Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.56 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG THỊ LOAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2018


VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG THỊ LOAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 83 10 27 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


GS.TS. NGUYỄN HỮU KHIỂN

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các
thông tin, số liệu là khách quan và dựa trên các kết quả nghiên cứu thực tế, các
tài liệu đã được công bố và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp. Các
kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc
và chưa được công bố.


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành nhất tới GS.
TS. Nguyễn Hữu Khiển, giảng viên Học viện Khoa học xã hội, người thầy đã tận
tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Chính sách công, cùng cán bộ,
giảng viên của Học viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện, nhiệt tình giảng dạy và
giúp đỡ tác giả trong quá trình theo học chuyên ngành cao học Chính trị học tại Học
viện.
Trân trọng cảm ơn lãnh đạo chính quyền thành phố Buôn Ma Thuột, cùng
các cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố đã quan tâm giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Xin được bày tỏ lòng tri ân đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động,
chia sẻ và khích lệ tác giả trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.

Hà nội, ngày


tháng

năm 2018

Tác giả Luận văn

Nông Thị Loan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI
DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ.................................................................... 15
1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................................15
1.1.1. Khái niệm chính trị, hệ thống chính trị ................................................ 15
1.1.2. Hệ thống chính trị cấp xã ........................................................................ 19
1.2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số .............. 24
1.2.2. Một số vấn đề về cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số và vai
trò của họ đối với hệ thống chính trị cấp xã ........................................................................ 24
1.2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số ................................................................................................................... 26
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở THÀNH PHỐ
BUÔN MA THUỘT .............................................................................................................. 32
2.1. Khái quát về điều kiện phát triển thành phố Buôn Ma Thuột ............................ 32
2.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ............................................................................ 32
2.1.3. Điều kiện phát triển văn hóa ................................................................................... 34
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là ngƣời dân tộc thiểu số ở
thành phố Buôn Ma Thuột ................................................................................................... 35
2.2.1. Cơ cấu ....................................................................................................................... 36

2.2.2 Số lượng ........................................................................................................................ 38
2.2.3. Chất lượng .................................................................................................................... 38
2.3. Thực trạng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức cấp xã là ngƣời dân tộc
thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột ................................................................................. 41
2.3.1. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ........................................................................................... 41
2.3.2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số ............................................................................................................... 43


2.4. Đánh giá thực trạng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức cấp xã là ngƣời
dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột ...................................................................... 47
2.4.1. Về mặt ưu điểm ........................................................................................................ 47
2.4.2. Về hạn chế ................................................................................................................ 49
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế.......................................................................... 52
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ................................................................55
3.1. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã ngƣời dân tộc thiểu số .................................................................................................. 55
3.1.1. Định hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên ............................................................................................................ 57
3.1.2. Định hướng và mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Đắk Lắk ............................................................................................................................ 57
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công
chức cấp xã là ngƣời dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột ............................... 62
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã là người dân tộc thiểu số ở Tây nguyên ........................................................................... 62
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách về nội dung, chương trình, hình thức tổ
chức và phương pháp giảng dạy............................................................................................ 63
3.2.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách, chế độ hỗ trợ, khuyến khích .......................... 64
3.2.4. Giải pháp hoàn thiện chính sách đầu tư cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
trên địa bàn thành phố ........................................................................................................... 65

3.2.5. Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên .......................... 65
3.3. Một số kiến nghị ......................................................................................................... 66
3.3.1. Đối với cơ quan Chính phủ..................................................................................... 66
3.3.2. Đối với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột................................................................................ 67
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CB, CC DTTS

Cán bộ, công chức Dân tộc thiểu số

HTCT

Hệ thống chính trị

HĐND KT - XH

Hội đồng nhân dân Kinh tế - xã hội

THPT THCS

Trung học phổ thông Trung học cơ sở

UBND

Ủy ban nhân dân


UBMTTQVN

Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Cơ cấu, quy hoạch cán bộ cấp xã là người DTTS nhiệm kỳ 2010 –
2015 và 2015 – 2020 của Thành ủy Buôn Ma Thuột năm 2017
Bảng 2.2. Số lượng và tỷ lệ cán bộ, công chức chia theo dân tộc ở thành phố
Buôn Ma Thuột năm 2017
Bảng 2.3. Số lượng và trình độ giáo dục, đào tạo của 25 cán bộ xã, phường
người DTTS ở thành phố Buôn Ma Thuột năm 2017
Bảng 2.4. Số lượng và trình độ giáo dục, đào tạo của 19 công chức xã,
phường người DTTS ở thành phố Buôn Ma Thuột năm 2017


