Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Quá trình du nhập của nho giáo và những ảnh hưởng tới xã hội đại việt thế kỉ XI XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.35 KB, 53 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Th.s Trần Thị
Phượng, người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu
và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, Khoa Sử - Địa,
Trường Đại học Tây Bắc lời cảm ơn chân thành vì đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thư viện tỉnh Sơn La, Thư viện Trường
Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi và có những ý kiến đóng góp quý báu cho tôi
trong quá trình thu thập tư liệu, nghiên cứu để hoàn thành bản khóa luận này.
Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn khóa luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Chúng tôi rất mong sự đóng góp chân thành của quý thầy giáo, cô
giáo và bạn đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận

Nguyễn Hoàng Hiệp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ..................................................................4
5. Đóng góp mới của đề tài ...............................................................................................4
6. Bố cục của đề tài ...........................................................................................................5
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ TỪ KHI NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
(KHOẢNG THẾ KỈ II) ĐẾN THẾ KỈ XV ..................................................................6
1.1. Chính trị .....................................................................................................................6


1.2. Kinh tế - xã hội ..........................................................................................................9
1.3. Văn hóa - giáo dục ...................................................................................................13
Tiểu kết chương 1 ...........................................................................................................15
CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH DU NHẬP NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM ................16
2.1. Khái quát Nho giáo ..................................................................................................16
2.2. Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam.............................................................23
Tiểu kết chương 2 ...........................................................................................................28
CHƢƠNG 3: NHỮNG ẢNH HƢỞNG NHO GIÁO TỚI XÃ HỘI ĐẠI VIỆT TỪ
THẾ KỈ XI ĐẾN THẾ KỈ XV .....................................................................................29
3.1. Về chính trị - xã hội .................................................................................................29
3.2. Về kinh tế .................................................................................................................35
3.3. Về văn hoá – giáo dục .............................................................................................38
Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................................44
KẾT LUẬN ....................................................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................47
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, với sự đấu tranh kiên trì, bền bỉ và anh dũng, nhân
dân ta đã giành được độc lập. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, quốc gia
phong kiến độc lập tự chủ bước đầu được xây dựng và được củng cố ở các thế kỷ sau
đó. Đây là thời kỳ độc lập lâu dài nhưng không phải trong thanh bình mà luôn luôn
phải đối phó với giặc ngoại xâm. Trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV), các
triều đại Lý - Trần - Hồ - Lê sơ đều có ý thức xây dựng triều đại vững mạnh để củng
cố nền độc lập đã có. Việc tìm tòi một mô hình quản lý xã hội thích hợp với hoàn cảnh
đất nước là một việc cần thiết. Mô hình quản lý của Trung Quốc với hệ tư tưởng Nho
giáo từ hàng nghìn năm đã chứng minh hiệu quả của nó trong việc tạo ra một trật tự xã
hội bền vững ở Trung Quốc nhất là từ Hán, Đường đến Tống, Nguyên, Minh, Thanh.

Ở Việt Nam, Nho giáo Trung Quốc du nhập vào rất sớm, ngay từ những năm
đầu công nguyên thông qua việc xác lập bộ máy xâm lược, cai trị và thực hiện chính
sách Hán hoá của nhiều vương triều phong kiến phương Bắc ở nước ta. Tuy nhiên, sau
khi giành độc lập và thành lập nhà nước phong kiến dân tộc thì Nho giáo lại trở thành
công cụ cai trị xã hội của giai cấp phong kiến Việt Nam. Từ chỗ là công cụ xâm lược,
nô dịch của ngoại xâm và bắt buộc người Việt Nam phải tiếp nhận nó, thì đến lúc này
và từ đó trở đi, theo thời gian và yêu cầu phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam,
giai cấp phong kiến Việt Nam đã chủ động tiếp nhận Nho giáo và sử dụng nó thành
công cụ của chính mình trong việc xây dựng, phát triển đất nước về mọi mặt, trong
việc dựng nước và giữ nước. Vì vậy mà Nho giáo đã tồn tại lâu dài, ảnh hưởng và
đóng vai trò quan trọng trong xã hội phong kiến Việt Nam, trong nhiều tầng lớp người
Việt Nam. Trải qua 10 thế kỷ cùng với những thăng trầm của lịch sử các triều đại
phong kiến, Nho giáo đã để lại nhiều dấu ấn trong đời sống chính trị - xã hội Việt
Nam. Tìm hiểu những ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống chính trị - xã hội Việt
Nam thời kỳ phong kiến nhất là ảnh hưởng đối với giai đoạn từ thế kỷ XI đến thế kỷ
XV là một nội dung quan trọng. Đây là thời kỳ xác lập và phát triển đỉnh cao của chế
độ phong kiến Việt Nam.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quá trình du nhập của Nho giáo và những
ảnh hưởng tới xã hội Đại Việt thế kỉ XI - XV” làm đề tài cho khoá luận của mình.

