Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Đánh giá thực trạng môi trường và đề xuất giải pháp thực hiện tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới xã thông nguyên, huyện hoàng su phì, tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.31 MB, 118 trang )

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG

NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG HỌC VIÊN:
Lộc Trần Vượng

Đề tài:
“ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ ĐỀ SUẤT GIẢI PHÁP THỰC HIỆN THIÊU CHÍ
MÔI TRƯỜNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI XÃ THÔNG NGUYÊN, HUYỆN HOÀNG
SU PHÌ, TỈNH HÀ GIANG

Thái Nguyên, 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


2

MỞ ĐẦU

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n



3
1. Đặt vấn đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


4
Với khoảng 67% dân số cả nước, nông thôn Việt Nam đang trên con đường đổi
mới và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Chương
trình mục têu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai đã đem lại những
thay đổi đáng kể về đời sống, hạ tầng kỹ thuật cũng như cảnh quan môi trường nhiều
vùng nông thôn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển KT-XH mạnh mẽ là những nguy cơ
không nhỏ về ô nhiễm môi trường.[3].
Môi trường nông thôn đang chịu những sức ép ngay từ chính các hoạt động sản
xuất và sinh hoạt của nông thôn, đồng thời còn chịu tác động từ hoạt động của các KCN,
CCN và khu vực đô thị lân cận. Đó chính là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản, chế biến nông sản thực phẩm, phát
triển làng nghề và sản xuất công nghiệp. Ở một số vùng nông thôn, môi trường nước
hoặc môi trường không khí đã bị ô nhiễm cục bộ, đặc biệt việc quản lý CTR nông thôn
chưa thực sự được coi trọng, đã và đang là vấn đề bức xúc.[3].
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Hội nghị lần
thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 5/8/2008 về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Nghị quyết đã xác định
mục têu xây dựng nông thôn mới đến năm 2020. Ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính
phủ đã có Quyết định số
491/QĐ-TTg ban hành bộ têu chí quốc gia (bao gồm 19 têu chí) về nông thôn mới.

Trong đó têu chí số 17 là tiêu chí môi trường. Mục tiêu chung của têu chí này là nâng
cao chất lượng môi trường sống ở khu vực nông thôn. Lâu nay, trên các phương tiện
thông tin đại chúng hầu như chỉ phản ánh về ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị, khu
công nghiệp…Song tình trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn lại đang ở mức báo
động. Ðây chính là nguyên nhân dẫn đến người dân các vùng nông thôn thường xuyên
phải đối mặt với dịch bệnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


5
Hoàng Su Phì là một huyện biên giới phía Tây của tỉnh Hà Giang, phía bắc giáp
Trung Quốc, phía Nam giáp huyện Bắc Quang và huyện Quang Bình, phía Tây giáp
huyện Xín Mần, phía Đông giáp huyện Vị Xuyên. Với đặc điểm là một huyện nghèo
vùng cao trong cả nước cùng với sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong
những năm vừa qua kinh tế đã có nhiều sự phát triển vượt bậc nâng cao đời sống nhân
dân kéo theo đó là vấn đề ô nhiễm môi trường đã bắt đầu xuất hiện đặc biệt là khu
trung tâm thị trấn của huyện và trung tâm các xã, công tác bảo vệ môi trường các khu vực
rừng đầu nguồn và khu vực biên giới có nhiều phức tạp. Toàn huyện có 25 xã, thị trấn
đang thực hiện xây dựng nông thôn mới trong đó xã Thông Nguyên được chọn là một
trong những xã thí điểm ưu tên thực hiện các tiêu chí của nông thôn mới của huyện
Hoàng Su Phì. Tính đến 31/12/2014 xã đã đạt được 12/19 têu chí còn lại 7 tiêu chí chưa
hoàn thành trong đó có tiêu chí môi trường.
Xuất phát từ thực tễn trên, Để hiểu rõ hơn về thực trạng môi trường nông thôn
tại xã, qua đó đưa ra giải pháp hoàn thành tiêu chí môi trường cùng với việc thực hiện xây
dựng nông thôn mới tại địa phương, tôi tiến hành thực hiện đề tài:“Đánh giá thực trạng
môi trường và đề xuất giải pháp thực hiện têu chí môi trường trong xây dựng

nông thôn mới xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang”
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng môi trường và đề xuất các giải pháp, quy hoạch nhằm thực
hiện và đạt tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới tại xã Thông Nguyên,
huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang”.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá hiện trạng môi trường và các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường trên
địa bàn xã Thông Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


6
- Tác động của môi trường đến đời sống, kinh tế và xã hội của người dân tại xã
Thông Nguyên.
- Đưa ra giải pháp cụ thể, phù hợp với địa phương để thực hiện đạt các chỉ tiêu về
tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới xã Thông Nguyên.
3. Ý nghĩa
3.1. Ý nghĩa khoa học
+ Đây là cơ sở khoa học có thể áp dụng trong thực hiện kế hoạch xây
dựng nông thôn mới.
+ Nâng cao kiến thức, kĩ năng và rút ra những kinh nghiệm thực thế.
+ Vận dụng và phát huy được các kiến thức đã học tập và nghiên cứu.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Xác định thực trạng môi trường nông thôn tại xã Thông Nguyên huyện
Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang

+ Làm căn cứ để cơ quan chức năng tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục
nhận thức của người dân về môi trường.
+ Cung cấp cơ sở khoa học phục vụ công tác xây dựng kế hoạch thực hiện tiêu chí
môi trường trong công cuộc xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn xã Thông Nguyên và nhân rộng ra các xã còn lại trong Huyện.

