Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.12 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM HỮU NGHĨA

HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM HỮU NGHĨA

HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ XUÂN THẮNG


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những thông tin, số liệu được sử dụng trong chuyên đề này
là xác thực và không bị chỉnh sửa. Các tài liệu được sử dụng để phục vụ cho quá
trình xây dựng đề tài là những tài liệu được phép công khai minh bạch. Tôi xin chịu
mọi trách nhiệm liên quan tới tính xác thực và tính công khai của các tài liệu được
sử dụng trong chuyên đề. Ngoài ra, chuyên đề này là kết quả nghiên cứu của cá
nhân tôi, vì vậy mọi đánh giá, nhận xét được đưa ra dựa trên quan điểm cá nhân của
tôi. Tôi chịu trách nhiệm về các đánh giá này nhưng không chịu trách nhiệm về tính
khách quan của các đánh giá và phân tích trong chuyên đề này do các đánh giá,
phân tích được đưa ra dựa trên đánh giá chủ quan của cá nhân người viết là tôi. Tất
cả các nội dung của đề tài được xây dựng dựa trên những khảo sát và đánh giá của
tôi, do vậy, các thông tin trong tài liệu có thể trùng lặp với thông tin hiện có. Nhưng
tôi xin cam đoan, mọi đánh giá, phân tích, nhận xét cũng như các ý tưởng, đề xuất
trong chuyên đề này là do tôi tự xây dựng và nghiên cứu và cam kết không có sự
sao chép từ bất cứ một nguồn tài liệu nào. Tôi xin chịu trách nhiệm cho toàn bộ
những vấn đề đã được cam kết ở trên trước Học viện, Khoa Luật và giảng viên
hướng dẫn PGS.TS. Hồ Xuân Thắng.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 1 tháng 3 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Hữu Nghĩa


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hình thành Luận văn này, tôi nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ của quý thầy cô, các bạn trong lớp Cao học Luật khóa 1. 2016.
Thông qua bài viết này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc

Học viện, Quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức bổ ích
cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn PGS TS Hồ Xuân Thắng, giảng viên hướng
dẫn nghiên cứu khoa học, người đã nhiệt tình hướng dẫn, định hướng cho tôi trong
suốt quá trình hoàn thành Luận văn.
Xin kính chúc Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Quý thầy cô, các
bạn Lớp cao học Luật khóa 1. 2016 và PGS TS Hồ Xuân Thắng luôn khỏe mạnh và
thành công.
Mặc dù đã rất cố gắng hoàn thành tốt luận văn này, nhưng sẽ không tránh
khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp của Quý thầy cô để có thể
giúp tôi hoàn thành luận văn và bổ sung thêm nhiều kiến thức quý báu.
Xin chân thành cảm ơn
Tác giả luận văn

Phạm Hữu Nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1 Cơ sở lý luận pháp lý về hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp nhỏ và
vừa theo pháp luật Việt Nam ........................................................................................ 9
1.1 Khái niệm, đặc điểm, và tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
nền kinh tế thị trường. ................................................................................................... 9
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa........................................................ 14
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với nền kinh tế thị trường............. 17
1.2 Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của hỗ trợ khởi nghiệp doanh
nghiệp nhỏ và vừa ....................................................................................................... 18
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa ........ 18
1.2.2. Nguyên tắc của hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa ...................... 20

1.2.3 Vai trò của hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn
hiện nay ................................................................................................................... 21
1.3 Quy định hiện hành về hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta.. 24
1.3.1 Qúa trình hình thành và phát triển quy định pháp luật về hỗ trợ khởi
nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta............................................................. 24
1.3.2 Quy định của pháp luật hiện hành về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ......... 29
Chương 2 Thực trạng áp dụng quy định pháp luật hỗ trợ khởi nghiệp doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ 2009 đến nay và
một số kiến nghị hoàn thiện ........................................................................................ 41
2.1. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về hỗ trợ khởi nghiệp doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2009 đến nay........................ 41
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh ........................... 41
2.1.2 Kết quả áp dụng pháp luật về hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2009 đến nay ................................................... 42
2.1.3 Nguyên nhân của những bất cập trong việc hỗ trợ khởi nghiệp doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian quan....... 62
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hỗ trợ khởi nghiệp doanh
nghiệp nhỏ và vừa ....................................................................................................... 64
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTD