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Hệ thống chính trị cấp cơ sở có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong
hệ thống chính trị của nước ta, là nơi trực tiếp vận động, hướng dẫn người dân
thực hiện đúng mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Hệ
thống chính trị cấp xã không thể đạm nhận được vai trò nếu thiếu nhân tố có ý
nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, lắng nghe, nắm bắt tâm tư
nguyện vọng của nhân dân để báo cáo, phản ánh với cấp trên nhằm ban hành

các chủ trương, chính sách sao cho phù hợp với thực tiễn của cuộc sống. Vì
vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, nhất là cán bộ,
công chức cấp xã là người DTTS là yếu tố trọng yếu trong công tác cán bộ
của Đảng và Nhà nước. Để có thể xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
là người DTTS có phẩm chất đạo đức, lập trường chính trị và trình độ, kỹ
năng đáp ứng yêu cầu thì hoạt động đào tạo, bồi dưỡng là con đường tất yếu
và quan trọng nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc...
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[13]. Thấm nhuần lời dạy của người,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng và đã có nhiều
Chủ trương, Chính sách và Nghị quyết về công tác cán bộ, nhất là đối với cán bộ
trong hệ thống chính trị cấp xã. Cán bộ, công chức xã có vai trò quan trọng trong
hoạt động của cả hệ thống chính trị, trong vận động nhân dân thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Để có đội ngũ cán bộ,
công chức xã đủ năng lực thực hiện tốt mọi nhiệm vụ, Đảng và Nhà nước ta cần coi
trọng và làm tốt các mặt công tác xây dựng và nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán
bộ, công chức xã. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã là một nhiệm vụ trong
công tác cán bộ cơ sở của các cấp uỷ đảng ở địa phương, nhằm tạo ra một đội ngũ
9


những người có đủ năng lực, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước, góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt trong việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và cải cách nền hành chính nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa X xác định: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành chính, của cán bộ, công
chức, đặc biệt là kỹ năng hành chính và áp dụng công nghệ thông tin và hoạt
động của cơ quan hành chính”[4, tr.12].

Xác định tầm quan trọng trong công tác cán bộ, trong những năm qua, Đảng
bộ Thành phố Buôn Ma Thuột và các Đảng ủy các xã trên địa bàn thành phố luôn
quan tâm và xem đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, chiến lược cán bộ đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy nhanh quá trình xây dựng
nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xét một cách toàn diện,
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương vẫn còn không ít hạn chế. Số lượng,
cơ cấu thành phần, năng lực, trình độ, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cả đội
ngũ chưa đồng bộ. Khá phổ biến là tình trạng cán bộ có trình độ thấp, năng lực bao
quát, quyết đoán trong chỉ đạo thực tiễn không cao. Thực tế trên tạo nên trở ngại lớn
cho việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Những hạn chế đó có
nguyên nhân từ việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong những năm
qua còn nhiều bất cập. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ,
công chức xã chưa được trú trọng nhiều. Khắc phục những hạn chế, yếu kém ấy là
nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của các cấp ủy đảng ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố
Buôn Ma Thuột hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2.
a.

Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến đào tạo đội ngũ cán bộ, công

chức nói chung
10


Ngay từ khi thành lập, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ và xem đây là
nhiệm vụ chính trị hàng đầu xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, Đảng
ta đã xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, vấn đề cán bộ trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả,
cụ thể như:
Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2011), Cơ sở lý luận thực tiễn xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tiếp tục đưa ra
nhiều luận cứ khoa học của việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành ở
nước ta. Qua đó, nhiều vấn đề được khẳng định: về vị trí, vai trò nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng của cán bộ và công tác cán bộ; về yêu cầu đức - tài,
phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ đặt trong trong quan hệ với nhiệm vụ
chính trị, với xu thế của thời đại; về trách nhiệm của các cấp chủ thể, nhất là cấp ủy
và người đứng đầu cấp ủy, hệ thống chính trị; về quan điểm, mục tiêu, phương
hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, một số đề tài khoa học, luận văn, luận án gần đây mở rộng
được phạm vi hoặc đi sâu vào một số nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cụ thể: Đề
tài khoa học Trần Thị Hương “Vấn đề tạo nguồn cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa
đặc biệt khó khăn - thực trạng và giải pháp” (Mã số KHBD (2009) - 51) đưa ra khái
niệm “Tạo nguồn cán bộ cơ sở cấp xã vùng cao, vùng xa đặc biệt khó khăn là quá
trình phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những người công tác tại cơ sở xã,
thôn bản thuộc khu vực này, hoặc có thể là học sinh, sinh viên, để giúp họ có đủ các
điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở”. Khái niệm cho thấy: đối tượng tạo nguồn là
người đang công tác tại chỗ, hoặc học sinh, sinh viên; nội dung tạo nguồn là phát
hiện, quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đối tượng; mục tiêu tạo nguồn là giúp đối
tượng có đủ điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở. Có thể đánh giá: với mục tiêu
nói trên, thì nội dung tạo nguồn mà tác giả đề cập chưa thể đáp ứng, bởi sau khi
phát hiện và quy hoạch, chỉ bằng công tác đào tạo, bồi dưỡng thì sẽ không đủ để
chuẩn hóa nguồn theo tiêu chuẩn cán bộ cơ sở.
11


b.