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học
1.1.1 Các khái niệm liên quan
Môi trƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


- Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối
với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. (Luật bảo vệ môi trường 2014).[13].
Ô nhiễm môi trƣờng
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến
con người và sinh vật. [13].
- Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của
thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.[13].
Hoạt động bảo vệ môi trƣờng
- Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác
động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải
thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ

môi trường trong lành.[13].
Nông thôn
Vùng nông thôn được quan niệm khác nhau ở mỗi nước vì điều kiện kinh tế -xã
hội, điều kiện tự nhiên ở mỗi nước khác nhau. Cho đến nay chưa có một khái niệm nào
được chấp nhận một cách rộng rãi về nông thôn. Để có được định nghĩa nông thôn,
người ta so sánh nông thôn và thành thị. Trong khi so sánh có ý kiến dùng chỉ tiêu mật
độ dân số và số lượng dân cư.
Theo ý kiến phân tích của các nhà kinh tế và xã hội học có thể đưa ra khái niệm
tổng quát về vùng nông thôn như sau: “Nông thôn là vùng khác với thành thị, ở đó một
cộng đồng chủ yếu là nông dân sống và làm việc, có mật độ dân cư thấp, có kết cấu hạ
tầng kém phát triển hơn, có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất
hàng hóa kém hơn”.[2].
Phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn là một phạm trù rộng được nhận thức với rất nhiều
quan điểm khác nhau.


Ngân hàng Thế giới (1975) đã đưa ra khái niệm: Phát triển nông thôn là một chiến
lược vạch ra nhằm cải thiện đời sống kinh tế - xã hội của một bộ phận dân cư tụt hậu,
đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Nó đòi hỏi phải mở rộng các lợi ích của sự phát triển
đến với những người nghèo nhất trong sốnhững người đang tiến kế sinh nhai ở các vùng
nông thôn. [7].
Khái niệm phát triển nông thôn mang tính toàn diện, đảm bảo tnh bền vững về
môi trường. Với điều kiện của Việt Nam, được tổng kết từ các chiến lược kinh tế xã hội
của Chính phủ: “Phát triển nông thôn là một quá trình cải thiện có chủ ý một cách bền
vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác”
[7].
Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
Là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh

quốc phòng, mục tiêu chung của chương trình là: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,
gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Ðảng được tăng
cường.
Theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính
phủ, xây dựng nông thôn mới nhằm thực hiện 19 tiêu chí bao gồm: 1: Quy hoạch, 2: Giao
thông, 3: Thủy lợi, 4: Điện, 5: Trường học, 6: Cơ sở vật chất văn hóa, 7: Chợ, 8: Bưu điện,
9: Nhà ở dân cư, 10: Thu nhập, 11: Tỷ lệ hộ nghèo, 12: Cơ cấu lao động, 13: Hình thức
tổ chức sản xuất, 14: Giáo dục, 15: Y tế, 16: Văn hóa, 17: Môi trường, 18: Hệ thống tổ
chức chính trị xã hội vững mạnh, 19: An ninh, trật tự xã hội. 19 tiêu chí này được chia
thành 05 nhóm: Nhóm 1: Quy hoạch, nhóm 2: Hạ tầng kinh tế xã hội, nhóm


3: Kinh tế và tổ chức sản xuất, nhóm 4: Văn hóa - xã hội - môi trường, nhóm
5: Hệ thống chính trị.[16].
Tiêu chí Môi trƣờng (tiêu chí số 17)
Nội dung: Tiếp tục thực hiện chương trình mục têu quốc gia về nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn. Xây dựng các công trình bảo vệ môi trường nông thôn trên
địa bàn xã, thôn theo quy hoạch gồm: xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống têu thoát
nước trong thôn, xóm; xây dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải ở các xã; chỉnh trang,
cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư, phát triển
cây xanh ở các công trình công cộng .
Tiêu chí môi trường là tiêu chí số 17 thuộc nhóm 4 trong bộ têu chí xây dựng
nông thôn mới được chia thành 5 chỉ tiêu cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Tiêu chí môi trƣờng theo bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn
mới
TT


Tên tiêu chí

17 Môi trƣờng

Chỉ tiêu

TDMN phía

chung

Bắc

17.1. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước
sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn
Quốc gia

85%

70%

17.2. Các cơ sở SX-KD đạt tiêu
chuẩn về môi trường

Đạt

Đạt

17.3. Không có các hoạt động suy
giảm môi trường và có các hoạt động
phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp


Đạt

Đạt

17.4. Nghĩa trang được xây dựng theo
quy hoạch

Đạt

Đạt

17.5. Chất thải, nước thải được thu
gom và xử lý theo quy định

Đạt

Đạt

Nội dung tiêu chí

(Nguồn: Bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng nông thôn mới kem theo quyết định
số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ)[16]


- Mô hình DPSIR
* Khái niệm về mô hình DPSIR: Do tổ chức Môi trường châu Âu
(EEA) xây dựng vào năm 1999, được viết tắt của 5 từ tếng Anh:
- Driving Forces (D), có nghĩa là lực. Lực điều khiển (Dự án EIR dịch là động lực),
lực điều khiển có tình khái quát nào đang tác động lên môi trường của địa bàn đang