Bảo lãnh tín dụng

BIDV


Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

DN

Doanh nghiệp

DNNVV

DNNVV

HCM

Hồ Chí Minh

HSBC

Ngân hàng Hồng Kông – Thượng Hải

NN &PTNT VN

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

QBLTD

Quỹ Bảo lãnh tín dụng

Techcombank

Ngân hàng Kỹ Thương


TP

Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân

VCCI

Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam

VDB

Ngân hàng phát triển Việt Nam

Vietcombank

Ngân hàng TMCP Việt Nam

Vietinbank

Ngân hàng Công thương Việt Nam

VN

Việt Nam

WTO


Tổ chức thương mại quốc tế


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. DNNVV đã và đang trở
thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với số lượng chiếm 96%
tổng số doanh nghiệp trên cả nước, các DNNVV đóng góp đáng kể vào Tổng thu
nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài ra, trong quá trình
vận hành, các DNNVV đã tạo ra một đội ngũ doanh nhân và công nhân, với kiến
thức và tay nghề dần được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu mới trong cạnh
tranh. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các DNNVV gặp không ít những khó
khăn: thiếu vốn, trình độ công nghệ còn yếu, khó khăn trong việc gia nhập thị
trường, phân biệt đối xử, cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài khi
sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Đặc biệt là tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cho các DNNVV càng
gặp nhiều bất lợi trong hoạt động sản xuất. Yêu cầu đặt ra là cần phải thực thi cơ
chế chính sách cụ thể để hỗ trợ các DNNVV ở Việt Nam nói chung và doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng phát triển, vượt qua những
khó khăn kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh với vị trí, vai trò là một trung tâm kinh tế thương
mại lớn và có tầm chiến lược phát triển mạnh nhất trong cả nước có nhiều lợi thế là
một thành phố trẻ năng động, sáng tạo, có nhiều điều kiện về vốn và công nghệ do
đó việc khuyến khích khởi nghiệp DNNVV là rất cần thiết. Tuy nhiên việc thúc đẩy
tốc độ khởi nghiệp của các DNNVV tại TP Hồ Chí Minh trong thời gian qua chưa
thật sự ổn định, số doanh nghiệp đã thành lập nhận được sự hỗ trợ trong khởi

nghiệp là chưa đồng bộ, còn rất nhiều khó khăn bất cập. Do đó, các doanh nghiệp

1


này chưa thực sự phát huy hết thế mạnh của mình để đóng góp vào sự phát triển
kinh tế xã hội của thành phố nói riêng và đất nước nói chung.
Mặt khác, trong thời gian vừa qua các quy định của pháp luật về hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp được nhà nước ban hành để điều chỉnh, tuy nhiên chưa
thực sự đáp ứng kịp thời theo tinh thần làm quy tắc xử sự chung để các DNNVV
phát triển mang lại hiệu quả về mặt kinh tế cho thành phố Hồ Chi Minh và cho đất
nước. Những chính sách hỗ trợ chưa phù hợp với quá trình khởi nghiệp, đặc biệt là
chính sách về tài chính để hỗ trợ DNNVV. Vấn đề áp dụng các quy định liên quan
đến hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp chưa thực hiện đồng bộ, còn tồn tại rất nhiều
khó khăn vướng mắc. Ngày 12 tháng 6 năm 2017, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ
và vừa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp
thứ 3 thông qua. Từ ngày 1-1-2018, Luật Hỗ trợ DNNVV có hiệu lực với 7 chính
sách hỗ trợ chung, bao gồm: Hỗ trợ tiếp cận tín dụng; hỗ trợ thuế, kế toán; hỗ trợ
mặt bằng lãi suất; hỗ trợ công nghệ, cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật và khu làm việc
chung; hỗ trợ mở rộng thị trường; hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; hỗ trợ phát
triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, Luật DNNVV có 3 chương trình hỗ trợ mục
tiêu, như hỗ trợ DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo
và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Những quy định này hoàn toàn mới,
lúng túng trong cách hiểu và thực hiện đối với việc hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV
trong cả nước.
Nhằm góp phần thúc đẩy hiệu quả hỗ trợ khởi nghiệp cho các DNNVV, tối
đa hóa tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật tại thành phố Hồ Chí Minh, việc phân
tích chứng minh để làm rõ thực trạng hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Tác giả đã quyết
định chọn đề tài “Hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV theo pháp luật Việt Nam từ thực

tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật
học chuyên ngành Luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

