Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến thời trần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.92 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ THỊ THANH THOẢNG

PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN THỜI TRẦN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ THỊ THANH THOẢNG

PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐEN THỜI TRẦN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học Mã số: 82
29 001

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ HƯƠNG GIANG



Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ, ngoài những nỗ lực của bản thân còn có sự giúp đỡ
tận tình của quý Thầy Cô, sự động viên to lớn từ gia đình và bạn bè thân thiết.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô - Tiến sĩ Đỗ Hương Giang, người đã hết
lòng giúp đỡ cũng như tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Xin chân
thành cảm ơn quý Thầy Cô của Học viện Khoa học xã hội đã tận tình truyền đạt kiến thức
quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, các anh chị đồng môn,
bạn bè đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt khoảng thời gian 02 năm vừa qua.

Hà Nội, ngày 03 tháng 06 năm 2018
rri r _

•2

Tác giả

Lý Thị Thanh Thoảng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các kết quả được công bố trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.

rri r _

•2

Tác giả


Lý Thị Thanh Thoảng



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo sư Trần Văn Giàu từng nhận định: “Bình minh của dân tộc ta đã gắn liền với
Phật giáo. Phật giáo là ngọn đuốc văn minh ở xứ ta” [16, tr. 15]. Thật vậy, Phật giáo du nhập
vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên, trải qua hơn 2000 năm lịch sử - một chiều
dài thời gian khá đủ để cho đạo Phật, dù là truyền từ Ân Độ hay từ Trung Hoa sang, đều
được bản địa hóa, Việt Nam hóa, để những giá trị tinh hoa của Phật giáo biến thành sở hữu
thực sự của dân tộc Việt Nam. Với mục đích hướng con người đến sự giải thoát, trải qua bao
thăng trầm của lịch sử, Phật giáo đã minh chứng được giá trị cũng như sức sống của mình
trong lòng dân tộc. Trong xu thế hội nhập ngày nay, nếu không biết chọn lọc trên cơ sở kế
thừa và phát huy những giá trị tinh thần văn hoá dân tộc, thì người Việt Nam có nguy cơ bị
mất gốc. Khẳng định mối quan tâm đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã nói: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng vững chắc,
sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển” [13, tr. 75 -76].
Phật giáo trong mối quan hệ với văn hóa dân tộc được biểu hiện hết sức đa dạng và
phong phú trên nhiều bình diện và tầng lớp. Tuy nhiên, phải đến thời Trần, mối quan hệ
giữa Phật giáo và văn hóa Việt Nam mới đạt đến đỉnh cao của sự hỗn dung. Triều Trần
(1226 - 1400) là một trong những triều đại lớn nhất của lịch sử trung đại Việt Nam. Dưới sự
lãnh đạo của vua quan nhà Trần, nhân dân Đại Việt đã ba lần kháng chiến chống quân
Nguyên Mông thắng lợi, bảo vệ nền độc lập của đất nước, ghi một dấu son vàng trong lịch
sử phát triển của dân tộc ta. Nhắc đến nhà Trần không chỉ riêng gì những chiến công vang
dội trước quân xâm lược hung hãn mà gót giày xâm lược đã đặt đến các miền khác nhau của
lục địa Á Âu, mà hơn hết, đó là nói về nghệ thuật lãnh đạo toàn dân kháng chiến của vua

quan nhà Trần. Có điều khi nói đến nhà Trần mà chỉ đề cập đến những thành tựu quân sự thì
chưa đủ. Bởi vì, bên cạnh những chiến công vang dội về quân sự thì văn hóa giai đoạn này
cũng đạt được những thành tựu nhất định. Một trong những đỉnh cao góp phần mang bản
sắc riêng biệt của văn hoá Đại Việt đó là sự phát triển của Phật giáo lên ngang tầm thời đại.

6


Ngày nay, nếu chúng ta tiếp thu được những nét đẹp tuyệt vời của Phật giáo nói chung và tư
tưởng Phật giáo thời Trần nói riêng, chắc chắn Phật giáo sẽ là ngọn đuốc soi đường cho
nhân loại thoát khỏi những xung đột, hận thù, chiến tranh, khổ đau để xây dựng một ngôi
nhà chung an vui, hòa bình trên thế giới [27, tr. 311].
Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ta trong
tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc trong cuộc sống hôm nay là việc làm vừa có
ý nghĩa lý luận lâu dài vừa có tính thời sự cấp bách. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phật
giáo thời Trần nổi lên như một dấu son, góp phần khắc họa khá đậm nét bản sắc, cốt cách
tâm hồn người Việt nói chung và đặc trưng của triết học Phật giáo nói riêng trong suốt quá
trình phát triển. Việc dung hợp các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong
phú, sâu sắc, thâm trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự kế thừa có chọn
lọc, các nhà tư tưởng thời Trần đã xây dựng nên hệ tư tưởng Phật giáo hoàn chỉnh góp phần
kiến tạo nên mạch nguồn về vai trò của Phật giáo và sự đồng quy hài hòa giữa tam giáo, làm
nên những nét đẹp thiết yếu của bản sắc văn hóa trong chiều sâu tâm thức dân tộc, để lại
một ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đến các giai đoạn phát triển về sau của dân tộc.
Do đó, tác giả đã chọn vấn đề: “Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến thời Trần ở Việt
Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Phật giáo nói chung và tư tưởng Phật giáo thời Trần nói riêng từ trước đến nay đã
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến, với nhiều chủ đề và màu sắc, các vấn đề nghiên

cứu có thể được khái quát như sau:
Thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về Phật giáo thời Trần trên phương diện
lịch sử. Tiêu biểu cho chủ đề này phải kể đến các tác phẩm lớn như: Đại Việt sử kỷ toàn
thư, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998; Đại cương lịch sử Việt
Nam do Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2005,... các công trình khoa học trên đã trình bày và phân tích khá khái quát và sâu sắc