Nhóm công trình nghiên cứu về đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức xã

là dân tộc thiểu số
Xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp xã là đối tượng nghiên
cứu được nhiều nhà khoa học quan tâm, không chỉ bởi vai trò của hệ thống chính trị
cấp cơ sở, mà còn liên quan đến vai trò và thực tế việc xây dựng, phát huy vai trò
đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt ở đây. Nhiều sách, đề tài, luận án,
luận văn, bài viết đã phân tích sâu sắc, trên từng góc độ tiếp cận thực trạng của hệ
thống chính trị cấp cơ sở, nhất là ở vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số,
với những khó khăn, vướng mắc về điều kiện kinh tế - xã hội, về đội ngũ cán bộ,
công chức với nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó có 2 yếu tố quan
trọng nhất: con người và cơ chế - những điều kiện đảm bảo cho hệ thống chính trị
vững mạnh. Tiêu biểu như đề tài khoa học cấp Bộ 2007 “Xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX)” của Nguyễn Thế Vịnh; luận văn
thạc sĩ “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu đổi mới” (2003) của
Lê Thị Lý v.v.. kết quả nghiên cứu của các công trình trên có thể giúp cho luận văn
định hướng rõ yêu cầu công tác xây dựng đội ngũ cán bộ luôn gắn với trách nhiệm
của cấp ủy đảng các cấp, vai trò chủ động tham mưu và tổ chức thực hiện chủ
trương của cấp ủy của các cơ quan, tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ
thống chính trị. Cán bộ người dân tộc thiểu số là nhóm đối tượng đặc biệt quan
trọng của công tác cán bộ vùng miền núi, dân tộc.
Sách “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay” của Lô Quốc Toản (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010) đưa ra
định nghĩa khái niệm Nguồn cán bộ dân tộc thiểu số “là những người có nguồn gốc
xuất thân từ các dân tộc thiểu số, được tuyển chọn, được đào tạo, bồi dưỡng, được
rèn luyện, thử thách để bố trí, sắp xếp vào các cương vị công tác trong bộ máy của
hệ thống chính trị”. Tác giả phân biệt tiêu chuẩn nguồn cán bộ nói chung so với
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số chỉ khác ở chỗ thành phần dân tộc xuất thân (dân tộc
thiểu số không phải là dân tộc Kinh), còn các tiêu chuẩn khác thì giống nhau. Điều

này theo chúng tôi là chưa phù hợp, bởi trong thực tế điều kiện phát triển của đồng
12


bào dân tộc thiểu số vùng miền núi chưa cho phép. Khi quan niệm phát triển nguồn
cán bộ dân tộc thiểu số là “phát triển những con người ở các dân tộc thiểu số, tạo
điều kiện thuận lợi để họ trở thành cán bộ” và “phát triển về năng lực và trình độ
công tác của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số”, là tác giả đã phân biệt 2 nhóm nguồn
khác nhau: người dân tộc thiểu số chưa là cán bộ và cán bộ người dân tộc thiểu số.
Điều này đồng nhất với nhiều tác giả trong quan niệm về nguồn cán bộ, và cho thấy
phát triển nguồn nằm trong nội hàm khái niệm tạo nguồn, nhưng chỉ là một khâu
của tạo nguồn. Ở mục đánh giá về công tác phát triển nguồn, tác giả đề cập đến 3
việc cụ thể: khôi phục và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú; thực
hiện chế độ cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp; đào tạo cán bộ
nguồn quy hoạch lãnh đạo, quản lý càng thể hiện rõ quan niệm phát triển nguồn
theo tác giả thực chất chỉ là nội dung đào tạo, bồi dưỡng nguồn. Tuy vậy, xét
trên khía cạnh này, thì đây là những gợi ý quan trọng để luận văn tiếp tục triển
khai nội dung đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã người
dân tộc thiểu số.
c.

Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ, chức chức xã là

người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng
Tây Nguyên và các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên từ trước đến nay luôn hấp
dẫn, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong nghiên cứu, khám phá những
giá trị về văn hóa, những đặc trưng về xã hội, những biến động về kinh tế, chính
trị... Nhất là từ sau những biến động chính trị do các thế lực thù địch kích động
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ chống phá chính quyền, phá hoại khối đoàn kết các
dân tộc năm 2001 và 2004, hàng loạt công trình khoa học được triển khai cụ thể như:

Sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây
Nguyên” (2005) và sách “Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây
Nguyên” (2008) của Trương Minh Dục (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); sách
“Văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên” (2005) của Nguyễn Tấn Đắc (Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội); sách “Kinh tế - xã hội các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên
những năm đầu thế kỷ XXI - Thực trạng và xu hướng phát triển” (2007) của Phạm
13


