉnh
đã có 5585 hộ nông dân xin ra hợp tác xã. Ở 7 tỉnh có trên 20 hợp tác xã bị giải tán (Viện
kinh tế. 45 năm kinh tế Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 43).
21
Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp, thương nghiệp và công
thương nghiệp tư bản tư doanh: Sau khi được khôi phục, ngành thủ công nghiệp đã
có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước chủ trương
cải tạo thợ thủ công thông qua các hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã cung tiêu sản xuất
và hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp. Đến cuối năm 1960, miền Bắc có 87,9% số
thợ thủ công tham gia vào các hình thức sản xuất tập thể.
Đối với thương nghiệp nhỏ, Nhà nước chủ trương dùng các hình thức hợp tác
(như tổ hợp tác mua, bán; tổ hợp tác vừa mua bán vừa sản xuất...) để cải tạo và chuyển
dần một bộ phận sang cơ sở sản xuất tập thể. Cuối năm 1960, hơn 105.000 người
buôn bán nhỏ (chiếm 45%) tham gia các hình thức hợp tác, gần 50.000 người buôn
bán nhỏ chuyển sang sản xuất, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, Nhà nước chủ trương cải tạo

theo định hướng xã hội chủ nghĩa bằng phương pháp hòa bình vì giai cấp tư sản miền
Bắc nhỏ yếu, đã từng là đồng minh của giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Hơn thế nữa, công cuộc cải tạo diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử
đặc biệt: Nhà nước dân chủ nhân dân được củng cố vững mạnh, thành phần kinh tế
quốc doanh nắm vai trò lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từ ngày hòa bình lập
lại, nói chung giai cấp tư sản vẫn tán thành cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc, có khả
năng tiếp thu cải tạo xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cải tạo bằng phương pháp hòa bình
là nhằm đoàn kết lực lượng cả nước trong cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà.
Với chủ trương cải tạo bằng phương pháp hoà bình, Nhà nước không tịch thu
tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản dân tộc mà dùng chính sách chuộc lại hoặc dưới
hình thức công tư hợp doanh; về chính trị, tư sản dân tộc vẫn là một thành phần của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đến cuối năm 1960, miền Bắc có 783 hộ tư sản công
nghiệp (100%), 826 hộ tư sản thương nghiệp (97,1%) và 319 hộ tư sản vận tải cơ giới
(99%) ... được cải tạo. Hàng vạn công nhân được giải phóng khỏi ách bóc lột của giai
cấp tư sản. Sản xuất phát triển: Chỉ số phát triển giá trị tổng sản lượng công nông
nghiệp lấy năm 1957 là 100 thì năm 1958 là 117; năm 1959 là 133; năm 1960 là
135,8
1
. Đời sống nhân dân được cải thiện một bước.
Như vậy, công cuộc cải tạo kinh tế đã diễn ra một cách tích cực, khẩn trương,
theo đúng chủ trương mà Đảng và Nhà nước đề ra và đạt được yêu cầu. Nhiệm vụ
phát triển và cải tạo kinh tế về cơ bản hoàn thành, đưa miền Bắc từ một nền kinh tế
nhiều thành phần lên một nền kinh tế chủ yếu chỉ có hai thành phần là quốc doanh và
tập thể. Thắng lợi này có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn đối với việc củng cố chế độ xã
hội chủ nghĩa miền Bắc và góp phần vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
Nhưng xét về hiệu quả trong cả tiến trình cách mạng thì cả hai nhiệm vụ phát
triển và cải tạo, tuy tiến nhanh, tiến mạnh nhưng không vững chắc. Nguyên nhân là
do sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Chủ trương “đưa việc xây dựng quan hệ
sản xuất tiên tiến lên trước để kéo lực lượng sản xuất lên theo” là không phù hợp với