7


điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như các tiền đề lý luận hình thành tư tưởng Phật
giáo thời Trần.
Thứ hai: đó là các công trình nghiên cứu về Phật giáo thời Trần dưới góc độ lịch sử
tư tưởng văn hóa, tôn giáo. Liên quan đến chủ đề này phải kể đến các công trình như: Thơ
văn Lý - Trần, do Viện Văn học biên soạn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989; Ủy ban
Khoa học Xã hội - Viện Triết học cho xuất bản quyển Lịch sử Phật giáo Việt Nam do
Nguyễn Tài Thư chủ biên. Công trình này bàn về Phật giáo Việt Nam từ Ấn Độ du nhập
sang vào thế kỷ thứ II cho đến thế kỷ XIX; Quyển Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập III (từ
Lý Thánh Tông đến Trần Nhân Tông) của Lê Mạnh Thát được Nxb. TP. Hồ Chí Minh ấn
hành năm 2002. Quyển Tư tưởng Việt Nam thời Trần của Trần Thuận được Nxb. Tổng hợp
TP. Hồ Chí Minh xuất bản năm 2014,. tất cả các công trình thuộc chủ đề này giúp ta thấy rõ
giá trị về văn hóa, tư tưởng, tôn giáo mà Phật giáo thời Trần đã đóng góp cho lịch sử tư
tưởng Việt Nam.
Thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về Phật giáo thời Trần dưới góc độ tư
tưởng triết học như các tác phẩm của Nguyễn Đăng Thục: Thiền học Việt Nam, Lịch sử tư
tưởng Việt Nam (nhiều tập), Lịch sử triết học Phương Đông (nhiều tập)... bàn về Thiền tông
Việt Nam và tính kế thừa của nó qua nhiều thời kỳ; Năm 1995, quyển Thiền học đời Trần do
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản, gồm 28 bài viết của nhiều tác giả xoay quanh
vấn đề tác phẩm, tư tưởng của các thiền gia đời Trần; Nguyễn Hùng Hậu viết Đại cương
triết học Phật giáo Việt Nam, tập I, từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV, Nxb. Khoa học Xã hội,

năm 2000; Trương Văn Chung xuất bản cuốn Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm
đời Trần năm 1998, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Gần đây nhất, có thể kể đến là cuốn
Triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần của Đỗ Hương Giang, được Nxb. Khoa học Xã hội
ấn hành năm 2017, cuốn sách đã trình bày cụ thể quá trình hình thành và phát triển của Phật
giáo thời Trần, cũng như nội dung tư tưởng và các đặc điểm của triết học Phật giáo Việt
Nam thời kỳ này. Các công trình trên đã thể hiện nội dung của triết học
Phật giáo thời Trần qua việc phân tích hành trạng và tác phẩm của từng nhân vật như: Trần
Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.

8


Quả thật, các công trình khoa học trên thực sự là những tài liệu bổ ích để tác giả học
tập, kế thừa, phát triển trong luận văn của mình. Tiếp tục thành quả của các công trình
nghiên cứu đó, trong phạm vi đề tài của mình, tác giả sẽ nghiên cứu sâu hơn sự tác động của
Phật giáo đến mọi mặt đời sống xã hội nhà Trần cũng như sự phản ánh của cuộc sống đương
thời đến việc hình thành những đặc điểm Phật giáo riêng biệt chỉ có ở thời đại này.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích
Từ việc nghiên cứu nội dung, đặc điểm tư tưởng Phật giáo Việt Nam giai đoạn 1226 1400, phân tích ảnh hưởng của nó đến đời sống Kinh tế, Chính trị - Xã hội, Văn hóa - Giáo
dục thời Trần.
Nhiệm vụ
- Trình bày, phân tích các cơ sở xã hội và những tiền đề tư tưởng hình thành nên tư
tưởng Phật giáo Việt Nam thời Trần.
- Trình bày, phân tích những nội dung, đặc điểm của Phật giáo thời Trần và ảnh
hưởng của những tư tưởng đó đến các mặt của đời sống xã hội bấy giờ để chỉ ra giá trị của
Phật giáo đối với sự hình thành và phát triển của thời đại nhà Trần trong dòng chảy của lịch
sử dân tộc.


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng
thời, tác giả còn sử dụng tổng hợp các phương pháp sử học, hệ thống cấu trúc, lôgic và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh và đối chiếu,... để nghiên cứu và
trình bày luận văn. Luận văn được tiếp cận dưới góc độ triết học lịch sử và triết học tôn
giáo.

5. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phật giáo, đặc biệt là thiền tông và ảnh hưởng của nó đến các
lĩnh vực Kinh tế, Chính trị - Xã hội, Văn hóa - Giáo dục của thời đại nhà Trần ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:

9


Không gian: Thiền tông Việt Nam thời Trần
Thời gian: Phần nội dung chính, tác giả luận văn tập trung vào giai đoạn nhà Trần
(1225 - 1400). Tuy nhiên, các tiền đề hình thành thì sẽ liên quan đến thời gian trước đó.
Đồng thời, tác giả cũng không tránh khỏi việc phải tìm hiểu, nghiên cứu những nhận xét,
đánh giá của các nhà tư tưởng cũng như các nhà nghiên cứu từ sau thời nhà Trần đến hiện
nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần hệ thống lại quá trình hình thành Phật giáo ở Việt Nam và những
ảnh hưởng của hệ tư tưởng này đến sự hình thành và phát triển của thời Trần ở Việt Nam,
thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam, từ đó giúp người đọc tìm hiểu một cách sâu sắc
về giá trị của Phật giáo trong mọi mặt của đời sống xã hội thời Trần.
Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến toàn bộ quá trình hình
thành và phát triển của thời Trần, có thể rút ra những bài học lịch sử bổ ích góp phần vào
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội nhập
quốc tế hiện nay. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử tư tưởng Việt Nam cho sinh viên và học viên
cao học các ngành Triết học, Tôn giáo học, Văn hóa học, Sử học trong các trường Cao đẳng
và Đại học.

7. Kết cấu đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 2 chương,
4 tiết và 11 tiểu tiết.

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI TRẦN
1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của thời Trần ở Việt Nam
Trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã chứng minh được rằng:
để trường tồn và phát triển trên mảnh đất đầy hiểm họa xâm lăng và có nguy cơ bị đồng

10


hóa, ông cha ta phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để thực hiện quyền độc
lập, tự do của mình. Một trong những sức mạnh tổng hợp đó chính là bản sắc văn hóa
truyền thống, giá trị tinh thần dân tộc. Do đó, việc nghiên cứu tư tưởng Phật giáo thời Trần
chính là đi tìm một trong những khía cạnh bản sắc, giá trị tinh thần của dân tộc để hiểu và
tin tưởng vào truyền thống văn hóa tốt đẹp, lâu đời của dân tộc ta. Trên cơ sở đó, biết chọn
lọc để đáp ứng được nhiệm vụ mà Đảng ta đã đề ra cho lĩnh vực văn hóa là: xây dựng một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong phạm vi đề tài, tác giả bắt đầu từ việc
khái quát các điều kiện hình thành của Phật giáo ở thời đại nhà Trần.