2


Trong nhiều năm gần đây, các khía cạnh liên quan đến sự hỗ trợ DNNVV
được nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm nghiên cứu. Trong đó, đã có nhiều nghiên
cứu về vai trò của Nhà nước trong việc đưa ra quyết định, chính sách hỗ trợ
DNNVV, có thể điểm qua các nội dung đã nghiên cứu như:
Sách tham khảo, bài báo khoa học:
- Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000, PGS.TS
Nguyễn Cúc chủ biên. Tài liệu tham khảo này, Tác giả đã đánh giá thực trạng các
quy định của pháp luật cũng như thực tiễn phát triển hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở nước ta cho đến năm 2005, giai đoạn chuẩn bị hội nhập kinh tế thế giới.
Ngoài ra Tác giả cũng đưa ra những kiến nghị căn cơ nhằm đổi mới cơ chế và chính
sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005 làm tiền
đề cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới kinh tế thị trường ở nước ta.
- Phát triển DNNVV, kinh nghiệm nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt
Nam, NXB Thống kê, Hà Nội 2001, Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hoà. Tác giả
nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới cho việc xây dựng hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế, trong đó có liên quan đến các quy định về sự Phát
triển DNNVV, một đội ngũ doanh nghiệp đầy tiềm năng trong tương lai.
- Tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, NXB Tài Chính, Hà
Nội năm 2002 của GS.TS Hồ Xuân Phương, TS. Đỗ Minh Tuấn và Chu Minh
Phương. Tài liệu này nhóm tác giả viết dưới góc độ kinh tế học mô tả sâu hơn về sự
phát triển loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta,
trong đó vấn đề cơ bản vẫn là việc hỗ trợ về mặt tài chính để tháo gỡ sự phát triển

trì trệ đối với DNNVV ở Việt Nam.
- Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, NXB
Lao động – Xã hội, Hà Nội 2003, Viện nghiên cứu Thương Mại. Bài báo khoa học
này Tác giả nghiên cứu theo phương diện phân tích, đánh giá sự tác động các quy
định của Chính phủ trong việc thúc đẩy xúc tiến xuất khẩu đối với các DNNVV
hoạt động thương mại.
3


Luận án, luận văn:
- Luận văn thạc sỹ: Doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai - thực trạng và giải pháp phát triển, của Nguyễn Thanh Bình, bảo vệ năm
2005 tại Viện Quản lý kinh tế - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
trình bày thực trạng phát triển DNNVV trên địa bàn tỉnh Đồng nai theo pháp luật
doanh nghiệp năm 1999 điều chỉnh, qua đó Tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản
để nhằm khắc phục những hạn chế vướng mắc trong quá trình hình thành và phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Luận văn thạc sỹ: Hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, của Phạm Minh Tuấn, bảo vệ năm 2005 tại
Viện Quản lý kinh tế - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài này Tác giả
nghiên cứu trong giai đoạn hoàn thiện quy định của pháp luật về doanh nghiệp, mà
cụ thể là dự thảo luật doanh nghiệp 2005 sâu rộng trên cơ sở hợp nhất hai văn bản
luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và luật doanh nghiệp tư năm 1999.
- Luận văn thạc sĩ Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn Xuân Trường,
bảo vệ năm 2005 tại Đại học Ngoại thương Hà Nội. Đây là một đề tài nghiên cứu
của Thạc sỹ liên quan đến việc nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở nước ta trong quá trình chuẩn bị hội nhập nền kinh tế quốc tế.
- Luận văn thạc sĩ Phát triển DNNVV trên địa bàn Tỉnh Đăk Lăk, Nguyễn
Văn Nhơn, bảo vệ năm 2015 tại Đại học Đà Nẵng. Với tầm nhìn phổ quát thực

trạng DNNVV tại một địa phương Tây nguyên của nước ta, Tác giả đã hệ thống các
quy định của pháp luật kinh doanh về sự phát triển DNNVV đồng thời kết hợp với
thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về DNNVV để đưa ra những kiến nghị
phù hợp với sự phát triển doanh nghiệp này ở tỉnh Đăk Lăk phù hợp với quy định
hiện hành.
- Luận án Tiến sỹ: DNNVV ở Thành phố Hồ Chí Minh sau khi Việt Nam gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, Thái Văn Rê, 2011 tại Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Dưới góc nhìn của người nghiên cứu
4


về kinh tế học, Tác giả luận án đã nêu rõ bức tranh hình thành và phát triển của loại
hình DNNVV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cho phù hợp với yêu cầu hội
nhập kinh tế thế giới WTO mà Việt Nam là thành viên thứ 150. Bên cạnh đó Tác
giả đề xuất những giải pháp cơ bản để đội ngũ doanh nhân này vững mạnh, tự tin
hội nhập vào ngôi nhà chung Thương mại thế giới (WTO).
- Luận án Tiến sỹ: Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thành
phố Hồ Chí Minh, Hồ Tiến Dũng, 1995 tại trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh. Luận án đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra những giải pháp cơ bản để phát triển loại
hình odanh nghiệp này cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, từ khi luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời thì tại thành phố
Hồ Chí Minh chưa có tác giả nào đi sâu nghiên các chính sách hỗ trợ của Nhà nước
đối với các DNNVV trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế; nhất là những giải pháp hỗ trợ việc khởi nghiệp của DNNVV. Đây là
một vấn đề lớn đòi hỏi cần có những đầu tư nghiên cứu cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về hỗ trợ khởi nghiệp
DNNVV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua, đề ra những
kiến nghị hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất

nước. Trên cơ sở phân tích về mặt lý luận của khoa học pháp lý liên quan đến sự
phát triển loại hình DNNVV ở Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV
Đánh giá thực trạng áp dụng quy định pháp luật về hỗ trợ khởi nghiệp
DNNVV ở Thành phố Hồ Chí Minh
Các kiến nghị để DNNVV phát triển mạnh và bền vững.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
5