được xem xét, ví dụ: Sự gia tăng dân số, công nghiệp hoá, đô thị thị hoá.
- Pressure (P), có nghĩa là áp lực. Áp lực lên nhân tố môi trường. Ví dụ: Xả thải khí,
nước đã bị ô nhiễm, chất thải rắn, chất thải độc hại vào môi trường . . .
- State (S), có nghĩa là tình trạng. Tình trạng môi trường tại một thời điểm hoặc
thời gian nhất định. Ví dụ : tnh trạng không khí, nước, đất, tài nguyên khoáng sản, đa
dạng sinh học . . .
- Impact (I), có nghĩa là tác động. Tác động tiêu cực hoặc tích cực của tình trạng đó
đối với con người cũng như điều kiện sinh sống, hoạt động sản xuất...của con người.
- Response (R), có nghĩa là đáp ứng. Con người có những hoạt động gì để đáp ứng
nhằm khắc phục các tác động tiêu cực, phát huy các tác động tích cực nêu trên.
Mô hình DPSIR nói lên rằng để hiểu tình trạng, môi trường tại một địa bàn, có thể
là trên toàn cầu, tại một quốc gia, một tỉnh hay một địa phương ta phải biết.
* Theo Thông tư Số 08/2010/TT-BTNMT ngày 18 tháng 03 năm 2010 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường được định nghĩa như sau: Mô hình DPSIR là mô hình mô tả mối
quan hệ tương hỗ giữa Động lực - D (phát triển kinh tế - xã hội, nguyên nhân sâu xa của
các biến đổi môi trường) - Áp lực – P (các nguồn thải trực tiếp gây ô nhiễm và suy thoái
môi trường) - Hiện trạng - S (hiện trạng chất lượng môi trường) - Tác động - I (tác động
của ô nhiễm môi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


trường đối với sức khoẻ cộng đồng, hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và môi
trường sinh thái) - Đáp ứng - R (các giải pháp bảo vệ môi trường). [5].
1.1.2. Cơ sở pháp lý
- Căn cứ Luât Bao vê môi trương Viêt Nam năm 2014 được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 23/6/2014 và có

hiệu lực từ 01/1/2015;
- Căn cứ Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ về việc quy
định chi tiết một số điều của luật bảo vệ môi trường;
- Căn cứ Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định về
quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi
trường và kế hoạch bảo vệ môi trường;
- Căn cứ Thông tư Số 26/2015/TT-BTNMT ngày 28 tháng 5 năm 2015 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định đề án bảo vệ môi trường chi tiết đề án bảo vệ môi
trường đơn giản;
- Thông tư số 55/2014/TT-BNNPTNT ngày 31/12/2014 hướng dẫn triển khai
một số hoạt động bảo vệ môi trường trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010-2020;
- Nghị định 38/2015/ NĐ - CP ngày 24/4/2015 về quản lí chất thải và phế liệu.
- Căn cứ Thông tư số 09/2010/TT-BXD ngày 04/8/2010 của Bộ Xây dựng về quy
định việc lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng xã nông thôn
mới;
- Căn cứ Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới;
- Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT ngày 04/10/2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


- Căn cứ Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20102020;
- Căn cứ quyết định số 366/QĐ-TTg, ngày 31/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt Chương trương trình mục têu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường
nông thôn giai đoạn 2012-2015;
- Quyết định số: 693 /QĐ-UBND ngày 16/4/2013 của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
tỉnh Hà Giang về việc ban hành bộ tiêu chí xã đạt chuẩn Nông thôn mới của tỉnh Hà Giang.
- Nghị quyết số 08-NQ/ĐU, ngày 4/4/2014 của Ban chấp hành Đang ủy
Thông Nguyên về xây dựng nông thôn mới năm 2014.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Môi trƣờng Việt Nam
Theo đánh giá mới đây của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, với 59 điểm trong
bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường, Việt Nam đứng ở vị trí 85/163
các nước được xếp hạng. Các nước khác trong khu vực như Philippines đạt 66 điểm, Thái
Lan 62 điểm, Lào 60 điểm, Trung Quốc 49 điểm, Indonesia 45 điểm,... Còn theo kết quả
nghiên cứu khác vừa qua tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, Việt Nam nằm trong số 10
quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe.
Mới đây, hai trung tâm nghiên cứu môi trường thuộc Đại học Yale và Columbia
của Mỹ thực hiện báo cáo thường niên khảo sát ở 132 quốc gia. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: Về ảnh hưởng của chất lượng không khí, Việt Nam đứng thứ 123/132 quốc gia khảo
sát; về ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe đứng vị trí 77; về chất lượng nước Việt
Nam được xếp hạng 80. Tính theo chỉ số chung EPI, Việt Nam xếp thứ 79. Đó là
những đánh giá chung, còn nếu xem xét cụ thể trên từng khía cạnh thì sẽ càng thấy rõ
hơn bức tranh chung của môi trường Việt Nam hiện nay.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


Rừng tiếp tục bị thu hẹp
Trước năm 1945, nước ta có 14 triệu ha rừng, chiếm hơn 42% diện tch

tự nhiên của cả nước, năm 1975 diện tch rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm
29%), đến nay chỉ còn khoảng 6,5 triệu ha (tương đương 19,7%). Độ che phủ của rừng
nước ta đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng rừng ở các vùng còn rừng bị hạ xuống
mức quá thấp. Trên thực tế chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên sinh. Số liệu của Tổng cục
Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy đến hết năm 2012 có hơn
20.000 ha rừng tự nhiên bị phá để sử dụng vào nhiều mục đích, nhiều nhất là để làm
thủy điện, nhưng chỉ mới trồng bù được hơn 700 ha.
Đa dạng sinh học bị ảnh hƣởng nghiêm trọng
Thế giới thừa nhận Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học
vào nhóm cao nhất thế giới. Với các điều tra đã công bố, Việt Nam có 21.000 loài động
vật, 16.000 loài thực vật, bao gồm nhiều loài đặc hữu, quý hiếm. Tổ chức vi sinh vật
học châu Á thừa nhận Việt Nam có không ít loài vi sinh vật mới đối với thế giới.
Thế nhưng, trong 4 thập kỷ qua, theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim bị
tuyệt chủng và 120 loài thú bị diệt vong. Và, mặc dù có vẻ nghịch lý nhưng có một thực tế
là các trang trại gây nuôi động vật hoang dã như nuôi những loài rắn, rùa, cá sấu, khỉ và
các loài quý hiếm khác vì mục đích thương mại ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á lại
không hề làm giảm bớt tình trạng săn bắt động vật hoang dã trong tự nhiên, mà thậm
chí còn làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn bởi những trang trại này đã liên quan tới các
hoạt động buôn bán trái phép động vật hoang dã.
Hơn 100 loài sinh vật ngoại lai đang hiện diện tại nước ta cũng là mối nguy lớn
cho môi trường sinh thái, như: ốc bươu vàng, cây mai dương, bọ cánh cứng hại dừa,
đặc biệt là việc nhập khẩu 40 tấn rùa tai đỏ - một loài đã được quốc tế cảnh báo là một
trong những loài xâm hại nguy hiểm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n