1


Việc lựa chọn: “Quá trình du nhập của Nho giáo và những ảnh hưởng tới xã
hội Đại việt thế kỉ XI - XV” làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
Về khoa học
+ Làm sáng tỏ quá trình du nhập, phát triển của Nho giáo vào Việt Nam từ
những thế kỉ đầu công nguyên đến thế kỉ XV.
+ Làm rõ những biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Đại Việt
trong giai đoạn từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV.

+ Làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu cấu trúc xã hội Việt Nam thời trung
đại, đặc biệt dưới các vương triều Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
+ Đặt nền móng cho việc nghiên cứu nền văn hóa, tư tưởng, giáo dục nước nhà
qua các thời kì lịch sử.
Về thực tiễn
+ Những kết quả trong khoá luận có thể dùng làm tư liệu cho việc nghiên cứu Nho
giáo, đặc biệt là Nho giáo thời phong kiến độc lập tự chủ (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV).
+ Góp phần bảo tồn tri thức về Nho giáo.
+ Làm tài liệu tham khảo và giảng dạy lịch sử Việt Nam trong các trường Phổ
thông, Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học ở Tây Bắc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình du nhập của Nho giáo đối với sự phát triển của xã hội Đại Việt đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho tới nay, ở mỗi góc độ, khía cạnh
khác nhau đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong đó có thể kể đến
một số công trình quan trọng sau:
Cuốn “Nho giáo xưa và nay” do giáo sư Vũ Khiêu chủ biên, xuất bản năm
1990, gồm một số bài viết của một số tác giả đề cập đến nhiều vấn đề của Nho học, từ
phương hướng, phương pháp tiếp cận đến quan hệ của Nho giáo với kinh tế, với lịch
sử, với văn hoá…
Trong cuốn “Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn” (1997), tác giả Nguyễn Tài Thư từ góc độ triết học đã vạch ra và phân tích
những nội dung chủ yếu của Nho học cũng như vai trò của nó trong lịch sử và tư
tưởng Việt Nam.
Viện sử học Việt Nam đã xuất bản cuốn “Xã hội Việt Nam thời Lý - Trần”, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội (1981) đã cung cấp những tư liệu quý báu để tìm hiểu về bối
2


cảnh Đại Việt Thời Lý - Trần, quá trình du nhập của Nho học đã có ảnh hưởng tới xã
hội Đại Việt thế kỉ XI - XV.