Hảo chủ biên (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội); sách “Một số vấn đề về văn
hóa - xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay” (2010) của Dương Thị
Hưởng, Đỗ Đình Hãng, Đậu Tuấn Nam đồng chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội) v.v.. Điểm chung của các công trình là phản ánh được điều kiện tự nhiên, tình
hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Tây Nguyên, sự tác động của các yếu tố dân
tộc, tôn giáo, sự chống phá của các thế lực thù địch... cùng những giải pháp có tính
đồng bộ về tận dụng lợi thế, tiềm năng, về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, về phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc để
tiếp tục xây dựng Tây Nguyên ngày càng ổn định và phát triển.
Cùng với các công trình trên, tác giả Bùi Minh Đạo (Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội) trong sách “Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững
vùng Tây Nguyên” (2010) đề cập đến nhiều đặc trưng văn hóa, xã hội, con người
Tây Nguyên hình thành từ những tác động của điều kiện tự nhiên - xã hội. Trong
đó, có một yếu tố quan trọng được nhiều tác giả lưu ý, đó là hình thái tổ chức xã hội
cổ truyền “làng” (plei, plơi, buôn, bon) - đơn vị tự quản, cư trú độc lập và duy nhất,
có chung quy tắc ứng xử lệ tục. Mỗi làng là một thể chế kinh tế, văn hóa, xã hội và
một không gian sinh tồn tự nhiên khép kín. Đồng bào dân tộc thiểu số sống trong
làng, chịu sự quy định của lệ tục làng, và nhân cách con người cũng từ đó mà được
hình thành. Tuy nhiên hiện nay, làng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không
còn là thực thể đơn nhất, mà bao trùm lên nó là hệ thống thể chế chính trị của Nhà
nước. Vì vậy buôn làng trở thành “cánh tay nối dài” của chính quyền xã đến các hộ

gia đình. Đặc trưng xã hội này là điểm cần chú ý để luận văn xác định những yếu tố
tác động (cả tích cực lẫn tiêu cực) đối với mỗi con người thuộc cộng đồng các dân
tộc thiểu số Tây Nguyên.
Luận án tiến sĩ "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ
các cấp ở Tây Nguyên hiện nay" (2000) của Nguyễn Mậu Dựng đề cập đến vai trò
của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, trong đó có cán bộ dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên là việc làm thường xuyên và cấp bách, quyết định sự ổn định và phát
triển của hệ thống chính trị nơi đây.
14


Bài viết “Đặc điểm tâm lý, văn hóa các dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên
ảnh hưởng tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hiện nay” của Nguyễn
Hồng Sơn (trong Sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” (2005) của
Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng (đồng chủ biên) cho rằng đặc điểm
tâm lý - văn hóa của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên là sự đan xen giữa yếu tố
tích cực lẫn tiêu cực, tiến bộ lẫn lạc hậu: giữa thụ động và phóng khoáng; giữa tư
duy trực quan và ý tưởng thẩm mỹ bay bổng; chịu thương chịu khó nhưng ít thích
làm giàu; tôn vinh trưởng thôn, già làng hơn thích làm quan; thích tự quản hơn lãnh
đạo; thích cái cộng đồng hơn cái tôi tự do; thích nghệ thuật hơn làm kinh tế. Bên
cạnh cái bao dung, thật thà, dũng cảm, cần mẫn, biết sống chấp nhận quá khứ, trọng
người già, phụ nữ, trọng đức, giản dị... thì trong quá trình biến đổi tâm lý - văn hóa,
trong một bộ phận cán bộ và nhân dân đã xuất hiện tính tự ti dân tộc, tính “tự trị”,
“bài Kinh”, nhẹ dạ cả tin, dễ bị lôi kéo, kích động thù hằn... Đây là những tổng kết
mang tính thực tế, thực tiễn sâu sắc, cần thiết cho đề tài khi bàn về đặc điểm nguồn
cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số và những vấn đề đặt ra trong quá trình lựa
chọn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng giáo dục nguồn cán bộ, công chức là
người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Thực trạng và giải pháp tạo nguồn cán bộ cấp
xã người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được nhiều tác giả bài báo khoa học, nhiều

tham luận tại các Hội thảo của khu vực quan tâm. Đối với cán bộ cấp xã người dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung có các công trình tiêu biểu:
Trong bài viết “Thực trạng và giải pháp để xây dựng cán bộ dân tộc
thiểu số tại chỗ cấp xã ở các tỉnh Tây Nguyên” (Tạp chí Dân tộc, số 3-2009),
Nguyễn Thị Tâm đề xuất giải pháp chủ động tạo nguồn cán bộ để phục vụ cả
trước mắt và lâu dài, trong đó nhấn mạnh: Quy hoạch cán bộ cần chú ý cơ cấu
nhưng phải đảm bảo tiêu chuẩn và “mở” để có thể thay đổi theo tình hình cụ
thể. Chú trọng chất lượng phát triển đảng viên, giáo dục và thử thách quần
chúng qua phong trào thực tiễn, qua quan hệ với dân; chú ý phát hiện và loại bỏ
phần tử cơ hội. Trong đào tạo, nghiên cứu mô hình trường nội trú dân tộc cấp
15