Ô nhiễm sông ngòi
Với những dòng sông ở các thành phố lớn như Hà Nội hay thành phố Hồ Chí
Minh, tnh trạng bị ô nhiễm nặng nề là điều dễ dàng nhận thấy qua thực tế, cũng như
qua sự phản ánh trên các phương tiện thông tn đại chúng. Tuy nhiên, sông ở nhiều vùng
nông thôn cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề do rác thải sinh hoạt,
rác thải làng nghề, rác thải nông nghiệp và rác thải từ các khu công nghiệp vẫn đang từng
ngày, từng giờ đổ xuống.
Các dòng sông đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề nhất là: sông
Cầu, sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai và hệ thống sông Tiền và sông Hậu ở Tây Nam Bộ,
đồng bằng sông Cửu Long. Những con sông này đã trở nên độc hại, làm hủy hoại nguồn
thủy sản và ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống, sức khoẻ của cộng đồng.
Bãi rác công nghệ và chất thải
Hiện các doanh nghiệp ở Việt Nam là chủ sở hữu của hơn một nghìn con tàu
biển trọng tải lớn, cũ nát. Hầu hết các cảng biển trên thế giới đều không cho phép loại tàu
này vào, vì nó quá cũ gây ô nhiễm môi trường lại không bảo đảm an toàn hàng hải. Thế
nhưng, hơn một nghìn con tàu cũ nát đó vẫn đang được neo vật vờ ở các tuyến sông, cửa
biển để chờ được “hóa kiếp” thành phế liệu mà việc phá dỡ loại tàu biển cũ này sẽ thải ra
rác thải nguy hại làm ô nhiễm môi trường sống.
Nhiều dự án luyện, cán thép lớn đã, đang và sẽ xuất hiện, hứa hẹn đưa Việt Nam
trở thành nước xuất khẩu thép lớn, song đồng thời cũng có nguy cơ biến Việt Nam thành
nơi tập trung “rác” công nghệ và chất thải. Bài học “xương máu” này đã từng xảy ra với
ngành sản xuất xi măng, song vẫn có khả năng lặp lại nếu những dây chuyền luyện gang,
thép bị loại bỏ ở Trung Quốc được đưa về lắp đặt ở Việt Nam.
Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n



Báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, nguồn chất
thải vào môi trường từ trồng trọt và chăn nuôi đang có xu hướng gia tăng, trong khi việc
kiểm soát chưa đạt hiệu quả cao. Trong đó, lo ngại nhất là chất thải từ chăn nuôi.
Hiện cả nước có 16.700 trang trại chăn nuôi, tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông
Hồng (45%) và Đông Nam Bộ (13%), với tổng đàn gia súc 37,8 triệu con và trên 214 triệu
con gia cầm. Theo tính toán của Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn), lượng phân thải của bò khoảng 10 - 15 kg/con/ngày, trâu là
15 - 20 kg/con/ngày, lợn là 2,5 - 3,5 kg/con/ngày và gia cầm là 90 gr/con/ngày.
Như vậy, tính ra tổng khối lượng chất thải trong chăn nuôi của nước ta hiện khoảng hơn
73 triệu tấn/năm.
Nuôi trồng thủy sản cũng đang gặp phải vấn đề tương tự. Việc đẩy mạnh các
biện pháp thâm canh, tăng năng suất tại các vùng nuôi tôm tập trung, trong đó chủ
yếu là tôm sú đã làm gia tăng ô nhiễm nguồn nước. Cùng với đó, tình trạng sử dụng phân
bón và thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt một cách tràn lan, không có kiểm soát đã
gây ô nhiễm môi trường đất, nước. Hiện nay, lượng thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh
mục được phép sử dụng, quá hạn sử dụng còn tồn đọng cần tiêu hủy là hơn 700 kg
(dạng rắn) và hơn
3.400 lít (dạng lỏng).
Ô nhiễm ở các làng nghề
Một khảo sát mới đây của Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường (Đại học Bách
khoa Hà Nội) và Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, 100% mẫu nước thải ở các làng nghề
đều cho thông số ô nhiễm vượt têu chuẩn cho phép. Riêng Hà Nội, khảo sát tại 40 xã cho
kết quả khoảng 60% số xã bị ô nhiễm nặng từ các hoạt động sản xuất.
Ở các làng tái chế kim loại, khí độc không qua xử lý đã thải trực tiếp vào không
khí như ở làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên), nồng độ chì vượt quá 2.600 lần
tiêu chuẩn cho phép. Nghề thuộc da, làm miến dong ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN


n


Hà Tây cũng thường xuyên thải ra các chất như bột, da, mỡ làm cho nước nhanh bị hôi
thối, ô nhiễm nhiều dòng sông chảy qua làng nghề.
Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động gần
đây cho biết, trong các làng nghề, những bệnh mắc nhiều nhất là bệnh liên quan đến hô
hấp như viêm họng chiếm 30,56%, viêm phế quản 25% hay đau dây thần kinh chiếm
9,72%. Tại làng nghề tái chế chì Đông Mai, tỷ lệ người dân mắc bệnh về thần kinh chiếm
khoảng 71%, bệnh về đường hô hấp chiếm khoảng 65,6% và bị chứng hồng cầu giảm
chiếm 19,4%. Còn tại làng nghề sản xuất rượu Vân Hà (Bắc Giang) tỷ lệ người mắc
bệnh ngoài da là
68,5% và các bệnh về đường ruột là 58,8%.
Khai thác khoáng sản
Hậu quả của ô nhiễm môi trường từ những hoạt động khai thác khoáng sản đã
quá rõ ràng. Qua điều tra, cứ 4.000 người dân Quảng Ninh có 2.500 người mắc bệnh,
chủ yếu là mắc bệnh bụi phổi, hen phế quản, tai mũi họng (80%). Kết quả quan trắc của
các cơ quan chuyên môn cho thấy nồng độ bụi ở khu vực Cẩm Phả vượt từ 3 - 4 lần tiêu
chuẩn cho phép, gần 0,3 mg/m3 trong
24 giờ (gồm bụi lơ lửng, bụi Pb, Hg, SiO2, khí thải CO, CO2, NO2). Mỏ Đèo Nai phải xử lý
lượng đổ thải chất cao thành núi trong mấy chục năm qua. Mỏ Cọc Sáu với biển nước thải
sâu 200m chứa 5 triệu m3có nồng độ a-xít cao và độ PH 4 - 4,5mgđl/l sẽ phải tm công
nghệ phù hợp để xử lý.
Trong ba năm, hoạt động khai thác sắt, ti-tan khiến các khu vực, rừng ven biển
từ Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Thuận, Bình Thuận,… bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng mất đi
và dân làng biển đang phải đối mặt bão, lũ, gió cát.
Ô nhiễm không khí
Việt Nam cũng đang bị coi là nước có ô nhiễm không khí cao tới mức báo động.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven

đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi PM10 (tức bụi có kích
thước bé hơn 10μ) tăng 1,07 lần. Kênh rạch ở khu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


vực nội thành bị ô nhiễm hữu cơ và vi sinh ở mức độ cao. Phần lớn nước thải sinh hoạt
chỉ mới được xử lý sơ bộ qua bể tự hoại gia đình. Nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất chưa
có hệ thống xử lý nước thải, hoặc nếu có trang bị thì không vận hành thường xuyên.
1.2.2. Môi trƣờng nông thôn ở Việt Nam
Kết quả điều tra toàn quốc về vệ sinh môi trường (VSMT) nông thôn do Bộ y tế
và tổ chức UNICEF thực hiện được công bố ngày 26/03/2008 cho thấy VSMT và vệ sinh cá
nhân còn quá kém chỉ có 18% tổng số hộ gia đình,
11,7% trường học, 36,6 trạm y tế xã 21% UBND xã và 2,6% khu chợ tuyến xã có nhà vệ
sinh theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế (Quyết định 08/2005/QĐ- BYT); Tỷ lệ người dân
nông thôn được sử dụng nước sạch còn rất thấp 7,8% khu chợ nông thôn; 11,7% dân
cư nông thôn; 14,2% trạm y tế xã; 16,1% UBND xã; 26,4% trường học có tếp cận sử
dụng nước máy; Ngoài ra, kiến thức của người dân về vệ sinh cá nhân và VSMT còn rất
hạn chế, thái độ của người dân còn rất bàng quang về vấn đề này.[14].
Vấn đề nước sạch và môi trường:
Vấn đề phải kể đến về hiện tượng môi trường sống của người dân ở các vùng nông
thôn Việt Nam đang bị tàn phá nghiêm trọng là nước sạch và VSMT nông thôn. Nếu như
chúng ta quan niệm nước sạch chỉ đơn giả là nước mưa, nước giếng khoan qua xử lý
bằng bể lọc đơn giản chứ không phải nước sạch được xử lý ở các thành phố lớn thì tỷ lệ
người dân nông thôn nhất là khu vực miền núi còn rất thấp. Chúng ta có thể thấy rõ điều
này thông qua bảng số liệu sau.
Bảng 1.2: Tỷ lệ ngƣời dân nông thôn đƣợc cấp nƣớc sạch ở các vùng

STT

Tỷ lệ ngƣời dân nông thôn
đƣợc cấp nƣớc sạch (%)

Vùng

1

Vùng núi phía Bắc

15

2

Trung du Bắc Bộ & Tây Nguyên

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


3

Bắc Trung Bộ & Duyên Hải miền Trung

4


Đông Nam Bộ

21

5

Đồng bằng sông Hồng

33

6

Đồng bằng sông Cửu Long

39

36 – 36

(Nguồn: Lê Văn Khoa, Hoàng Xuân Cơ (2004), Chuyên đề Nông thôn Việt
Nam, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội.)[6]
Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy rõ, những người dân ở nông thôn Việt Nam
đang phải sinh hoạt với những nguồn nước như thế nào. Ở vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long, nơi có tỷ lệ cao nhất cũng chỉ 39% dân số được sử dụng nước sạch. Còn vùng thấp
nhất là vùng núi phía Bắc, chỉ có 15% dân số được cấp nước sạch.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khoẻ, là nguyên
nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán…Các bệnh này gây suy dinh
dưỡng, thiếu sắt, thiếu máu, kém phát triển, gây tử vong nhất là trẻ em. Có 88%
trường hợp tiêu chảy là do thiếu nước sạch, VSMT kém. Có thể thấy, nguyên nhân gây
tình trạng ô nhiễm môi trường và nguồn nước ở nông thôn do các nguyên nhân cơ bản

sau:
+ Đầu tên phải kể đến tnh trạng sử dụng hoá chất trong nông nghiệp như phân
hoá học, thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan và không có kiểm soát.
+ Ngoài ra miền Bắc Việt Nam còn tồn tại tập tục sử dụng phân người, phân
chuồng tươi vào canh tác. Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), phân tươi được coi là
thức ăn cho cá, gây ô nhiễm môi trường đất, nước và ảnh hưởng sức khoẻ con người.
+ Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) gồm: Thuốc trừ sâu; thuốc trừ nấm; thuốc diệt
chuột; thuốc trừ cỏ. Các loại này có đặc điểm là rất độc với mọi sinh vật; tồn dư lâu
dài trong môi trường đất, nước gây ô nhiễm; Tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa
là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất và môi trường
nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