qui luật khách quan. Sai lầm còn do không nắm vững chắc các quy luật kinh tế của
thời kỳ quá độ, nên đã đồng nhất cải tạo với xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ các thành phần
1
Tổng cục thống kê. Ba mươi năm phát triển và cải tạo kinh tế, Sđd., tr. 37.
22
kinh tế; còn thể hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vi phạm nguyên tắc tự
nguyện...
b. Bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa
Song song với cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp, thương
nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh, trong thời kỳ 1958-1960, công
thương nghiệp quốc doanh có những bước phát triển nhanh chóng. Nhà nước đã tập
trung phần lớn vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản trong công nghiệp. So với thời kỳ
1955-1957, tổng mức đầu tư vào công nghiệp trong kế hoạch ba năm 1958-1960 tăng
lên ba lần, chiếm 46,52% tổng số vốn đầu tư cho các ngành kinh tế, văn hóa.
Với số vốn đầu tư trên, Nhà nước đã xây dựng nhiều công trình lớn nhỏ. Từ
chỗ 97 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh năm 1957, đến năm 1960 đã có tới 172 xí
nghiệp do trung ương quản lý và trên 500 xí nghiệp cơ sở do địa phương quản lý.
Một hệ thống các nhà máy, xí nghiệp thuộc các ngành điện lực, khai khóang, luyện
kim, chế tạo nông cụ, chế tạo cơ khí, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng ... được
hình thành. Khu gang thép Thái Nguyên, cơ sở luyện kim đầu tiên của Việt Nam
được xây dựng trong thời kỳ này. Nhà máy điện Thái Nguyên, Việt Trì, Uông Bí, nhà
máy đóng tàu thủy... bắt đầu được xây dựng.
Ngành công nghiệp tiêu dùng phát triển và đạt được kết quả lớn. Năm 1959,
tổng số hàng tiêu dùng sản xuất trong nước tăng lên 283,7% so với năm 1955. Năm
1960, sức mua của nhân dân tăng lên nhiều, nhưng số lượng hàng hóa nhập chỉ bằng
6% giá trị sản lượng tiêu dùng trong nước. Trong năm này, ngành công nghiệp nhẹ
đảm bảo cung cấp được hơn 90% hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trong đó giá
trị sản lượng quốc doanh chiếm tỉ lệ cao. Năm 1957 là 26,9%, đến năm 1960 là 54,4
%.
Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa cũng phát triển mạnh mẽ. Từ một sở

mậu dịch quốc doanh trong kháng chiến, đến năm 1959, mậu dịch quốc doanh đã có
12 công ty chuyên nghiệp, bao gồm 1400 cửa hàng.
Sự phát triển của thương nghiêp xã hội chủ nghĩa, sự lớn mạnh của thương
nghiệp quốc doanh đã có tác dụng giữ vững vai trò chủ đạo và ổn định thị trường,
góp phần quan trọng trong việc cải tạo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
lao động.
Trên mặt trận giáo dục, vấn đề cấp bách là đẩy mạnh công tác thanh toán nạn
mù chữ. Cuối năm 1960, về căn bản đã xóa xong nạn mù chữ ở miền xuôi cho những
người dưới 50 tuổi. Công tác bổ túc văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ, tiến tới phổ
cập cấp I cho toàn dân, trước hết là trong cán bộ cơ sở và trong thanh niên.
Thời kỳ 1958-1960 đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng về chất lượng
và số lượng của ngành giáo dục phổ thông. Đến năm 1960, số học sinh phổ thông lên
tới 1.815.000 người, tăng 1,5 lần so với năm 1955 và tăng 80% so với năm 1957
1
. Ở
các tỉnh miền núi, trường phổ thông các cấp cũng phát triển. Các dân tộc Thái, Tày,
Nùng, H'Mông... được Nhà nước giúp đỡ đã cải tiến và xây dựng chữ viết của mình.
Trước yêu cầu đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, trong thời gian 1958-1960,
Chính phủ quyết định mở thêm nhiều trường đại học và trung học chuyên nghiệp, thu
1
&
2
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21 (1960). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.822.
23
hút con em nhân dân lao động vào học. Kết quả là đến năm 1960, toàn miền Bắc có 9
trường đại học, với 11.070 sinh viên gấp 2 lần so với năm 1957); 50 trường trung học
chuyên nghiệp với 26.330 học sinh (gấp 2,3 lần so với năm 1957). Bên cạnh việc đào
tạo trong nước, Chính phủ còn đưa ngày càng nhiều học sinh đi học ở các nước Xã
hội chủ nghĩa anh em.
Về văn hóa, nổi bật là sự phát triển của các ngành văn học, nghệ thuật, điện