1.1.1 Điều kiện Lịch sử
Mùa đông năm 938, với chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền trên Bạch Đằng
giang đã chứng minh tinh thần yêu nước quật cường, sức đấu tranh bền bỉ và mưu lược tài
ba của quân, dân ta. Đánh dấu một trang sử mới - trang sử độc lập, tự do của dân tộc. Tuy
nhiên, một thực tế đáng lo ngại sau chặng đường đấu tranh hơn mười thế kỷ nhằm thoát
khỏi sự đô hộ của giặc phương Bắc là tài nguyên cạn kiệt, nhân dân mệt mỏi sau thời gian
dài bị áp bức, cộng thêm những hậu quả của âm mưu đồng hóa,... đã đặt ra cho thế hệ đi đầu
một nhiệm vụ vô cùng cấp thiết. Nhưng chính trên đống hoang tàn ấy, các triều đại Ngô,
Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,. bằng ý chí kiên cường, tinh thần quật khởi, dân tộc ta đã từng
bước xây dựng một nhà nước phong kiến độc lập ngày càng hùng mạnh. Mặc dù vậy, lịch
sử dân tộc cũng không tránh khỏi những cuộc nội chiến với âm mưu thay thế triều đại, cụ
thể sau thời kỳ hoàng kim, từ khoảng giữa thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIII, triều đình nhà Lý
bước vào giai đoạn suy tàn. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Tình
trạng nông dân và những người tự do ngày càng tồi tệ bởi một mặt, họ bị quan lại bóc lột
nặng nề, sưu cao thuế nặng. Mặt khác, thiên tai, mất mùa, đói kém, dịch bệnh hoành hành
khắp nơi làm cho nền kinh tế ngày càng sa sút dẫn đến tình trạng ở nhiều địa phương, các
thế lực địa chủ phong kiến đã tập hợp lực lượng nổi dậy chống phá triều đình. Nổi bật trong
số các thế lực cát cứ thời bấy giờ là tập đoàn quân sự của anh em họ Trần ở vùng Hải Ấp
(Thái Bình). Do có công giúp nhà Lý dẹp loạn, lập lại trật tự, gia tộc họ Trần được triều
đình trọng dụng đã thao túng quyền bính và dần thâu tóm mọi quyền lực trong tay.

11


Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Chiêu Thánh vừa mới bảy tuổi,
rồi lên làm Thái Thượng hoàng và sau đó xuất gia đi tu ở chùa Chân Giáo, lấy hiệu là Huệ
Quang đại sư. Theo sự dàn xếp của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng đã kết hôn với Trần Cảnh.
“Mùa đông, tháng 12, ngày 12 năm Ất Dậu (1225) nhận thiền vị của Chiêu Hoàng, lên ngôi
hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung” [37, tr. 7] dưới sự giúp đỡ, ủng hộ của Trần Thủ Độ
và họ hàng. Nhà Trần trải qua các triều vua đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm phát triển

các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thúc đẩy xã hội tiến lên một bước đáng kể. Dưới triều Trần
Thái Tông và Trần Nhân Tông, nước ta ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông xâm lược,
góp phần nâng cao vị trí nhà Trần trong lịch sử.
Với sự khôn khéo của Trần Thủ Độ, chính quyền nhà Lý nhanh chóng chuyển sang họ
Trần như một tất yếu vốn có của lịch sử. Do sự suy thoái của nhà Lý, sự tiếp nối của triều
đại nhà Trần nhằm trả lời những câu đố mà lịch sử đặt ra cho con dân Đại Việt như: giải
quyết tình trạng cát cứ, ổn định tình hình xã hội, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa - giáo
dục. Và đó cũng chính là cơ sở quan trọng cho các nhà tư tưởng tiêu biểu của Phật giáo thời
Trần xây dựng một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh.
1.1.2 Điều kiện Kinh tế
Cũng như thời Lý, các vua Trần chú trọng đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, đặc biệt là
chế độ sở hữu ruộng đất. Các hình thức sở hữu ruộng đất cơ bản thời kỳ nhà Trần là ruộng
đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Có hai bộ phận cấu thành
ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: Một là, ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý, nó tồn tại
như tài sản của bản thân nhà vua và hoàng cung, một loại “tư hữu” đặc biệt mà những hoa
lợi bóc lột là của riêng hoàng đế. Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý có sơn
lăng, tịch điền và quốc khố. Hai là, ruộng đất công của thôn làng: ruộng công các làng xã
thời bấy giờ được gọi là quan điền hay quan điền bản xã. Còn ruộng đất thuộc sở hữu tư
nhân được hình thành từ chính sách ban cấp ruộng đất của chính quyền nhà Trần, nét khác
biệt cơ bản về tổ chức nhà nước so với triều Lý. Ruộng đất và bổng lộc của nhà Trần ban
cấp được gọi là thái ấp. Việc ban cấp thái ấp là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ
sở xã hội cho chính quyền nhà Trần. Nguồn đất ban đầu của thái ấp thuộc quyền sở hữu nhà

12


nước, nhưng khi ban cấp thành thái ấp thì thuộc chiếm hữu tư nhân của các quý tộc. Thái ấp
thời Trần cũng là nơi ở bền vững của quý tộc và mãi mãi được lưu truyền, như lời Trần
Hưng Đạo đã nói trong Hịch tướng sĩ rằng: “thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc
các ngươi cũng suốt đời tận hưởng” [41, tr. 392]. Ngoài thái ấp thì năm 1266, do nhu cầu