I, cụm xã; đánh giá lại hiệu quả của chế độ cử tuyển đại học. Thành lập trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số trong Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh và các Học viện khu vực. Giải quyết những bất cập giữa đào
tạo và sử dụng, quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ.
Bài viết: “Một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây
Nguyên” của Nguyễn Văn Quý, Bộ Nội Vụ (Webside của Sở Nội vụ Đắk Lắk, 7-32011) cho thấy từ khi có Quyết định số 253/QĐ-TTg ngày 5-3-2003 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính
quyền cơ sở vùng Tây Nguyên" giai đoạn 2002-2010, hệ thống chính trị cơ sở ở Tây
Nguyên được củng cố, tăng cường về nhiều mặt; năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ
được nâng lên. Bên cạnh đó, vẫn còn một số khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao nhưng chưa ổn định; tỷ lệ hộ đói nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn
cao; trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung của cả nước; an ninh chính trị vẫn
tiềm ẩn những nhân tố bất ổn; trình độ của đội ngũ cán bô, công chức cơ sở được
nâng lên nhưng năng lực quản lý, điều hành, thuyết phục, tập hợp quần chúng còn
yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Vì vậy, trong giải
pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vững mạnh, tác giả đề cập đến giải pháp
quy hoạch tạo nguồn cán bộ và bảo đảm tỷ lệ cơ cấu cán bộ người dân tộc thiểu số

trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tương đương với tỷ lệ dân tộc thiểu số trong
dân cư. Để làm được điều đó phải: Tăng cường kinh phí hàng năm để đào tạo cán
bộ, công chức là người dân tộc, đồng thời bổ sung, hỗ trợ thêm trong việc cử tuyển
đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ. Tăng cường chỉ tiêu cử tuyển trên cơ sở
đề nghị có địa chỉ theo nhu cầu của địa phương. Ưu tiên bố trí và sử dụng hết số học
sinh, sinh viên người dân tộc sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và
trung học chuyên nghiệp về công tác lâu dài ở địa phương. Xây dựng, hoàn thiện
chế độ, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, có chính sách thu hút cán bộ, công chức
có trình độ, có năng lực hoạt động thực tiễn giảng dạy cho đội ngũ cán bộ, công
chức người dân tộc. Củng cố nâng cấp các trường dân tộc nội trú, các trung tâm
giáo dục thường xuyên.
16


Sách “Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và
giải pháp” của Nguyễn Đình Tấn và Trần Thị Bích Hằng (Nxb Chính trị quốc gia,
2010) đưa ra nhiều số liệu điều tra xã hội học đối với vùng có đông đồng bào dân
tộc thiểu số ở miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, miền Nam. Trong đó, tỷ lệ đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có nhận thức, thái độ và hành vi đối với chính
sách dân tộc là thấp nhất, chưa tích cực nhất so với vùng còn lại. Các kiến nghị của
tập thể tác giả như nâng cao tính tích cực trong nhận thức, thái độ, hành vi của đồng
bào dân tộc thiểu số ; phát huy vai trò của cộng đồng, người có uy tín; phối hợp
trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể v.v.. là gợi mở tích cực cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã trên từng địa bàn Tây Nguyên có các
công trình sau: Về Gia Lai, có bài viết “Gia Lai coi trọng đào tạo cán bộ nguồn là
người dân tộc thiểu số cho cơ sở” của Trần Ngọc Chi (Tạp chí Xây dựng Đảng điện
tử, 19 9-9-2007) phản ánh chủ trương đào tạo cán bộ nguồn cho cơ sở của Tỉnh ủy
qua việc tuyển chọn và mở các khóa dự nguồn hệ trung cấp lý luận chính trị cho học

viên là người dân tộc thiểu số. Kinh nghiệm tác giả rút ra là phải gắn đào tạo với
quy hoạch; gắn đào tạo chính trị song song với chuyên môn; đảm bảo trình độ học
vấn của học viên thông qua phát huy trách nhiệm của cấp huyện trong động viên,
khuyến khích con em các dân tộc hoàn thành phổ thông trung học...
Bài viết “Gia Lai: Tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp đại học về cơ sở công tác
- Kết quả và kinh nghiệm” của Trần Thiết (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử,
19-9- 2011) phản ánh tình hình sau 2 năm thực hiện Đề án 03 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Gia Lai về "tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp đại học bố trí về cơ sở công
tác", bước đầu cho thấy mục tiêu của công tác này (tăng cường người có trình độ về
vùng khó khăn; rèn luyện, thử thách cán bộ để đưa vào quy hoạch tạo nguồn) đang
đúng hướng, nhưng để đạt mục tiêu thì phải rút kinh nghiệm để bổ sung, điều chỉnh
một số khâu, như: trước khi bố trí sinh viên về xã cần bổ sung cho sinh viên kiến
thức về chuyên môn, quản lý nhà nước theo từng nhóm chức danh; xây dựng các
17


văn bản pháp quy về chế độ ưu tiên trong xét tuyển, chuẩn hóa chuyên môn theo
chức danh được tuyển dụng hằng năm; phân công cán bộ, đảng viên theo sát, giúp
đỡ các sinh viên tiếp cận với thực tiễn, nhanh chóng hòa nhập vào môi trường công
tác mới.
Về Lâm Đồng, có bài “Tạo nguồn cán bộ xã ở Lâm Hà” của Viết Trọng
(Lâm Đồng online, 26-12-2010) khái quát lộ trình thực hiện chính sách đào tạo cán
bộ công chức cấp xã của huyện, hướng tới hoàn thiện qui trình đào tạo từ đầu vào
cho đến đầu ra, từ việc xác định nhu cầu đào tạo, tạo môi trường làm việc, sử dụng
nguồn nhân lực một cách hợp lý, đánh giá CB, CC một cách khách quan khoa học.
Bài “7 năm thực hiện Quyết định 253/QĐ-TTg: Cán bộ cấp xã đang từng bước “trẻ
hóa” và “chuẩn hóa” của Đức Hưng (Lâm Đồng online, 11- 4-2012). Nói chung
các bài viết đều đứng trên góc độ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để phản ánh
kết quả tạo nguồn.
Về Đắk Nông, có bài “Kết quả và kinh nghiệm thực hiện công tác dân tộc

trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” của Trần Thanh Long (bdt.daknong.gov.vn ngày 1511-2012) phản ánh kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ vùng dân tộc theo phương
châm “chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc” và phong cách
“trọng dân, gần dân, hiểu dân, có trách nhiệm với dân”. Chú trọng phát huy vai trò
người có uy tín trong đồng bào để xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ngoài kiến thức lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cần có thêm kiến thức về phong tục, tập quán,
ngôn ngữ, tâm lý dân tộc. Nhà nước cần có chính sách đào tạo cán bộ dân tộc thiểu
số thông qua các trường phổ thông dân tộc nội trú của huyện và tỉnh. Ưu tiên cho cơ
sở chỉ tiêu thu nhận sinh viên dân tộc thiểu số đã qua đào tạo cao đẳng, đại học.
Về Kon Tum, có bài “Đảng bộ huyện Kon Plong đào tạo cán bộ dự nguồn
cơ sở” của Huỳnh Trung Kim (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 1-9-2006) phản ánh
một mô hình mới, một cách làm hay: các cơ quan, đơn vị của Huyện tiết kiệm chi
ngân sách thường xuyên để nhận đỡ đầu, nuôi dưỡng con em dân tộc thiểu số ở các
xã có trình độ học vấn từ lớp 8/12 trở lên và số cán bộ đương chức còn trẻ, có trình
18


độ học vấn lớp 9 trở lên, trong quy hoạch cán bộ dự nguồn của xã để đào tạo theo
hình thức vừa học văn hóa, vừa học lý luận chính trị vừa tập việc. Sau đào tạo, các
đối tượng được ưu tiên bố trí công tác, nhanh chóng góp phần đảm bảo số lượng và
chất lượng cán bộ cho cơ sở. Bài “Công tác đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ cơ
sở tỉnh Kon Tum - Thực trạng và giải pháp” (Tham luận của Sở Nội vụ Kon Tum
tại Hội thảo “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên” ngày 10-11-2009 do Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum tổ chức) đề
xuất: bên cạnh việc đẩy mạnh dạy bổ túc văn hóa tại chỗ, cần tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng với các hình thức phù hợp với điều kiện công tác của cán bộ cơ sở như: đào
tạo tại chức tại địa phương, kết hợp với dạy bổ túc văn hóa và lý luận chính trị để
rút ngắn thời gian đào tạo và giảm chi phí; đào tạo, bồi dưỡng phải gắn liền với qui
hoạch, tạo nguồn cán bộ; chú ý chọn các em tốt nghiệp phổ thông các trường dân
tộc nội trú để đưa vào qui hoạch, tạo nguồn tại chỗ, đồng thời phải thực hiện tốt

việc bố trí sử dụng cán bộ sau đào tạo; sớm khắc phục việc bố trí sử dụng không
phù hợp với chuyên môn được đào tạo.
Về Đăk Lăk, có bài “Công tác giáo dục dân tộc được nâng cao về chất
lượng” và bài “Nơi tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số” (Webside của Sở Giáo dục
Đào tạo Đăk Lăk) phản ánh thực trạng chất lượng giáo dục con em đồng bào DTTS
tại các trường Dân tộc nội trú, khẳng định một mô hình tạo nguồn hay - thông qua
hệ thống trường nội trú, các em không chỉ được chăm lo, bồi dưỡng về văn hóa, thể
chất, mà còn được trang bị những kỹ năng cần thiết để trở thành những cán bộ trong
tương lai.
Tác giả Nguyễn Phú Lập trong bài “Đăk Lăk tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng ở thôn, buôn, tổ dân phố” (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 7-8-2012, trong
đó có nội dung đẩy mạnh việc bồi dưỡng, tạo nguồn để phát triển đảng viên, đặc
biệt là ở những thôn, buôn chưa có hoặc ít đảng viên. Trong công tác xây dựng và
tạo nguồn cán bộ thôn, buôn, tổ dân phố cần tổ chức tốt việc tập huấn, bồi dưỡng kỹ
năng hoạt động; nghiên cứu đề ra những chính sách trợ cấp phù hợp; đổi mới và
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân
19


lực làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ từ xa. Đây là kết quả của những nghiên cứu
thực tế, gắn với từng địa phương cụ thể, luận văn có thể kế thừa để làm rõ tình hình,
những yêu cầu đặt ra trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các
tỉnh Tây Nguyên hiện nay. Tuy nhiên, các bài viết chú trọng phản ánh hiện tượng,
yếu tố lý luận rút ra từ thực tiễn chưa rõ, nên nhiệm vụ nghiên cứu tiếp theo của
luận văn là từ tình hình thực tế, từ kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở địa phương, tại những thời điểm nhất định mà khái quát thành lý luận
chung về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã người DTTS ở Tây Nguyên.
3.
3.1.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Đánh giá thực trạng quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột nhằm
chỉ ra các kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất
một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng và tỉnh Đắk
Lắk nói chung.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
-