Nghiên cứu quy định của pháp luật về hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV cũng như
thực trạng các DNNVV hoạt động khởi nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2009 đến nay
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV bao gồm nhiều nội dung, tuy nhiên, luận
văn chủ yếu nghiên cứu các nội dung sau:
Thứ nhất: Quy định của pháp luật về hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV;
Thứ hai: Thực tiễn các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh.
DNNVV được Tác giả đề cập trong luận văn bao gồm các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế theo pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam hoạt động
trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên những doanh
nghiệp này là tổ chức kinh tế có trụ sở chính hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian của đề tài là từ năm 2009 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Là phương pháp phân tích lý
thuyết thành những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ theo lịch sử thời gian

để nhận thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau của lý thuyết từ đó
chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Là phương pháp
nhận xét những mặt mạnh, những điểm yếu, những mối quan hệ thông tin từ các lý
thuyết đã thu thập được và đánh giá thực tiễn, suy luận vấn đề về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ đó đề ra một số kiến
nghị hoàn thiện. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có quan hệ mật thiết với
nhau tạo thành sự thống nhất không thể tách rời: phân tích được tiến hành theo
phương hướng tổng hợp, còn tổng hợp được thực hiện dựa trên kết quả của phân
tích.
- Phương pháp thống kê: Luận văn thu thập và xử lý số liệu về DNNVV,
nghiên cứu các khó khăn, vướng mắc của DNNVV từ đó kiến nghị giúp hỗ trợ khởi
6


nghiệp DNNVV trong thời gian tới.
- Phương pháp so sánh: Là phương pháp tìm những nét tương đồng, sự khác
biệt tiêu chí xác định DNNVV của nước ta và một số nước phát triển, đang phát
triển trên thế giới và so sánh trong chính sách hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV của một
số nước trong khu vực và Châu Á từ đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ khởi nghiệp
DNNVV ở Việt Nam.
- Phương pháp luận nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu,
Luận văn dựa trên các quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của thành phố Hồ Chí Minh về
phát triển DNNVV, kết hợp phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp,
thống kê, so sánh, cũng như một số phương pháp khác đang được sử dụng nghiên
cứu trong khoa học pháp lý.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về hỗ trợ
khởi nghiệp DNNVV bằng việc bổ sung phân tích chứng minh những quy định hiện

hành về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ở nước ta.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009-2017 từ đó nhận diện được những thành
công, hạn chế và nguyên nhân căn bản.
- Đề xuất một số kiến nghị thúc đẩy việc hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với tiềm năng đóng góp về mọi mặt của
những doanh nghiệp này cho sự phát triển chung của thành phố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu thành 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận pháp lý về hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV theo pháp
luật Việt Nam.

7


Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về hỗ trợ khởi nghiệp
DNNVV trên địa bàn thành Hồ Chí Minh từ 2009 đến nay và một số kiến nghị.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ
HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP DNNVV THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
1.1 Khái niệm, đặc điểm, và tầm quan trọng của DNNVV trong nền kinh
tế thị trường.
1.1.1 Khái niệm DNNVV
Có thể khẳng định rằng, cho đến hiện tại, rất nhiều nhà khoa học đưa ra
nhiều khái niệm khác nhau về DNNVV.

Theo Wikiperia thì, Doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa hay còn gọi thông
dụng là doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về
mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNNVV có thể chia thành ba loại cũng căn cứ
vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng
lao động từ 10 đến dưới 200 người và nguồn vốn 20 tỷ trở xuống, còn doanh nghiệp
vừa có từ 200 đến 300 lao động nguồn vốn 20 đến 100 tỷ.
Ở Việt Nam, theo Điều 3, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của
Chính phủ, quy định số lượng lao động trung bình hàng năm từ 10 người trở xuống
được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến dưới 200 người lao động được coi là
Doanh nghiệp nhỏ và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi là Doanh nghiệp
vừa.
Thực chất, trong thực tiễn tổ chức và hoạt động trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta, DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp
luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn. Tức
là tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp hoặc số lao động bình quân năm, trong đó tổng nguồn vốn là
tiêu chí ưu tiên.
Theo Luật hỗ trợ DNNVV hiện hành thì không có khái niệm như thế nào là
DNNVV, tức là không được định nghĩa như thế nào là là DNNVV mà các nhà làm
9