Tác giả Văn Tạo trong cuốn “Mười cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử
Việt Nam” (2006), Nxb ĐHSP, Hà Nội đã viết về các cuộc cải cách đổi mới trong xã
hội Việt Nam thời trung đại: Công cuộc đổi mới của Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, cải
cách của Hồ Quý Ly, cải cách của Lê Thánh Tông đã đề cập đến Nho giáo trong xã hội
Đại Việt.
Thể chế chính trị của các triều đại phong kiến Việt Nam đã được đề cập trong
cuốn “Thể chế chính trị Việt Nam trước cách mạng tháng Tám dưới góc nhìn hiện đại”
của Lưu Văn An, Nxb Chính trị quốc Gia, Hà Nội, xuất bản năm 2008 là tài liệu quan
trọng để tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của Nho giáo Đại Việt qua các thời kì.
Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê) của Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2013 là bộ
luật chính thống và quan trọng nhất của nhà Lê đã khái quát tình hình Đại Việt thời Lê
sơ, quy định cụ thể về vị trí vai trò của Nho giáo thông qua đó cho chúng ta thấy được
sự phát triển cũng như thế lực của nó trong xã hội Đại Việt thế kỷ XV cũng như đặc
quyền đặc lợi của bộ phận quan liêu được hưởng.
Tất cả các công trình trên là nguồn tư liệu tham khảo quý báu để tôi thực hiện
việc nghiên cứu của mình.
3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng
Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam, những ảnh hưởng của Nho giáo đối với
xã hội Đại Việt thế kỷ XI - XV, trải qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
3.2. Phạm vi đề tài
- Giới hạn thời gian: Với đề tài “Quá trình du nhập của Nho giáo và những ảnh
hưởng tới xã hội Đại Việt thế kỉ XI - XV” được giới hạn trong phạm vi từ khi Nho giáo được
du nhập vào Việt Nam (khoảng thế khỉ II) đến thế kỉ XV.
- Giới hạn không gian: Với đề tài “Quá trình du nhập của Nho giáo và những
ảnh hưởng tới xã hội Đại Việt” được giới hạn trong phạm vi không gian lãnh thổ Đại
Việt bao gồm toàn bộ vùng Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ - Duyên hải Nam Trung Bộ kéo
dài đến đèo Cù Mông (gianh giới giữa hai tỉnh Bình Định, Phú Yên nay).
- Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung làm rõ quá trình Nho giáo du nhập vào
Việt Nam. Đồng thời, đề tài cũng làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo tới xã hội Đại

3


Việt thế kỉ XI – XV, trên các lĩnh vực: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá – giáo dục.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo; nội dung cơ bản của
Nho giáo; quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam.
- Nghiên cứu về Nho giáo Đại Việt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV thông qua việc
tìm hiểu bối cảnh lịch sử của Đại Việt và sự phát triển của Nho giáo Đại Việt dưới các
thời Lý - Trần, Lê sơ.
- Ảnh hưởng của Nho giáo tới xã hội Đại Việt thế kỉ XI – XV, trên các lĩnh
vực: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá – giáo dục.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thành trên cơ sở vận dụng chủ yếu các phương pháp đặc trưng
của bộ môn khoa học lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương
pháp thống kê, so sánh, nghiên cứu liên ngành...
4.2. Nguồn tài liệu
- Khoá luận được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những nhận thức về Nho giáo nói chung
và Nho giáo ở Việt Nam. Nguồn tài liệu này giúp chúng tôi có định hướng nghiên cứu
để giải quyết các vấn đề đề tài đặt ra.
- Nguồn tài liệu lưu trữ: Các tác phẩm, bài báo của các tác giả, tập thể các tác giả
được công bố ở các Nhà xuất bản, Tạp chí... Đây là nguồn tài liệu quan trọng, là cơ sở để
xây dựng nên đề tài, là nguồn tài liệu tham khảo, cung cấp cho chúng tôi thêm những
thông tin về Nho giáo, đặc biệt là quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam và những
tác động của nó tới xã hội Đại Việt thế kỉ XI – XV.
5. Đóng góp mới của đề tài
Thứ nhất, thông qua tìm hiểu về quá trình du nhập của Nho giáo đề tài góp phần
làm sáng rõ và phong phú thêm lí luận về Nho giáo ở Việt Nam.