Làm rõ các khái niệm chủ chốt liên quan đến vấn đề thực hiện chính

sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số.
-

Làm rõ thực trạng quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột trên các
khía cạnh như: Số lượng, chất lượng, nhu cầu, mục tiêu, xác định đối tượng, xây
dựng chương trình, lựa chọn phương pháp, xây dựng kinh phí và kết quả đào tạo,
bồi dưỡng. Qua đó, đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
thông qua kết quả đạt được qua quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn.
-


Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột
20


hiện nay.
4.
4.1.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã là người dân tộc thiểu số.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại địa bàn các xã ở thành phố Buôn Ma
Thuột (bao gồm xã Cư Êbua, Hòa Thắng, Ea Tu, Hòa Xuân, Hòa Khánh, Hòa Phú,
Ea Kao, Hòa Thuận).
Phạm vi thời gian: Để tìm hiểu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số, chúng tôi nghiên cứu, cập nhật
các số liệu từ năm 2010 đến năm 2017.
5.
5.1.

Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, kế thừa tài liệu và thư tịch sẵn có. Tác
giả thu thập tài liệu dựa trên những tài liệu đã được xuất bản chính thức, những đề
tài nghiên cứu có liên quan. Số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết của Thành ủy,
UBND thành phố Buôn Ma Thuột về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố.
- Phương pháp nghiên cứu định tính: Tác giả sử dụng phương pháp định tính,

xây dựng bảng hỏi phỏng vấn sâu kết hợp với phương pháp quan sát để thu thập
thông tin từ đối tượng nghiên cứu. Tác gỉa tiến hành phỏng vấn sâu đối với 25 cán
bộ và 19 công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột.
21


- Phương pháp chuyên gia hỏi ý kiến các nhà quản lý, các chuyên gia.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận


6.1.

Luận văn đã hệ thống, cung cấp các cứ liệu, góp phần bổ sung vào khoảng
trống nghiên cứu về quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã, làm phong phú thêm những nghiên cứu thực nghiệm về chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng mang lại những kiến thức mới về quá
trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số trong thời kỳ đổi mới.
Ý nghĩa thực tiễn

6.2.

Thông qua việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột, luận văn đã cho thấy
vai trò quan trọng của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nhằm cung cấp
kiến thức để tăng cường năng lực và hiệu quả công tác. Qua đó, đánh giá được
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu
số trên địa bàn. Những kết quả đó góp phần giúp cho các nhà hoạch định chính sách
địa phương tham khảo nhằm đưa ra các giải pháp thiết thực và phù hợp trong quá
trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, đặc biệt là
cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số ở địa phương.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận chính trị về chính sách đào tạo cán bộ, công chức

cấp xã
Chƣơng 2: Thực trạng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã là người dân tộc thiểu số ở thành phố Buôn Ma Thuột
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp
22


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1.
1.1.1.

Cơ sở lý luận
Khái niệm chính trị, hệ thống chính trị

Khái niệm chính trị:
Thuật ngữ chính trị có nguồn gốc từ một danh từ tiếng Hy Lạp là Polis, một
trong những khái niệm cho đến nay vẫn chưa được xác định thống nhất, thậm chí
còn gây tranh luận gay gắt. Từ khi xuất hiện cho đến nay, bản thân đời sống chính
trị cũng đã tiến hóa cùng với sự phát triển của đời sống xã hội.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về chính trị, khái quát các khái niệm chúng
ta có thể định nghĩa chính trị như sau: Chính trị là hoạt động của các nhóm xã hội
và của cá nhân nhằm nhận thức và thể hiện lợi ích tập thể mâu thuẫn của mình,
nhằm hoạch định những quyết định bắt buộc đối với toàn thể xã hội, được thực hiện
nhờ quyền lực nhà nước [47, tr.22].
Chính trị không phải luôn tồn tại. Sự xuất hiện của nó phản ánh quá trình
phức tạp hóa đời sống xã hội được chế định bởi sự phát triển thường xuyên các
năng lực của con người và phân công lao động xã hội [47, tr.23]. Phạm vi và nội
dung của chính trị đã biến đổi về căn bản trong quá trình tiến hóa của xã hội loài

người. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử, trình độ phát triển kinh tế và văn hóa
của một xã hội cụ thể, người ta quan tâm tới chức năng xã hội của chính trị, hoặc là
tới những phương tiện và những phương thức thực hiện các chức năng của chính trị
[47, tr.26]. vai trò và ý nghĩa của chính trị như một thiết chế xã hội được quy định
bởi những chức năng mà nó hoàn thành trong xã hội. Số lượng chức năng có thể
khác nhau. Các chức năng của chính trị trong một xã hội cụ thể càng nhiều hơn bao
nhiêu thì xã hội và bản thân lĩnh vực chính trị chi phối các lĩnh vực khác càng kém
phát triển hơn bấy nhiêu. [47, tr.32].
Quyền lực, trong ý nghĩa chung nhất, là năng lực và khả năng thực hiện ý chí
của mình tác động đến hành động, hành vi của những người khác nhờ phương tiện
23