ảnh, xuất bản báo chí, thông tin. Những cơ sở nghiên cứu di sản văn hóa, nghệ thuật
dân tộc được xây dựng. Công tác đào tạo cán bộ nghệ thuật cũng như việc bảo tồn
các di tích lịch sử và những công trình kiến trúc được chú trọng. Nhà nước cho xây
dựng xưởng phim truyện Việt Nam và phát triển các đội chiếu phim lưu động.
Công tác y tế có nhiều tiến bộ, đạt được những thành tựu mới trong lãnh vực
nghiên cứu y học chữa bệnh mắt, phòng chống và chữa bệnh lao. Cơ sở y tế (bao
gồm bệnh viện, bệnh xá, trạm y tế) được xây dựng. Việc kết hợp giữa Đông y và Tây
y đã tăng cường khả năng chữa bệnh cho nhân dân.
5. Củng cố chính quyền, tăng cường phòng thủ đất nước mở rộng quan
hệ quốc tế (1954-1960)
Những thắng lợi giành được trong thời kỳ khôi phục kinh tế không tách rời vai
trò của nhà nước dân chủ nhân dân, đồng thời có tác dụng củng cố nền tảng của nhà
nước.
Từ khi hòa bình lập lại, nhà nước dân chủ nhân dân ở miền Bắc đã chuyển
sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Đó là nhà nước đại biểu cho
quyền lợi của nhân dân lao động. Vì vậy, tăng cường nhà nước chuyên chính vô sản
cũng tức là phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công
nông, tăng cường mối liên hệ giữa nhà nước và nhân dân.
Từ ngày 5 đến ngày 15-9-1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc
họp tại Hà Nội đã quyết định mở rộng và củng cố khối đoàn kết toàn dân. Ngày 10-9-
1955, Đại hội thông qua việc thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kế tục sự nghiệp
đoàn kết toàn dân của Mặt trận Liên Việt trước đây. Đại hội đã bầu ra Ủy ban Trung
ương Mặt trận do Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch và thông qua Cương lĩnh Mặt trận,
gồm 10 điểm: 1. Hoàn thành độc lập dân tộc; 2. Thực hiện thống nhất nước nhà; 3.
Xây dựng chế độ dân chủ; 4. Phát triển kinh tế, nâng cao sản xuất; 5. Cải cách ruộng
đất; 6. Thi hành chính sách xã hội hợp lý; 7. Phát triển văn hoá giáo dục; 8. Củng cố
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; 9. Thi hành chính sách ngoại giao hoà bình, độc lập; 10.
Đoàn kết nhân dân toàn quốc.
Cương lĩnh của Mặt trận thể hiện nguyện vọng, ý chí của mọi người Việt Nam
yêu nước là đại đoàn kết để hoàn thành sự nghiệp xây dưng một nước Việt Nam hoà

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh. Phát biểu tại phiên bế mạc đại hội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng
đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt.
Muốn thực hiện Cương lĩnh của Mặt trận thì chúng ta phải ra sức củng cố miền Bắc
về mọi mặt, phải làm cho miền Bắc vững mạnh và tiến lên mãi, chứ không phải là hạ
thấp yêu cầu củng cố miền Bắc”
1
.
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 331.
24
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành lập đánh dấu một bước phát triển về đoàn
kết dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới, nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân
chủ và hoà bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ, củng cố hoà bình
thực sự thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ tiến tới xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Tháng 3-1957, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 12. Hội
nghị thảo luận và ra Nghị quyết về hai vấn đề: Kế hoạch Nhà nước năm 1957 và xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng.
Về kế hoạch Nhà nước năm 1957, Hội nghị đề ra mục tiêu hoàn thành nhiệm
vụ khôi phục kinh tế (ngang với mức sản xuất năm 1939) tạo ra những điều kiện tốt
để có cơ sở chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn phát triển kinh tế.
Về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, Hội nghị đề ra phương châm xây
dựng, tăng cường lực lượng quốc phòng: “Tích cực xây dựng một quân đội nhân dân
hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá” và “không những
có một lực lượng thường trực mạnh mà lại phải có một lực lượng hậu bị mạnh”
1
.
Ngày 14-9-1957, Dự thảo luật Công đoàn được Quốc hội (khóa I) họp kỳ thứ
7 thông qua, nhằm phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong quản lý kinh tế, quản

lý nhà nước. Cuối năm 1957, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chiïnh
các cấp địa phương được tiến hành, đã củng cố chính quyền dân chủ nhân dân
chuyển sang thực hiện chức năng chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân.
Sau thời kỳ khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển kinh tế và
văn hóa, mọi mặt đời sống xã hội miền Bắc đã và đang có những chuyển biến lớn
lao. Tình hình mới đòi hỏi phải có một hiến pháp mới thay cho thế cho Hiến pháp
1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên
của nước ta, thích hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đó. Nó đã
hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới
hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy mà chúng ta phải sửa đổi hiến pháp ấy"
2
.
Tại kỳ họp lần thứ 6 (23-11-1957), theo đề nghị của Ban Thường vụ Quốc hội,
Quốc hội khóa I ra nghị quyết sửa đổi hiến pháp và bầu ra Ban sửa đổi hiến pháp do
Chủ tịch Hồ Chí MInh làm trưởng ban.
Sau gần hai năm hoạt động, dự thảo hiến pháp đã được đưa ra trưng cầu ý
kiến rộng rãi trong toàn dân. Ngày 31-12-1959, Quốc hội khóa I chính thức thông qua
bản Hiến pháp mới. Ngày 1-1-1960, Hiến pháp được Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa công bố.
Hiến pháp 1959 khẳng định chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân: "Tất cả
quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân
sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân ...”
3
. Mọi quyền lợi và nghĩa
1
Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2005, tr. 37.
2
Hồ Chí Minh. Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 195.

3
&
3
Về nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr. 10 & tr. 14.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×