Theo Phạm Ngọc Quế (2003) hiện tại số hộ ở nước ta chăn nuôi gia súc, gia
cầm là rất phát triển nhưng phương thức chăn nuôi lạc hậu (thả rông, làm chuồng dưới
nhà sàn, phân để trong chuồng lâu không được xử lý hoặc dọn rửa chuồng xả bừa bãi
vào các nguồn nước…) đã làm cho môi trường nông thôn ngày càng ô nhiễm. Ngoài lượng
phân, còn có nước tiểu, thức ăn thừa cũng chiếm một khối lượng đáng kể trong tổng số
chất thải do chăn nuôi đưa đến. Rõ ràng nếu lượng phân này không được xử lý tốt chắc
chắn sẽ tạo ra một sự ô nhiễm đáng kể đối với vệ sinh môi trường [14].
Nguyên nhân thứ hai gây ô nhiễm môi trường ở nông thôn là do chất thải rắn
từ các làng nghề và sinh hoạt của người dân. Hiện nay, cả nước có khoảng 1450 làng
nghề, phân bố trên 58 tỉnh thành và đông đúc nhất ở đồng bằng sông Hồng, vốn là cái
nuôi của làng nghề truyền thống, với tổng số 472 làng nghề các loại tập trung chủ yếu ở
các tỉnh như Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), Thái Bình, Bắc Ninh…Trong đó các làng nghề có

quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ sản xuất lạc hậu chiếm
phần lớn (trên
70%). Do đó đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề môi trường nông thôn, tác động xấu
đến môi trường đất, nước, không khí, sức khoẻ của người dân làng nghề.[6].
Ô nhiễm không khí: Hầu hết nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là than. Do đó
lượng bụi và các lượng khí CO, CO2, SO2 và NO2 thải ra trong quá trình sản xuất trong
làng nghề khá cao. Theo kết quả điều tra tại các làng nghề sản xuất gạch đỏ (ở Khai Tái, Hà
Tây), sản xuất vôi (ở Xuân Quan – Hưng Yên) hàng năm sử dụng khoảng 6000 tấn than,
100 tấn củi nhóm lò đã sinh ra nhiều loại bụi như CO, CO2, SO2, NOx và nhiều loại
thải khác gây nguy hại tới sức khoẻ của người dân trong khu vực và làm ảnh hưởng
hoa màu, sản lượng cây trồng của nhiều vùng lân cận. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân gây các vụ xung đột, khiếu kiện như ở Thái Bình, Bắc Ninh, Hưng Yên…[6].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


Ô nhiễm môi trường đất: Chủ yếu tập trung tại các làng nghề tái chế kim loại. Kết
quả nghiên cứu của đề tài KC.08.06 cho thấy một số mẫu đất ở làng nghề tái chế thuộc xã
Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên cho thấy hàm lượng Cu

2+

đạt từ 43,68 - 69,68

ppm. Hàm lượng các kim loại nặng cũng rất cao, vượt nhiều lần so với têu chuẩn cho
phép.[6].
* Chất thải rắn nông thôn

Bên cạnh đó có khoảng 3.600 chợ nông thôn, trung bình mỗi ngày thải ra 40 - 50
kg chất thải. Việc thu gom rác còn rất thô sơ bằng các xe cải tến nên mới thu gom được
khoảng 30% chuyên chở về những nơi tập trung rác. Bãi rác tại các huyện, các chợ nông
thôn chưa có cơ quan quản lý và biện pháp xử lý. Chủ yếu tập trung để phân huỷ tự
nhiên và gây những gánh nặng cho công tác bảo vệ môi trường.[6].
Bảng 1.3: Lƣợng chất thải phát sinh năm 2003 và năm 2008
Loại CTR

Đơn vị tnh

Năm 2003

CTR đô thị

tấn/năm

6.400.000

12.802.000

CTR công nghiệp

tấn/năm

2.638.400

4.786.000

CTR y tế


tấn/năm

21.500

179.000

CTR nông thôn

tấn/năm

6.400.000

9.078.000

CTR làng nghề

tấn/năm

774.000

1.023.000

Năm 2008

(Nguồn: Báo cáo Diễn biến Môi trường Việt Nam năm 2004; Viện Quy hoạch
Đô thị - Nông thôn, Bộ Xây dựng, 2010)[4]
Một nguyên nhân nữa dẫn đến sự xuống cấp của môi trường nông thôn là do tổ
chức trong lĩnh vực VSMT nông thôn còn phân tán, sự phối hợp các Bộ ngành chưa tốt.
Nhà nước chưa có chính sách huy động sự tham gia đóng góp của các thành phần kinh
tế để cùng với người sử dụng xây dựng công trình vệ sinh mà vẫn áp dụng cách tiếp

cận dựa vào cung cấp là chính. Về pháp chế vẫn còn thiếu các quy định và hướng dẫn cụ
thể để có thể quản lý tốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