luật sử dụng cụm từ “bao gồm” như chỉ liệt kê nhận dạng theo kiểu doanh nghiệp
siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau
đây: Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng doanh thu của năm trước
liền kề không quá 300 tỷ đồng” [22].
Để hướng dẫn thi hành xác định khoa học hơn về tiêu chí xác định DNNVV

ngày 11 tháng 3 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/2018/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ DNNVV, trong đó có xác định tiêu chí
DNNVV như sau: “DNNVV được phân theo quy mô bao gồm doanh nghiệp siêu
nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa”.
Một là: Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy
sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội
bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng
hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không
quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn
vốn không quá 3 tỷ đồng.
Hai là: Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng
hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu
nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 6. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại,
dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50
người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn
không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại
khoản 1 Điều 6 của nghị định.
Ba là: Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
quân năm không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng
10


hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp
nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 của Nghị
định. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia
bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm

không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không
phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều 6 Nghị định”
Tiêu chí xác định DNNVV trên thế gới
Hầu hết các nước trên thế giới đều nghiên cứu tiêu chí phân loại DNNVV
theo 2 nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại, đó là: tiêu chí định tính và tiêu chí
định lượng.
Tiêu chí định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của DNNVV như không
có vị thế độc quyền trên thị trường, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít…
các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng của vấn đề nhưng thường khó xác định
trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng trên
thực tế để phân loại.
Tiêu chí định lượng: Thường sử dụng các tiêu chí như là số lao động thường
xuyên và không thường xuyên trong doanh nghiệp, giá trị tài sản hay vốn, doanh
thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh
sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế... - Tài sản hoặc vốn có thể dùng
tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản hay vốn cố định, giá trị tài sản còn lại...- Doanh
thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một
năm(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ tiêu này).
Nghiên cứu về các tiêu chí xác định DNNVV ở một số nước trên thế giới có
thể nhận thấy: Dựa theo quy mô có thể phân loại doanh nghiệp thành doanh nghiệp
có quy mô lớn, vừa và nhỏ. Trong đó, việc xác định các tiêu chí và định mức để
đánh giá quy mô của một DNNVV có sự khác biệt ở các quốc gia trên thế giới.
Ngay trong cùng một quốc gia, những tiêu chí này cũng có thể được thay đổi theo
thời gian vì sự phát triển của doanh nghiệp, đặc điểm nền kinh tế hay tốc độ phát
11


triển kinh tế của quốc gia đó... Tuy nhiên, các tiêu chí phổ biến nhất được nhiều
quốc gia sử dụng là: số lượng lao động bình quân mà doanh nghiệp sử dụng trong

năm, tổng mức vốn đầu tư của doanh nghiệp, tổng doanh thu hàng năm của doanh
nghiệp
Thứ nhất: Nhóm các nước đang phát triển
- Hoa kỳ cũng phân loại DNNVV có số lượng lao động từ 1 đến 500 lao động,
về quy mô vốn và doanh thu của doanh nghiệp, pháp luật của Hoa Kỳ không quy
định.
- Đối với Nhật Bản, quốc gia này phân loại DNNVV theo 03 loại: - Đối với
ngành sản xuất, có số lượng lao động từ 01 đến 300 lao động, vốn đầu tư phải từ 1
đến 300 triệu Yên, doanh thu khô,

, ng quy định; - Đối với ngành thương mại số

lượng lao động bình quân từ 01 đến 100 người, vốn đầu tư không quá 100 triệu
Yên, doanh thu không quy định ; - Đối với ngành dịch vụ phỉa có số lượng lao động
bình quân từ 01 đến 100 lao động, vốn đầu tư từ 01 đến 05 triệu Yên, doanh thu
không quy định.
- Úc (Australia), phân loại doanh nghiệp là DNNVV có số lượng lao động dưới
200 người, không quy định về vốn đầu tư cũng như doanh thu của loại hình doanh
nghiệp này.
- New Zealand, phân loại DNNVV, có số lượng lao động dưới 50 người, không
quy định về vốn đầu tư và doanh thu.
- Korea, phân loại DNNVV, có số lượng lao động không quá 300 người, không
quy định về vốn đầu tư cũng như doanh thu của doanh nghiệp.
- Taiwan, phân loại DNNVV, phải có số lượng lao động dưới 200 người, quy
định về vốn đầu tư phải có dưới 80 triệu đô la đài loan và có quy định về doanh thu
100 triệu đô la Đài loan.
Thứ hai: Nhóm các nước đang phát triển
Bao gồm có 5 nước Thái Lan, phân loại doanh nghiệp là nhỏ và vừa, số lượng
lao động bình quan không quy định, vốn đầu tư dưới 200 triệu baht (Tiền Thái Lan),
về doanh thu không quy định; Malaysia phân loại doanh nghiệp là đối với ngành