khẩn trương mở rộng diện tích canh tác và thực hiện chủ trương xây dựng, củng cố thêm thế
lực của quý tộc Trần, nhà Trần đã cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu
tập những người xiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn đất hoang lập điền
trang. Vương hầu có điền trang thực sự từ đấy.
về công cuộc trị thủy, để phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm diện tích canh
tác. Triều đình đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp, trong đó có tổ chức
làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Nhà Trần đã cho xây dựng hệ thống đê đỉnh nhĩ và các
dòng kênh tiêu úng. Năm 1248, Trần Thái Tông đặt cơ quan hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ
trách việc đê điều ở các lộ. Đây là công việc quan trọng, một bước ngoặt to lớn trong lịch sử
thủy lợi nước ta. Đắp đê ngăn mặn cũng là công cuộc mới mẻ ở thời Trần, các nhà quý tộc
thường cho nô tỳ đắp đê ở bãi biển lập điền trang. Công cuộc xây dựng thủy nông cũng
được nhà Trần chú ý, ở những vùng Thanh Hóa và Nghệ An là nơi có nhiều công trình thủy
nông. Năm 1248, Trần Nhân Tông lại cho đào sông Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở
Thanh Hóa, đây cũng là công việc tốn sức, tốn của. Năm 1256, triều đình cho khơi lại sông
Tô Lịch nhằm đảm bảo giao thông, đồng thời, để tưới tiêu cho các vùng xung quanh kinh
thành. Sang thế kỷ XIV nhiều công trình thủy nông vẫn tiếp tục được xây dựng.
về kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp, thủ công nghiệp nhà Trần bao gồm thủ
công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp tư nhân. Thủ công nghiệp nhà nước với nhiều
ngành nghề như: sản xuất đồ gốm, dệt, chế tạo vũ khí. Các nghề thiết yếu như nghề làm
gốm, rèn, đúc đồng, làm giấy và khắc bản in, mộc, xây dựng và khai khoáng thuộc về loại
hình thủ công nghiệp tư nhân.
Mạng lưới thương nghiệp và thành thị ngay từ đầu đã được nhà Trần quan tâm, qua
việc xây dựng nên một hệ thống giao thông thủy bộ trong cả nước. Hệ thống giao thông
biển và trên bộ thời Trần phục vụ cho yêu cầu quân sự nhưng cũng có nhiều tác dụng tốt

13


cho thương nghiệp. Đường bộ, đường thủy cho yêu cầu quân sự không còn do các địa
phương và nhân dân tự phát xây dựng mà là công tác của chính quyền địa phương, của triều

đình trực tiếp tổ chức, xây dựng. Đây được xem là bước tiến lớn so với thời Lý. Để phát
triển lưu thông hàng hóa các vua Đại Việt thời Lý - Trần đều đúc tiền. Ngoài ra, trên thị
trường còn sử dụng nhiều tiền Trung Quốc. Nhà Trần đã mở rộng việc mua bán đất bằng
tiền, nộp tiền để lấy quan chức, việc đúc tiền do quan xưởng đảm nhiệm. Quan hệ tiền tệ đã
thâm nhập vào đời sống chính trị và tín ngưỡng. Nhà nước thu tô thuế bằng tiền, cũng đã thể
hiện chức năng thanh toán của tiền tệ thời Trần đã phát triển rộng lớn. Thương nghiệp thời
Trần tuy có bước phát triển mới nhưng chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự cung, tự cấp. Tổ chức
các phường thủ công ở Thăng Long còn rất đơn giản, còn gắn chặt với sản xuất nông
nghiệp. Ngoại thương do nhà nước độc quyền, hàng hóa trao đổi chủ yếu vẫn là sản phẩm
của nền kinh tế tự nhiên, ít có sản phẩm thủ công. Đến cuối thế kỷ XIV, khi nông nghiệp sa
sút và nhà nước kiểm soát khắc khe việc buôn bán, sản xuất thủ công thì nền kinh tế hàng
hóa rơi vào chỗ bế tắc.
Với các chủ trương lớn nhằm mục đích khôi phục và phát triển kinh tế sau suy thoái.
Chính quyền tôn thất họ Trần đã tạo ra những biến đổi trong thượng tầng kiến trúc nhà
nước, góp phần thúc đẩy văn hóa, tinh thần, tư tưởng phát triển, tạo ra cho xã hội một sinh
khí mới, một sức mạnh mới có thể đương đầu với các cuộc ngoại xâm.
1.1.3 Điều kiện Chính trị - Xã hội
Nét độc đáo trong cơ chế chính trị thời Trần là chế độ “Lưỡng đầu” đã đạt đến mức
hoàn chỉnh. Khi thái tử đã khôn lớn thì cho nối ngôi chính thống ngay, còn vua cha lui về ở
cung Thanh Từ, xưng là Thượng hoàng, cha con vẫn cùng nhau giữ chính quyền trong nước.
Thực ra, việc truyền ngôi vua chỉ là để đề phòng lúc có chuyện, còn các công việc đều do
thượng hoàng quyết định. Các vua Trần tập trung trong tay các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp với một số sự chỉ đạo thống nhất, trong đó quyền lực hành pháp lớn nhất là
quyền bổ nhiệm phong cấp, bãi miễn quý tộc và quan lại trong hệ thống quan chức triều
đình. Ngoài ra, nhà Vua còn có quyền tối hậu trên các phương diện giáo dục - văn hóa. Nhà

14


vua là người đề xướng ra đầu bài thi, cũng như tuyển duyệt người thi đỗ trong các kỳ thi

Đình.
Cũng như thời Lý, thời Trần, người trong nước gọi quốc hiệu là Đại Việt, còn các
triều đình Trung Quốc (Tống, Nguyên) thì gọi là An Nam quốc và phong cho vua Trần làm
An Nam quốc vương. Kinh đô Đại Việt đặt tại Thăng Long. Năm 1397, theo ý muốn của Hồ
Quý Ly, Thuận Tông dời đô về An Tôn (Thanh Hóa) gọi là Tây Đô. Chế độ chính trị nhà
Trần được thiết lập theo kiểu nhà nước quân chủ tập quyền phương Đông. Cơ chế quân chủ
tập trung của nhà Trần đã thể hiện sư phát triển cao hơn hẳn so với nhà Lý về nhiều mặt, cả
quy mô lẫn trình độ quản lý, cũng như trong việc củng cố bộ máy nhà nước từ trung ương
đến địa phương, cơ sở. Thời Trần, việc tuyển dụng nhân tài qua khoa cử ngày một quy củ
hơn. Các quan lại Nho học dần dần thay thế các tăng quan trong triều. Bộ máy nhà nước
thời Trần đã có sự phân công, phân cấp khá rõ ràng, đã có sự chuyên môn hóa giữa các tổ
chức, cơ quan, các chức sắc quan lại,... Tổ chức nhà nước và các quy chế hành chính cũng
được quy định khá chặt chẽ. Bộ máy nhà nước được xây dựng thành một hệ thống hoàn
chỉnh từ trung ương đến địa phương so với thời Lý đã phát triển hơn hẳn một bước. Tầng
lớp nắm địa vị cao nhất trong bộ máy nhà nước là quý tộc Trần. Nhưng bên dưới là cả một
bộ máy quan lại phức tạp từ trung ương đến các địa phương.
về tổ chức quân đội: do đặc điểm và yêu cầu của điều kiện lịch sử nên triều đại nhà
Trần rất coi trọng binh pháp và kỹ thuật quân sự. Nhà vua, đồng thời là tổng tư lệnh quân
đội, trực tiếp chỉ đạo trong việc chọn tướng tài, luyện tập quân sỹ, đóng thuyền chiến, chế
tạo khí giới. Cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước để ổn định xã hội, củng cố chính
quyền phong kiến trung ương tập quyền, nhà Trần đã ra sức xây dựng một tổ chức quân đội
hùng mạnh đủ sức bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quân đội nhà Trần là một đội quân thiện
chiến, được trang bị, tổ chức và huấn luyện tốt, có nhiều kinh nghiệm bởi đã trải qua các
cuộc kháng chiên chống giặc Nguyên - Mông. Lực lượng quân sự thời Trần bao gồm các
thành phần chủ yếu: 1. Quân chủ lực của triều đình; 2. Quân của lộ, châu; 3. Quân của quý
tộc tôn thất; 4. Lực lượng dân binh (hương binh) trong làng, xã, động, bản. Hơn nữa, do chủ
trương kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và tổ chức vũ trang (ngụ binh ư nông) khá sáng