trong lĩnh vực vệ sinh môi trường. Đa số hộ chưa có nhà vệ sinh đạt têu chuẩn,
nhất là vùng bị ngập lụt, vùng ven biển nơi có mật độ ngư dân cao.
Hiện trạng về VSMT nông thôn vấn còn nhiều vấn đề bức xúc. Chất lượng của
chúng ngày một tăng, lan tràn làm ô nhiễm đất, nước kể cả ngấm sâu dưới mặt đất
hàng chục, hàng trăm mét. Ô nhiễm môi trường gây ra do con người trong hoạt động
nông nghiệp, công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp, chăn nuôi và do những
chất thải sinh hoạt các khu vực phân bố dân cư.
1.2.3. Xây dựng nông thôn mới ở một số nƣớc trên thế giới
* Ở Nhật Bản
Đất nước Nhật Bản đã thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới từ phong
trào "Mỗi làng một sản phẩm". Từ năm 1979 Nhật Bản đã hình thành và phát triển
phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm" (one village, one product), với mục têu phát triển
vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển chung của cả đất
nước Nhật Bản. Người khởi xướng phong trào OVOP là Tiến sĩ Mo-ri-hi-kô Hi-ra-mát-su.
Ba nguyên tắc chính xây dựng phong trào OVOP, đó là: Địa phương hóa rồi hướng tới toàn
cầu; Tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, nhấn mạnh
đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ kĩ thuật, quảng bá, hỗ trợ têu
thụ sản phẩm. Người dân sản xuất rồi tự chế biến, tự đem đi bán mà không phải qua
thương lái. Họ được hưởng toàn bộ thành quả chứ không phải chia sẻ lợi nhuận qua
khâu trung gian nào. Chỉ tính riêng trong 20 năm kể từ năm 1979 - 1999, phong trào
OVOP "Mỗi làng, một sản phẩm" của đất nước mặt trời mọc đã tạo ra được 329 sản phẩm

bình dị và đơn giản như nấm, cam, cá khô, chè, măng tre... được sản xuất với chất lượng
và giá bán rất cao.
Theo TS. Hi-ra-mát-su, gần 30 năm hình thành và phát triển, sự thành công của
phong trào OVOP đã lôi cuốn không chỉ các địa phương trên đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu vực, đáng chú ý là các quốc gia ở Châu Á và Châu
Phi tìm hiểu và áp dụng. Một số quốc gia trong khu vực Đông - Nam Á như: Thái lan,
Philippin... tận dụng được nguồn lực địa phương, phát huy sức mạnh cộng đồng, bảo tồn
các làng nghề truyền thống, đã thu được những thành công nhất định trong phát triển
nông thôn của đất nước mình nhờ áp dụng kinh nghiệm của phong trào OVOP của Nhật
Bản.[12].
* Ở Hàn Quốc
Sau trận lụt lớn năm 1969, người dân Hàn Quốc phải tu sửa lại nhà cửa, đường sá,
ruộng vườn mà không có sự trợ giúp của chính phủ. Trong khi đi thị sát tình hình dân
chúng, Tổng thống Hàn Quốc lúc bấy giờ là Park Chung Hy nhận ra rằng viện trợ của chính
phủ cũng là vô nghĩa nếu người dân không nghĩ cách tự cứu lấy mình. Hơn thế nữa,
khuyến khích người dân tự hợptác và giúp đỡ nhau là điểm mấu chốt để phát triển nông
thôn.
Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào “Saemaulundong” được đích
thân Tổng thống Park phát động vào ngày 22/4/1970. “Saemaul” theo nghĩa tếng Hàn là
“Sự đổi mới của cộng đồng” được ghép với “undong” có nghĩa là một phong trào và
cụm từ “Saemaulundong” có nghĩa là phong trào đổi mới cộng đồng. Vì phong trào bắt
đầu từ nông thôn nên “Saemaulundong” được hiểu là “Phong trào đổi mới nông thôn”.
Sự ra đời kịp thời của “Saemaulundong” vào đúng lúc nông thôn Hàn Quốc đang trì trệ

trong đói nghèo cần có sự bứt phá mạnh mẽ và những kết quả khả quan đạt được ngay
sau đó đã làm nức lòng nông dân cả nước. Tới năm 1974, chỉ sau 4 năm phát động
“Saemaulundong”, sản lượng lúa tăng đến mức có thể tự túc lương thực, phổ biến kiến
thức nông nghiệp đã tạo nên một cuộc cách mạng trong phương pháp canh tác, thu nhập
một năm của hộ nông dân (674 nghìn won tương đương 562 USD) cao hơn so với hộ ở
thành thị (644 nghìn won tương đương 537 USD). Vào năm 1980, bộ mặt nông thôn có
thể nói đã hoàn toàn thay đổi với đầy đủ điện, đường, nước sạch, công trình văn
hóa…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


“Saemaulundong” từ một phong trào ở nông thôn đã lan ra thành một phong
trào đổi mới toàn xã hội Hàn Quốc.[12].
* Ở Trung Quốc
Nông thôn Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng. Trung Quốc đã thực
hiện nhiều chính sách cải cách ở nông thôn. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của cư
dân nông thôn lần đầu tên đạt mức trên 5.000 NDT tăng 8,5% so với năm trước. Cũng
trong năm 2009, Trung Quốc đầu tư làm mới và sửa chữa khoảng 300.000 km đường bộ
nông thôn; hỗ trợ trên 46 triệu người nghèo đảm bảo đời sống tối thiểu; triển khai thí
điểm ở 320 huyện về bảo hiểm dưỡng lão xã hội nông thôn.[17].
Việc chỉ đạo của Chính phủ trước kia cũng kiểu mệnh lệnh hành chính, nên việc
thực hiện khá miễn cưỡng. Sau đó, việc thực hiện xây dựng NTM linh hoạt hơn, dựa
trên quy hoạch tổng thể (ngân sách nhà nước và địa phương). Căn cứ tình hình cụ thể ở
các địa phương, đặc điểm tự nhiên, xã hội,để đưa ra chính sách, biện pháp thích hợp.
Ngân sách nhà nước chủ yếu dùng làm đường, công trình thủy lợi…, một phần dùng để
xây nhà ở cho dân. Đối với nhà ở nông thôn, nếu địa phương nào ngân sách lớn, nông dân