12


sản xuất, số lượng lao động bình quan từ không đến 150 lao động, vốn đầu tư không
quy định, về doanh thu quy định RM từ không đến 25 triệu; Philippine phân loại
doanh nghiệp là nhỏ và vừa, số lượng lao động bình quan dưới 200 lao động, vốn
đầu tư Peso 1,5-60 triệu, về doanh thu không quy định; Indonesia phân loại doanh
nghiệp là nhỏ và vừa, số lượng lao động bình quân không quy định, vốn đầu tư<
US$ 1 triệu, về doanh thu có quy định < US$ 5 triệu và Brunei phân loại doanh
nghiệp là nhỏ và vừa, số lượng lao động bình quân 1-100 lao động, vốn đầu tư
không quy định, về doanh thu không quy định[27].
Thứ ba: Nhóm các nước có nền kinh tế chuyển đổi
Theo nguồn trích dẫn từ sách chuyên khảo “Phát triển DNNVV, kinh nghiệm
nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội 2001, Vũ
Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hoà thì nhóm các nước có nền kinh tế chuyển đổi, bao
gồm có 4 nước Liên Bang Nga Rusia; nếu nhỏ thì số lượng lao động bình quân từ
01 đến dưới 249 người; nếu vừa thì số lao động bình quân phải đạt từ 250 đến 999
người. China Trung Quốc nếu nhỏ thì số lượng lao động bình quân từ 50 đến dưới
100 người; nếu vừa thì số lao động bình quân phải đạt từ 101 đến 500 người;
Poland Phần Lan nếu nhỏ thì số lượng lao động bình quân dưới 50 người; nếu vừa
thì số lao động bình quân phải đạt từ 51 đến 200 người.
Rõ ràng, hầu hết các quốc gia đều lấy tiêu chí số lao động bình quân làm cơ
sở quan trọng để phân loại doanh nghiệp theo quy mô. Điều này là hợp lý hơn so
với việc lựa chọn các tiêu chí khác như doanh thu, vốn... là các chỉ tiêu có thể lượng
hóa được bằng giá trị tiền tệ. Các tiêu chí như doanh thu, vốn tuy rất quan trọng
nhưng thường xuyên chịu sự tác động bởi những biến đổi của thị trường, sự phát
triển của nền kinh tế, tình trạng lạm phát... nên thiếu sự ổn định trong việc phân loại
doanh nghiệp. Điều này giải thích tại sao tiêu chí số lao động bình quân được nhiều
quốc gia lựa chọn, tiêu chí này thường có tính ổn định lâu dài về mặt thời gian, lại
thể hiện được phần nào tính chất, đặc thù của ngành, lĩnh vực kinh doanh mà doanh

nghiệp đang tham gia.
Như vậy, xác định tiêu chí DNNVV ở Việt Nam các nhà nghiên cứu khoa
13


học pháp lý đã nghiên cứu một cách phù hợp, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý hạn chế,
thị trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô doanh nghiệp một cách đích thực và
tính đến các yếu tố tác động tới việc phân loại nêu trên như mục đích phân loại, tính
chất ngành nghề, địa bàn.
Việc phân loại DNNVV dựa theo 3 tiêu thức là: lao động thường xuyên và
vốn sản xuất hoặc doanh thu vì lý do sau: tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về
3 tiêu thức này (tính phổ dụng); có thể xác định 3 tiêu thức này ở mọi cấp độ, toàn
bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp (tính khả thi). Trong điều kiện của Việt Nam,
đây là 3 tiêu thức có thể xác định được chính xác trị số của chúng.
Trên cơ sở những luận giải trên đây, Tác giả thống nhất với định nghĩa
DNNVV quy định tại luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017: DNNVV bao
gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động
tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một
trong hai tiêu chí sau đây: Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng doanh
thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng[22].
1.1.2. Đặc điểm của DNNVV
Từ khái niệm về DNNVV được thừa nhận trong văn bản pháp luật hiện hành
của nước ta, cho phép chúng ta nhận diện đầy đủ những đặc điểm sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa thực chất là một doanh nghiệp, một tổ
chức kinh tế.
Căn cứ vào cơ sở pháp lý tại khoản 1 điều 4 Luật hỗ trợ DNNVV năm 2017
thừa nhận DNNVV là một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần kinh tế ở nước ta. Theo khoản 7 điều 3 Luật doanh nghiệp 2014 quy định:
“Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký

thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh, bao gồm doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, nhóm công ty” Như vậy DNNVV luôn chiếm đa số trong tổng
số doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
14