15



tạo mà trong chiến tranh, nhà Trần có thể tập hợp được lực lượng quân đội lớn mạnh, đông
đảo khi cần thiết.
về pháp luật: nếu thời Lý chỉ có duy nhất bộ Hình thư ban hành vào năm 1042, thì ở
thời Trần, bên cạnh những chiếu, lệnh, các văn bản đơn hành,... đã có tới năm bộ luật căn
bản điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Cụ thể như: Quốc triều thông chế (20 quyển)
quy định về tổ chức chính quyền. Sau đó được sửa chữa, bổ sung lại ban hành bộ Quốc triều
hình luật. Bằng việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nhà Trần đã khẳng định và củng cố sự
phân chia đẳng cấp rõ rệt nhằm mục đích bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp quý tộc tôn
thất họ Trần.
về ngoại giao: kế thừa những tiền lệ cũ của thời kỳ trước để xây dựng chiến lược
ngoại giao hòa hảo đã giúp thời Trần giữ được sự bình yên cho đất nước và nhân dân. Đồng
thời, cũng thể hiện được tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ trong quan hệ với các nước láng
giềng.
về sự phân chia đẳng cấp xã hội, đất nước ta bước vào thời đại nhà Trần trên nền tảng
xã hội được xây dựng ổn định và vững chắc từ thời Lý. Trong quá trình xây dựng chính
quyền quý tộc quân chủ vững mạnh, đồng thời củng cố, phát triển kinh tế, văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc, xã hội thời Trần đã diễn ra sự phân hóa mạnh mẽ. Một xã hội mới với
những đẳng cấp mới dần được hình thành. Nhìn chung, trong gần hai thế kỷ, xã hội thời
Trần đã hình thành và tồn tại ba đẳng cấp chính: Đẳng cấp quý tộc, tôn thất - quan lại trong
chính quyền quân chủ; Đẳng cấp những người bình dân, chủ yếu là nông dân các làng xã,
thợ thủ công và thương nhân, địa chủ; Đẳng cấp nô tỳ.
1.1.4 Điều kiện Văn hóa — Giáo dục
Về văn hóa
Văn học ở thời Trần, ngoài các nhà sư còn có quý tộc và nho sỹ tham gia vào lực
lượng sáng tác. Với chủ đề sáng tác được mở rộng, thơ văn nhà Trần không những xoay
quanh vấn đề của đạo Phật, mà còn đề cập đến những vấn đề của Nho giáo, Lão giáo.
Nhưng nổi bật hơn cả là những áng văn thơ thể hiện tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh
hùng, lòng tự hào dân tộc của nhân dân ta qua các cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông.


16


Sự xuất hiện chữ nôm vào năm 1282 là nét điển hình của Việt Nam hóa trong ngôn ngữ,
Việt Nam hóa chữ Hán mà qua chữ viết, cách nói của người Việt, tinh thần độc lập tự cường
được khắc họa một cách sinh động và rõ nét nhất. Tiêu biểu có thể kể đến Hịch tướng sỹ;
Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn,... Ngoài ra, với nội dung phản ánh nhân sinh quan
và thế giới quan Phật giáo, loại thơ “Thiền” đặc biệt phát triển được sáng tác bởi các vua và
các thiền sư thời Trần đã làm phong phú thêm văn học thời kỳ này.
Sử học: nếu việc viết sử được bắt đầu từ thời Lý thì đến thời Trần hoạt động biên soạn
những bộ sử của đất nước đã được chú trọng hơn. Cùng với việc thành lập Viện quốc sử,
nhiều bộ sử đã ra đời như: An Nam chí lược, Việt sử cương mục, Đại Việt sử kỷ toàn thư,
Lĩnh Nam chích quái,...
Trong thời Trần, các ngành nghệ thuật sân khấu, ca vũ nhạc cũng có những tiến bộ
đáng kể. Nhạc cụ phong phú, tuồng chèo trở thành loại hình nghệ thuật được đa số tầng lớp
ưa thích. Ngành kiến trúc và điêu khắc đã đạt được những thành tựu quan trọng khi hiện
thực tính siêu nhiên trừu tượng trong Phật giáo thời Lý bằng việc mọc lên của các hoàng
thành, cung điện, chùa chiền bề thế và đẹp đẽ.
Cùng với những nhà thiên văn và lịch pháp nổi tiếng như Đặng Lộ, Trần Nguyên
Đán, sự xuất hiện của nhà y học và dược học lỗi lạc Tuệ Tĩnh (tức Nguyễn Bá Tĩnh) đã làm
cho nền y học của dân tộc ta dưới thời Trần đạt được những thành tựu đáng kể.
về giáo dục
Năm 1253, nhà nước cho lập Quốc học viện để đào tạo nhân tài. Ngay sau đó, ở
Thăng Long và các địa phương trong nước, trường lớp được dựng lên khá nhiều. Năm 1281,
Trần Nhân Tông lập thêm nhà học ở Phủ thiên Trường. Song song, các trường lớp do nhà
nước tổ chức, một số trường tư ra đời và đều có vị trí trong đời sống xã hội của đất nước.
Tiếp tục những chính sách của thời Lý, nhà Trần mở khoa thi để chọn quan lại. Ngoài ra,
những người không đỗ đạt nhưng có tài vẫn được sử dụng. Phan Huy Chú (sử gia thế kỷ
XIX) có nhận xét: “Triều Trần dùng người thật là công bằng, tuy đã đặt khoa mục mà trong
việc kén dùng chỉ cốt tài là được, cho nên những nho sĩ có chí hướng thường được trổ tài

của mình, không đến nỗi bó buộc hạn chế về tư cách..., chỉ cần người dùng được chứ không