nào đó, như uy tín, quyền hành, sự cưỡng bức (kinh tế, chính trị, nhà nước, gia
đình)... Quyền lực là quan hệ giữa những con người (nhóm người, tập đoàn người,
cộng đồng người); đó là quan hệ đặc biệt - quan hệ ý chí giữa một bên nhận thức
được, ý thức được lợi ích của mình và quyết tâm thực hiện lợi ích đó, thể hiện thành
ý chí; còn bên kia thừa nhận, chấp hành ý chí đó. "Sự thừa nhận" là yếu tố có ý
nghĩa quan trọng trong khái niệm quyền lực mà thiếu nó chỉ có thể là quyền uy.
Theo Ph.Ăngghen thì quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề. Quyền lực là sự tác
động của chủ thể này đối với chủ thể khác, buộc chủ thể đó phải hành động theo
kiểu cần thiết đối với nó.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một hay liên minh giai cấp, của các lực
lượng xã hội để thực hiện sự thống trị hay lợi ích của mình cơ bản bằng nhà nước,
thông qua nhà nước; là năng lực tổ chức và thực thi các giải pháp phân bố
giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình trong tương quan nhất định với lợi ích các
giai cấp và các lực lượng xã hội khác. Bản chất của quyền lực chính trị là quan hệ
giữa các giai cấp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Ở nước ta hiện nay quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động: Quyền
lực chính trị của nhân dân lao động là ý chí chung của quần chúng nhân dân lao

động, thể hiện ở khả năng thực hiện lợi ích căn bản của những người lao động được
thực hiện bằng quyền lực Nhà nước, bằng hoạt động, bằng quyền làm chủ trực tiếp
hoặc gián tiếp của quần chúng thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cấu trúc thực hiện quyền lực chính trị ở nước ta trên hai mặt: nội dung và
thực thể.
Về mặt nội dung: cơ chế tạo thành từ ba khâu: Cương lĩnh, đường lối... thể
hiện mục tiêu chính trị của giai cấp cầm quyền; Hệ thống Hiến pháp, pháp luật... với
tư cách là sự thể chế hóa mục tiêu chính trị thành chế tài mang tính pháp lý; Hệ
thống tổ chức thực hiện các quy định pháp lý, làm cho mục tiêu chính trị được hiện
hóa trong đời sống xã hội.
Về mặt thực thể: có ba loại tổ chức tương ứng đó là Chính Đảng của giai cấp
cầm quyền; Cơ quan lập pháp do dân bầu cử ủy quyền; Cơ quan hành pháp, tư pháp
24


và các tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống chính trị; Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân lao động làm chủ
Khái niệm hệ thống chính trị:
Khái niệm hệ thống chính trị có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng về cơ
bản có thể tiếp cận theo ba cách:
Tiếp cận từ góc độ tổ chức và chức năng: Hệ thống chính trị là một hệ thống
các cơ quan, tổ chức thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã hội. Từ
góc độ này, hệ thống chính trị được hiểu là hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
hợp pháp, các đảng chính trị hợp pháp và nhà nước của giai cấp cầm quyền cùng
với các mối quan hệ qua lại giữa các thiết chế đó, tác động vào các quá trình kinh tế
- xã hội nhằm bảo vệ, duy trì, phát triển xã hội, đảm bảo quyền lực và lợi ích
của giai cấp cầm quyền [46].
Tiếp cận từ góc độ bản chất và tính chỉnh thể: Hệ thống chính trị là hệ thống
thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, không chỉ gồm các khâu, các
bộ phận hợp thành về mặt tổ chức mà còn bao gồm cả mục tiêu và điều kiện bảo

đảm cho các khâu, các bộ phận của hệ thống vận hành được. Trong xã hội hiện đại,
đứng trên quan điểm chủ quyền nhân dân, khi nói đến hệ thống chính trị là nói đến
mặt nội dung của nền dân chủ. Do vậy, từ góc độ này, HTCT được hiểu là hệ thống
đảm bảo thực hành dân chủ [46].
Tiếp cận từ góc độ cơ chế thực hiện: HTCT là tổng thể các cơ chế đảm bảo
cho sự vận hành của quyền lực chính trị ( cơ chế quyết định đường lối chính trị; cơ
chế thực hiện đường lối chính trị; cơ chế tham gia, giám sát việc thực hiện đường
lối chính trị) [46].
Một cách cụ thể hơn, HTCT là hệ thống các thiết chế thực hiện các hoạt
động mang tính chính trị trong xã hội gồm các đảng phái chính trị, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập hợp pháp, có mối liên hệ trực
tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị, có mối quan hệ ràng buộc, tác động lẫn
nhau xoay quanh việc tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị [46].

25


×