Nhìn nhận theo góc độ tham khảo thông tin các nước trên thế giới mà cụ thể
là theo số liệu được Ủy ban châu Âu công bố 8/2014, hơn 20 triệu doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở châu Âu chiếm 99% tổng số doanh nghiệp. Theo báo cáo mới nhất
vào tháng 1/2014 của Tradeup về tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại Mỹ, nhóm doanh nghiệp này chiếm tới 99% tổng số doanh nghiệp, sử dụng
trên 50% tổng số lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho 65% lượng lao động ở
khu vực tư nhân. Tại Việt Nam, theo Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 2011 thì Việt Nam có 543.963 doanh
nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 97%, đóng góp hơn 40% GDP cả
nước và sử dụng 51% tổng số lao động xã hội.
Thứ hai, doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô vốn nhỏ, gặp khó khăn trong
việc tiếp cận với nguồn vốn chính thức, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Điều này là một cản trở không nhỏ trong việc triển khai, áp dụng các tiến bộ
khoa học, công nghệ mới vào hoạt động thương mại nói chung và xúc tiến thương
mại trực tuyến nói riêng.
Thứ ba, doanh nghiệp nhỏ và vừa chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các công
ty, tập đoàn lớn và từ chính các doanh nghiệp với nhau. Trong quá trình hội nhập,
các tập đoàn lớn thường có xu hướng vươn mình ra thế giới, thành lập các chi
nhánh, công ty con ở các quốc gia có nhiều lợi thế, vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở các quốc gia này phải tìm ra những phương thức, công cụ mới trong hoạt
động kinh doanh.
Thứ tư, với nguồn vốn nhỏ hẹp, các doanh nghiệp này thường tập trung vào
các ngành hàng gần gũi với người tiêu dùng hơn là đầu tư vào các ngành công

nghiệp nặng, sản xuất khai thác cần nhiều vốn. Ở Việt Nam, theo Cục xúc tiến
thương mại (2012) trong cơ cấu ngành nghề, khoảng 43% doanh nghiệp nhỏ và vừa
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, 24% trong lĩnh vực thương mại và phân phối, số
còn lại hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và liên quan đến nông nghiệp.
DNNVV là loại hình sản xuất các địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ
máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh:
15


Một là: Dễ dàng khởi sự, bộ máy gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay
đổi của thị trường: Với một số vốn hạn chế, các điều kiện sản xuất đơn giản
DNNVV hoạt động với vòng quay sản phẩm nhanh gọn. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ
linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định.
Hai là: Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao:
Do các doanh nghiệp loại này có vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao động nên sẵn sàng
mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng nề như các
doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được.
Ba là: Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả
với chi phí cố định thấp: Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn, sử dụng hợp lý
các nguồn lực của mình, các DNNVV có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao,
cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có sức cạnh tranh trên
thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hạn
chế.
Bốn là: Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người
lao động, Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó. Nếu
xảy ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ dàn xếp.
Tuy nhiên DNNVV cũng có hạn chế, các hạn chế của loại hình doanh nghiệp
này đến từ hai nguồn: hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài và hạn chế đến
từ chính các lợi thế của DNNVV, cụ thể như sau:
Một là: Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của DNNVV nằm trong chính đặc

điểm của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào
tình trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi
mới, nâng cấp trang thiết bị.
Hai là: Các DNNVV thường phụ thuộc vào doanh nghiệp mà nó cung cấp
sản phẩm.
Ba là: Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc
biệt là các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường. Thiếu trợ giúp về tài chính và
16


tiếp cận thị trường nên các DNNVV thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị
trường.
Bốn là: Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp,
thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm,
thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản
xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu
quả kinh doanh.
Năm là: Do tính chất của nó, DNNVV gặp khó khăn trong thiết lập và mở
rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó
đang hoạt động. Đồng thời DNNVV gặp khó khăn trong thiết lập chỗ đứng vững
chắc trong thị trường.
1.1.3 Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế thị trường
DNNVV đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế
Có thể nhận thấy, sự phát triển mạnh mẽ của các DNNVV ở nước ta đã khơi
dậy sức sản xuất rất lớn và giải quyết một số lượng lớn lao động xã hội, kể cả ở
vùng sâu vùng xa. Năng lực sản xuất hàng hóa của thành phần này tăng mạnh, đóng
góp đáng kể vào GDP.
Đối với ngành nghề thuộc lĩnh vực xuất khẩu, với chính sách mở rộng và
khuyến khích thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham

gia kinh doanh xuất nhập khẩu. DNNVV đã năng động đầu tư vào các ngành nghề
có nhiều lợi thế, chủ động tìm kiếm và khai thác thị trường quốc tế qua đó góp phần
tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ của đất nước, chủ yếu qua hình thức
xuất khẩu gián tiếp nhất là các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủ công – mỹ
nghệ, chế biến nông sản, thủy sản.
DNNVV góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thực tiễn trong nhiều năm trở lại đây cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam như
nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dệt may, giày da… đã có sự chuyển biến rất
tích cực theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp, tăng giá trị sản
lượng công nghiệp và dịch vụ. Có được kết quả trên là nhờ một phần đóng góp
17