17


câu nệ ở đường xuất thân. Nhân tài văn học được thịnh cũng nhờ thế chăng?” [7, tr. 22]. Nội
dung học và thi cử của thời Trần bao gồm một số vấn đề về chính trị, đạo đức của Nho giáo
và Phật giáo. Bên cạnh đó, do sự phát triển cực thịnh của Phật giáo, nhất là thời Trần Nhân
Tông mà triết lý đạo đức nhân sinh Phật giáo không chỉ trở thành nội dung giáo dục của
khoa cử mà còn là nền tảng đạo đức xã hội.
Sự phát triển của Nho học và nền giáo dục khoa cử thời Trần đã góp phần phổ cập
Nho giáo trong nhân dân với các quan niệm phổ biến về tam cương, ngũ thường, trung
quân. Cùng với đó, sự thịnh hành Phật giáo trên cơ sở phát triển của nhà Lý, các vua Trần
đã sử dụng Phật giáo như một công cụ tư tưởng vì mục đích tu dưỡng đạo đức, củng cố khối
đại đoàn kết nội bộ vương hầu quý tộc, cố kết xã hội xung quanh nhà nước quân chủ chuyên
chế họ Trần, mà tiêu biểu là sự hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm mang đậm
màu sắc dân tộc. Phật giáo bắt đầu hòa trộn vào xã hội, ăn sâu bám rễ vào làng xã như một
lẽ đương nhiên. Vào cuối thời Trần, tình hình chính trị mất ổn định đã làm cho Phật giáo
mất đi vẻ trang nghiêm thanh tịnh. Để thay đổi cục diện, nhà nước phải tổ chức thi các thầy
chùa, tiến hành kiểm soát, sa thải tăng đạo để trao chức tăng đường, đầu mục và tri cung, tri
quản, tri tự cho người thông hiểu đạo Phật.

1.2. Những tiền đề hình thành, phát triển Phật giáo thời Trần
1.2.1.

Truyền thống yêu nước, tín ngưỡng bản địa và tư tưởng tam giáo Truyền

thống yêu nước
Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, trong bối cảnh thường xuyên phải đấu
tranh chống lại những kẻ thù xâm lược cậy vào sức mạnh quân sự, kinh tế của mình, thì tinh

thần yêu nước luôn là nhân tố quan trọng kết thành sức mạnh đại đoàn kết để dân tộc Việt
Nam giành chiến thắng. Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “tình cảm và tư tưởng yêu nước
là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước
là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt
Nam biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một
triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam” [17, tr. 100 - 101].

18


Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên thế giới
chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được hình thành sớm hay
muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện cũng như chiều hướng
phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc. Đối với dân
tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm
của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc ta. Lịch sử
mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập từ
tay kẻ thù xâm lược. Chính vì vậy, mà tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, tư
tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu,
giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh
đến đâu.
Qua đó, ta thấy rằng, chính lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc đã tạo nên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đồng thời, nó lại trở thành sức mạnh, là động
lực chủ yếu, quyết định nhất cho thắng lợi của quân và dân ta trước mọi kẻ thù xâm lược.
Từ thế kỷ thứ III TCN, dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của bọn phong kiến
phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 TCN đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm
dưới sự đô hộ của phương Bắc. Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ
biểu hiện sức mạnh quật cường, sự vươn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với chiến
thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác:
Lê Hoàn đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên - Mông,... Trong

những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt Nam đã được thể
hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi
ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất
nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân tộc đã tự nguyện
hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước hay đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường.
Đây là sự hy sinh to lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy
nhiêu thôi cũng đã đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng yêu nước không đơn giản là một triết lý,
nó là kim chỉ nam cho hành động, đem lại một sức mạnh to lớn, thúc đẩy dân tộc ta tiến lên.

19


Trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt đã thể hiện tinh thần yêu nước hùng
hồn:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẵng hành khan thủ bại hư!” [39, tr. 321].
Hay với Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn: “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ
gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu
quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng
nguyện xin làm” [41, tr. 387]. Tiếng vang vọng nghìn năm hô vang “Đánh! Đánh!” ở Hội
nghị Diên Hồng; những nỗi niềm thấm đẫm trong Bình Ngô đại cáo; niềm kiêu hãnh trong
lời kêu gọi “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”,...
Từ thế kỷ thứ XV, Nguyễn Trãi đã từng khẳng định rằng, nước Đại Việt ta thật là một
nước văn hiến và hào kiệt không bao giờ thiếu. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nói: “Tinh
thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần ái quốc của bọn đế quốc phản động. Nó là
một bộ phận của tinh thần quốc tế” [26, tr. 172]. Tinh thần yêu nước được hình thành từ
sớm, lại được thử thách, khẳng định qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, được bổ sung,
phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại, tinh thần yêu

nước đó trở thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành một trong những giá trị truyền thống cao
quý nhất, bền vững nhất của dân tộc ta. Yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh
thần mà theo Giáo sư Trần Văn Giàu vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh,
phần rất quan trọng là tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi
món vũ khí tinh thần ấy.
Tín ngưỡng bản địa
Với một bề dày quá trình khai thiên lập địa đã hình thành nên một nền văn hóa lớn
ngay trên mảnh đất này. Đó chính là nền văn minh Sông Hồng và các hình thức nhà nước sơ
khai, như nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc ở nửa cuối thiên niên kỷ thứ I TCN. Nhà
nghiên cứu Trần Văn Giàu khi nghiên cứu những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam

20


đã từng viết: “Trình độ văn hoá khá cao, có xã hội tổ chức thành quy củ, tồn tại lâu dài hình
thành hàng ngàn năm” [18, tr. 106]. Các phong tục tập quán, ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn
giáo, công cụ kỹ thuật cùng với các hình thức sinh hoạt, văn hóa tinh thần phong phú được
hình thành từ rất sớm. Các nền văn hóa Phùng Nguyên (2000 - 1500 TCN), Đồng Đậu
(1500 - 1100 TCN), Gò Mun, Đông Sơn, (khoảng thế kỷ III TCN) được “...biểu hiện bằng
các món dụng cụ, trang sức, trống đồng, thạp đồng, mũi tên đồng... mà người Việt Nam hiện
rất tự hào” [19, tr. 27].
Bên cạnh đó, người Việt cổ đã biết chế tạo đồ đá, sau đó là đồ đồng và sắt. Hơn thế, là
biết trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc. Việt Nam vốn là một xứ sở gắn liền với nghề nông
nghiệp trồng lúa nước, nên con người sớm nảy nở tín ngưỡng tôn thờ các hiện tượng tự
nhiên như mây, mưa, sấm, chớp. quan niệm về Lạc Long
Quân - Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng hay tục thờ cúng các vị thần mùa màng. Mặt khác, ở
người Việt còn thờ trời đất hay gọi là thờ thổ công, thổ địa. Họ cho rằng, các vị thần này đều
có quyền năng ban thưởng hoặc gián phạt đến mọi người.
Cùng với đó, tín ngưỡng thờ thần cũng phát triển phổ biến ở cấp độ làng xã. Thần
làng, ấp là những vị có công đánh giặc ngoại xâm, những vị có công lập làng khai hoang mở

đất, những vị tổ nghề hay thần còn là hồn thiêng sông núi. Còn một số nhà sư trở thành thần
thánh và được thờ trong chùa, theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Mặt khác, trong đời sống
tâm linh người Việt, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên diễn ra sâu rộng nhất so với các loại hình
tín nguỡng kể trên. Thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa là nhớ về cội nguồn, biết ơn cha mẹ là
người nuôi nấng, dạy dỗ, sinh thành ra ta hay thần linh phù hộ cho ta trong cuộc sống
thường ngày. Đặc biệt hơn là triết lý “mẹ sinh” [11, tr. 233]. Tín ngưỡng mẹ sinh hình th ành
từ thời nguyên thủy khi hái lượm là phương thức sinh sống của con người.
Khi Phật giáo du nhập vào nước ta đã bén rễ hỗn dung ngay vào tư tưởng này. Sự kết
hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa tạo nên cái mà người ta gọi là “dòng Phật giáo dân
gian” và nó cũng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Chính tính chất sâu sắc về mặt
tình cảm của tín ngưỡng bản địa và tính cao thâm, hệ thống của Phật giáo là ưu thế để hai
dòng tư tưởng không loại trừ nhau mà còn bổ sung cho nhau. Chính điều đó đã góp phần tạo

21


nên giá trị truyền thống của văn hóa Việt. Vì vậy, Phật giáo ngày càng ăn sâu vào đời sống
tâm linh của người Việt.
Tư tưởng tam giáo
Hơn một nghìn năm các triều đại phong kiến phương Bắc từ nhà Triệu đến nhà
Đường biến nước ta thành nơi để vơ vét, bóc lột bằng việc thực hiện chính sách đồng hóa về
văn hóa tư tưởng với dã tâm xóa bỏ độc lập chủ quyền dân tộc. Ở giai đoạn này, tam giáo
(Nho, Phật, Lão) được truyền vào nước ta như một phương thuốc xoa dịu lòng dân để dễ bề
cai trị. Tuy nhiên, bằng vó ngựa xâm lược của kẻ thù, Nho giáo, Lão giáo tuy có chỗ đứng
trong chính trị nhưng vẫn chưa thể đi sâu vào đời sống xã hội của nhân dân bằng sự dung dị
của Phật giáo. Hơn thế, Phật giáo du nhập vào nước ta từ rất sớm, vì vậy đã đặt nền móng
lâu đời trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc. Ở thời Trần, Phật giáo sớm trở
thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hưng thịnh và suy vong
của chính quyền quý tộc nhà Trần.
Mặc dù vậy, các vị vua thời Trần đã biết kết hợp nhuần nhuyễn cũng như phát huy vai

trò của Nho giáo lẫn Lão giáo trong sự nghiệp trị quốc của mình. Chính vì thế, nghiên cứu
Phật giáo thời Trần không thể không tìm hiểu về quá trình hình thành, du nhập và thích ứng
của Nho giáo, Lão giáo (hay còn được xem là tam giáo đồng nguyên) trong đời sống xã hội
Đại Việt lúc bấy giờ.
Nho giáo
Nho giáo hay còn gọi là đạo Khổng, được Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập và các
môn đệ của ông là Mạnh Tử (372 - 289 TCN), Tuân Tử (313 - 238 TCN), Đổng Trọng Thư
phát triển. Khổng giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc thời
cổ đại, đó là những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể chế cai trị vốn đã có cơ sở ở Trung
Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối thời Xuân Thu thì được hoàn chỉnh bởi thầy trò nhà Khổng.
Vấn đề trung tâm của Nho giáo là tư tưởng về con người. Nho học quan niệm tính
thiện của con người gồm năm đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín hay còn gọi là ngũ thường.
Với học thuyết “Chính danh” làm cho con người chấp nhận sự tồn tại lâu dài của chế độ
phong kiến, là nguyên nhân của sự trì trệ, chậm phát triển của các nước phuơng Đông. Nho

22


giáo rất chú trọng dạy đạo làm người, hướng vào rèn luyện đạo đức con người, đề cao giáo
dục, giáo dục làm con người ác thành thiện. Đây thực sự là quan điểm hết sức tiến bộ của
Nho giáo.
Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên,
Lý Thiện, Sĩ Nhiếp.. tích cực truyền bá từ đầu công nguyên. Nhưng Phật giáo đã có ưu thế
hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh
chính quyền ngoại bang thì Phật giáo đã thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân ở mọi miền
đất nước.
Ở thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử
(1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức. Chính vì vậy, mà Nho giáo ở
Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (Nhà Lý cùng thời với nhà Tống ở Trung Hoa) chứ không
phải Hán Nho, Đường Nho...