chỉ bỏ ra một phần, còn lại là tiền của ngân sách”.
Nhà nước đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp. Đầu tiên là đầu năm 2006
Trung Quốc xoá bỏ thuế nông nghiệp đã tồn tại 2600 năm, đã cắt 120 tỷ nguyên (15 tỷ
USD) gánh nặng thuế của nông dân. Việc xoá bỏ thuế làm cho ngân sách các xã giảm
nhiều, nhất là ở các vùng không có hoạt động phi nông nghiệp. Ngân sách cho phát triển
nông thôn tăng lên. Xây dựng một cơ chế để công nghiệp và đô thị thúc đẩy phát triển
nông thôn. Sự phân phối thu nhập quốc dân sẽ được điều chỉnh để cho việc tiêu thụ thuế
và đầu tư ngân sách và tài sản cố định và tín dụng sẽ tăng cho nông nghiệp và nông thôn.
Hỗ trợ từ vốn nhà nước sẽ lớn và tăng liên tục. Phần lớn trái phiếu và vốn ngân sách sẽ đi
về phát triển nông thôn. Đặc biệt đầu tư để cải tiến sản xuất và điều kiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


sống sẽ trở thành một luồng ổn định để tăng vốn cho xây dựng. Năm 2005
Nhà nước đã chi 297,5 tỷ nguyên cho Tam nông, năm 2006: 339,7 tỷ, và năm
2007: 391,7 tỷ. [17].
Công cuộc cải cách nông thôn của Trung Quốc qua nhiều dấu mốc. Trong đó,
những mốc quan trọng là xóa bỏ công xã nhân dân; xác lập thể chế kinh doanh hai tầng
kết hợp, lấy kinh doanh bao thầu gia đình làm cơ sở; mở cửa toàn diện thị trường nông
sản; xóa bỏ thuế nông nghiệp, và thực hiện trợ cấp trực tiếp cho nông dân. Trung Quốc
thực hiện nội dung hai mở, một điều chỉnh, là mở cửa giá thu mua, thị trường mua bán
lương thực; một điều chỉnh là chuyển từ trợ cấp gián tiếp qua lưu thông thành trợ cấp
trực tếp cho nông dân trồng lương thực.[1].
Định hướng phát triển tài chính hỗ trợ tam nông ở Trung Quốc là nông nghiệp
hiện đại, nông thôn đô thị hóa và nông dân chuyên nghiệp hóa. Trong chính sách tài
chính, để tăng thu nhập cho nông dân, Trung Quốc tăng đầu tư hỗ trợ về giá mua giống,

hỗ trợ thu mua lương thực không thấp hơn giá thị trường, mua máy móc thiết bị nông
nghiệp và vốn. Cùng đó, Trung Quốc cũng tập trung xây dựng cơ chế hướng nghiệp,
đào tạo kỹ năng làm việc, đặc biệt là lao động trẻ, ngoài ra, bên cạnh giảm thu phí và thuế
với nông dân. Trung Quốc còn có chủ trương đảm bảo trong vòng 3 năm xóa bỏ tnh
trạng các xã, thị trấn không có dịch vụ tài chính tền tệ cơ bản. Đồng thời, thúc đẩy việc
mua đồ gia dụng, ô tô, xe máy tại các xã, bằng cách nhà nước trợ cấp
13% trên tổng giá trị hàng hoá khi nông dân mua sản phẩm (do nhà nước định hướng).[1].
1.2.4. Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Mục tiêu chung: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu
bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo
của Ðảng được tăng cường...”. Về mục tiêu cụ thể đến 2015, cả nước có 20% số xã đạt
chuẩn nông thôn mới và đến 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo 19 tiêu
chí mà Thủ tướng Chính phủ đã ban hành trên tổng số 9.111 xã hiện nay của nước ta.
Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục têu quốc gia xây dựng nông thôn mới
(NTM) đặt mục tiêu đến hết năm 2015, tỷ lệ số xã đạt têu chí môi trường là 37,7%. Tuy
nhiên, đây là 1 trong 2 tiêu chí có tỷ lệ đạt thấp nhất (27% xã đạt) trong 19 tiêu chí
NTM. Trong quá trình thực hiện tiêu chí này, hầu hết các địa phương đều phản ánh gặp
phải nhiều khó khăn, vướng
mắc.
Xây dựng nông thôn mới vùng quê thuộc địa bàn Thủ đô Hà Nội

Một trong những tiêu chí đánh giá việc hoàn thành xây dựng Nông thôn mới
(NTM) là sự cải tạo môi trường, xanh, trong, sạch đẹp. Tuy nhiên, tiêu chí này thuộc
diện khó đạt nhất ở nông thôn, ngay cả những vùng quê thuộc địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Nhiều nút thắt: Trong chặng đường cán đích 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới
(NTM), hiện nay nhiều địa phương đang gặp khó khăn về tiêu chí môi trường. Dù ý thức
bảo vệ môi trường của người dân đã được nâng lên, phong trào vệ sinh đường làng ngõ
xóm được phát triển rộng rãi ở nhiều nơi, song nút thắt lại nằm ở chỗ hệ thống bãi
chứa, xử lý rác thải, nước thải ở không ít nơi còn thiếu thốn, chưa đồng bộ.
Đến xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Nội là một trong ít xã điểm xây dựng NTM
của TP Hà Nội về đích khá chậm khi đến nay vẫn chưa cán đích thành công. Trong số 3
tiêu chí chưa đạt chuẩn của xã có tiêu chí môi trường, theo đánh giá mới đạt 5,5/10 điểm.
Ông Nguyễn Văn Kiên, Chủ tịch UBND xã Phùng Xá cho biết, các thôn, xóm đã
triển khai quét dọn vệ sinh môi trường vào thứ 6 hàng tuần, rác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


×