không nhỏ của các DNNVV. Tại vì, DNNVV phần lớn thuộc khu vực kinh tế tư
nhân và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, sự phát
triển của DNNVV thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng, góp
phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
DNNVV giúp giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, các vấn đề xã hội
một cách mạnh mẽ.
Theo thống kê của Tổng cụ thống kê, hàng năm, Việt Nam có khoảng 1,5
triệu người gia nhập thị trường lao động, ngoài ra số lao động nông nghiệp có nhu
cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng thật sự có số lượng
lớn và ngày một gia tăng. Chính sự xuất hiện ngày càng nhiều các DNNVV ở các
thành phố, địa phương, vùng nông thôn, góp phần giải quyết bài toán việc làm. Lao
động trong các DNNVV cũng có thu nhập cao hơn rất nhiều so với thu nhập của lao
động nông nghiệp. Do đó, việc thu hút lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp của các
DNNVV là một giải pháp xóa đói giảm nghèo cơ bản thiết thực và có hiệu quả.
Ngoài ra, DNNVV cũng tham gia tích cực trong việc xây dựng các công
trình văn hóa, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những

đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương trong cả nước. Một số doanh
nghiệp còn trực tiếp xây dựng nhà tình nghĩa tặng gia đình chính sách, gia đình
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cung cấp học bổng cho sinh viên,v.v…
1.2 Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của hỗ trợ khởi nghiệp
DNNVV
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV
Theo từ điển tiếng việt, hỗ trợ là sự giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào, giúp
đỡ một cá nhân, tập thể, hay một tổ chức nào. Khởi nghiệp chính là bắt đầu làm một
nghề nghiệp, sự nghiệp nào đó. Như vậy, Khởi nghiệp có thể hiểu theo nghĩa tiếng
Việt là khi một cá nhân có ý định tự mình bắt đầu một công việc kinh doanh riêng
và tự mình làm chủ thì gọi là khởi nghiệp. Cũng có thể hiểu rằng: khởi nghiệp là
quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh, bao gồm quá trình thành lập và vận hành
18


doanh nghiệp kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.
Có thể hiểu một cách rất đơn giản nữa là “khởi nghiệp là một quá trình bắt đầu từ
việc nhận biết cơ hội, từ đó thúc đẩy việc phát triển ý tưởng cho đến thành lập
doanh nghiệp và cuối cùng là vận hành, duy trì và phát triển doanh nghiệp”.
Do đó hỗ trợ khởi nghiệp đứng ở góc độ nào đó thì được hiểu chính là việc
giúp đỡ cá nhân, tập thể thực hiện quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh.
Luật hỗ trợ DNNVV lại đưa ra khái niệm cụm từ về “DNNVV khởi nghiệp
sáng tạo” là DNNVV được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài
sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng
nhanh[22]. Như vậy trong pháp luật hiện hành chỉ thống nhất sử dụng khái niệm
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là những DNNVV. Khởi nghiệp sáng tạo là
thành lập mới dể đi đầu sáng tạo trong cách hành động kinh doanh mang lại nhiều
sản phẩm cao hơn tốt hơn cho xã hội để thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển.
Hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV có những đặc điểm cơ bản đó là tạo điều kiện
thuận lợi cho các DNNVV được thành lập, phát triển, tăng hiệu quả kinh doanh và

khả năng cạnh tranh trên thị trường.
DNNVV phát triển mạnh không thể thiếu chương trình hỗ trợ khởi nghiệp
DNNVV của Nhà nước. Bởi vì, chương trình hỗ trợ khởi nghiệp DNNVV của Nhà
nước là chương trình mục tiêu dành cho DNNVV, căn cứ vào định hướng ưu tiên
phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các ngành và các địa bàn cần khuyến khích.
Chương trình được bố trí trong kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm do Thủ
tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quyết định trong các chương trình trợ giúp phát triển DNNVV.
Chương trình hỗ trợ khởi nghiệp đó là mục tiêu, đối tượng cụ thể DNNVV
theo ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn hoạt động, nội dung trợ giúp, nguồn lực, kế
hoạch và biện pháp về cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện. Chú trọng ưu tiên
chương trình trợ giúp các DNNVV do doanh nhân nữ quản lý, có nhiều lao động
nữ, DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, được thể hiện như: Tạo môi trường thuận lợi
cho việc khởi nghiệp và hành nghề của DNNVV; Cho vay vốn với điều kiện thuận
19


×