Sang thời Trần, Nho giáo từng bước phát triển mạnh mẽ. Đến giữa thế kỷ XIV, Nho
giáo lấn át Phật giáo, dần dần chiếm địa vị độc tôn và từng bước đi sâu vào sinh hoạt tinh
thần của nước Đại Việt trên nhiều lĩnh vực. Tầng lớp Nho sĩ ngày càng đông đảo và đẩy lùi
dần thế lực của tầng lớp tăng lữ trên lĩnh vực chính trị cũng như thi cử. Quan lại xuất thân
từ nho học ngày càng chiếm ưu thế trong bộ máy chính quyền và nắm giữ các chức vụ quan
trọng trong triều đình [33, tr. 36].
Cuối triều Trần, cuộc xung đột giữa Phật giáo và Nho giáo bắt đầu. Vấn đề có nhiều
lý do, nhưng lý do chính có lẽ là do nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước ta khi chế
độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai con đường “nhiệm tử”
và “thủ sĩ’ không đủ mà cần phải bổ sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại
mới. Phương thức này chỉ có thể đạt được bằng con đường phát triển giáo dục văn hoá và
thực hiện chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài. Nho giáo đã có đầy đủ lý thuyết và quy chế về
giáo dục, khoa cử tất nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy. Do đó, Nho giáo có cơ hội
vượt qua Phật giáo để bám rễ sâu vào đời sống chính trị xã hội của nhà nước Đại Việt.
Mặc dù, là hệ tư tưởng phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến nhưng Nho giáo đã
đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả, dù

23


nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nhưng nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa
cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả
với xã hội, là yếu tố tạo nên truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ, làm cho
nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo
cũng đem lại không ít tác động tiêu cực. Đầu tiên, quan hệ của con người trong Tam cương
có tính phiến diện, mặc dù Nho giáo có nói đến nghĩa vụ và cách đối xử của hai bên, nhưng
thực tế thì trước sau chỉ lên án những kẻ làm tôi, làm con, làm vợ mà thôi. Thực tế, đó là
mối quan hệ độc đoán một chiều. Hai là, quy toàn bộ quan hệ xã hội của con người vào Tam
cương, Ngũ thường là không đủ. Đặc biệt, Nho giáo coi thường người phụ nữ, đã quy định
trói buộc người phụ nữ vào người đàn ông. Vì vậy, Nho giáo đã không giải đáp được vấn đề

số phận và yêu cầu giải phóng con người, làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo
phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và giáo dục khoa cử đương thời.
Phật giáo
Dựa vào truyện Nhất dạ Trạch trong Lĩnh Nam Trích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú
biên soạn thì Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ VI và đầu thế kỷ V trước
công nguyên. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết. Một số quan điểm khác lại cho rằng Phật giáo
vào nước ta khoảng thế kỷ thứ nhất, khi nước ta bị nhà Hán đô hộ. Khi đó Việt Nam có
Trung tâm Phật giáo nổi tiếng là Luy Lâu, được thành lập do sự viếng thăm của các nhà
buôn và tăng sĩ Ân độ, trực tiếp bằng đường biển chứ không phải là bằng đường bộ từ
Trung Quốc xuống. Trong Thiền uyển tập anh, phần tiểu sử Thiền sư Thông Biện có đoạn
nói rằng Tùy Văn Đế muốn hỗ trợ tam bảo, đã xây dựng tháp xá lợi thờ 49 nơi, làm 150
ngôi chùa tháp. Ông muốn làm chùa tháp ở Giao Châu bèn sai pháp sư Đàm Thiên chọn một
số danh tăng sang đó để giáo hóa, khiến mọi người đều biết đạo Bồ đề. Pháp sư Đàm Nhiên
tâu: “Xứ Giao Châu có đường biển thông trực tiếp với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến
Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới 20 ngôi bảo tháp, để được hơn 500 vị tăng
và dịch được 15 quyển kinh rồi” [38, tr. 91 - 92]. Điều đó đã chứng tỏ Phật giáo đến Giang
Đông chưa đầy đủ thì Luy lâu đã trở thành Trung tâm Phật giáo ở Giao Châu (Đại Việt).

24


Phật giáo với những tư tưởng như: vô thường, vô ngã, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi
và triết lý nhân sinh từ, bi, hỷ, xã... đứng về phía người nghèo khổ, trong học thuyết Tứ
Diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát Chánh đạo gần gũi và phù hợp với triết lý nhân sinh
cũng như phong tục tập quán của người Việt, như quan điểm phúc đức nhân ái, vị tha, hòa
hiếu. Vì vậy, Phật giáo đã được người Việt tiếp nhận, với một số vị thiền sư có công truyền
bá và tu tập như Khương Tăng Hội, Mâu Bác, Ma Ha Kỳ Vực,...Khương Tăng Hội là người
giới thiệu và viết tựa cho các tác phẩm Lục Độ Tập Kinh, An ban Thủ Ý và cũng được coi
là người khởi đầu hay là “khai sáng” thiền học Việt nam và đặc biệt hơn là Mâu Bác với tác
phẩm Lý hoặc Luận đã giải thích về Nho, Lão, Phật, tạo ra cuộc dung hợp về học thuyết

giữa Nho, Đạo và Phật đầu tiên ở Việt Nam. Từ đó, Phật giáo không những đã đi sâu vào
đời sống tâm linh, đạo đức của dân tộc Việt mà nó còn ảnh hưởng đến cả đời sống chính trị
của nước Việt Nam. Do vậy, Phật giáo đã sớm chiếm ưu thế hơn Nho giáo và Lão giáo rất
nhiều.
Lão giáo
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng, Lão giáo bắt nguồn từ học thuyết triết học của Lão
- Trang nên thường được gọi là Đạo Lão. Những tư tưởng cốt lõi của Lão giáo là học thuyết
về “Đạo” và những tư tưởng biện chứng, cùng học thuyết “Vô vi” về lĩnh vực chính trị - xã
hội. Với quan điểm “Đạo” là cái bản nguyên của vạn vật, là nguyên lý vận hành của mọi
hiện hữu đã hình thành nguyên tắc “bình quân” và “phản phục” trong quan niệm về tính
biện chứng của thế giới, biến Lão giáo trở thành một tư tưởng triết học không bao hàm sự
phát triển. Lão giáo du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc cùng với Nho Giáo. Về
sau, với sự phát triển phức tạp, Lão giáo được chia làm 2 trường phái: Đạo gia và Đạo giáo.
Đạo gia ảnh hưởng đến tầng lớp trí thức, quý tộc. Còn trong Đạo giáo lại chia thành hai
trường phái là: đạo Thần tiên và đạo Phù thủy. Đạo Thần tiên ảnh hưởng đến tầng lớp vua
quan, còn đạo Phù thủy thì kết hợp với các tín ngưỡng bản địa nên đã rời bỏ cái đạo vô vi
vốn có để đi vào lối tu Tiên, tìm kiếm sự trường sinh. Đạo Phù thủy chủ yếu ảnh hưởng đến
tầng lớp nông dân, nô tỳ. Bằng chứng là từ quan niệm các vị thần vốn có trong Đạo giáo của
Trung quốc như Lão Tử, Quang Công, Văn sương, Bát Tiên,... người Việt Nam với tín

25


×