Thứ hai, làm rõ thêm tính độc đáo của Nho giáo và những tác động của nó tới xã
hội Đại việt thế kỉ XI - XV.
Thứ ba, những kết quả trong khoá luận có thể dùng làm tư liệu cho việc nghiên
cứu Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo thời phong kiến độc lập tự chủ (từ thế kỷ XI đến
thế kỷ XV).
4


Thứ tư, bổ sung nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập Học
phần Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại; tiến hành làm đề tài, khóa luận tốt nghiệp cho
sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp.
Thứ năm, làm tài liệu để các nhà nghiên cứu có cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về
Nho giáo trong lịch sử Việt Nam thời trung đại.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài được kết cấu làm
3 chương:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử từ khi Nho giáo vào Việt Nam (khoảng thế kỉ II) đến
thế kỉ XV
Chương 2: Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam
Chương 3: Ảnh hưởng của Nho giáo tới xã hội Đại Việt thế kỉ XI - XV

5


CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ TỪ KHI NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
(KHOẢNG THẾ KỈ II) ĐẾN THẾ KỈ XV
1.1. Chính trị
Năm 179 trước công nguyên, cuộc chiến đấu giữ nước của An Dương Vương
thất bại, mở đầu cho lịch sử hơn 1000 năm Bắc thuộc trên đất nước ta.Trong thời kỳ

đấu tranh chống Bắc thuộc lâu dài và quyết liệt, cùng với truyền thống giữ nước vô
cùng tốt đẹp, nhân dân ta đã đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của phương
Bắc, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc ta, đồng thời tiếp thu, cải tiến những nét văn
hóa phù hợp với nền văn hóa dân gian vốn có từ lâu đời.
Trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc, Nho giáo vào nước ta mới đầu là một
công cụ để nô dịch và đồng hóa nhân dân ta về tư tưởng. Từ thời Tây Hán, Nho
giáo được truyền vào nước ta và thể hiện trước hết là việc đào tạo người làm cho
chính quyền đô hộ, biến Giao Châu thành một bộ phận của Trung Hoa. Chúng áp
dụng chính quyền địa phương của Trung Hoa vào nước ta, chủ yếu theo cơ cấu
quận huyện kiểu Tần – Hán. Trong quá trình cai trị, đã có những thay đổi cơ cấu
vận hành, nhưng đó là một cấu trúc chính trị ổn định, bền vững và hữu hiệu dựa
trên tính quân chủ chuyên chế.
Càng về sau, thể chế chính trị đô hộ phong kiến phương Bắc được tổ chức ngày
càng quy mô và chặt chẽ hơn. Triệu đại sau rút kinh nghiệm triều đại trước trong việc
cai trị người Việt. Dưới triều Đường thể chế chính trị có quy mô lớn nhất, liên kết
được nhiều dạng, mô hình: “1) quyền lực tập trung, thống nhất; 2) hệ thống chính
quyền được thiết lập ở các châu, huyện, hương, xã; 3) các phủ đô hộ trược thuộc
châu; 4) các châu, huyện phiên thuộc ở các cùng dân tộc thiểu số”. [1, tr.39]
Sau hơn 1000 năm bị đô hộ, nước ta đã giành lại nền độc lập và công việc đầu
tiên của nhà nước là xây dựng thể chế chính trị, hợp thức hoá quyền lực của mình để
quản lý, điều hành đất nước. Từ thế kỉ X đến những năm đầu thế kỉ XI là thời kì
đặc biệt của lịch sử đân tộc. Trong khoảng 100 năm (từ năm 905 – 1009), đất nước
ta phải trải qua cuộc nội chiến, đấu tranh chống ngoại xâm, sự thay thế lẫn nhau
của các dòng họ: Khúc, Dương, Ngô, Đinh – Tiền Lê. Thể chế chính trị thời kì này
được thiết lập theo xu hướng quân chủ trung ương tập quyền (mọi quyền lực đều
nằm trong tay nhà vua).
6


Năm 905, nhân sự suy yếu của nhà Đường, Khúc Thừa Dụ đã lãnh đạo nhân

dân khởi nghĩa giành chính quyền, lật đổ ách đô hộ. Sau khi giành thắng lợi, đến năm
907, Khúc Hạo đã bắt tay vào thực hiện cải cách về mọi mặt để xây dựng một nhà
nước độc lập, tự chủ. Tuy nhiên, chính quyền họ Khúc mới chỉ là một chính quyền tự
chủ ở thời kì này, là nền móng cho sự ra đời của một chính quền độc lập, tự chủ ở thời
kì sau.
Trải qua các triều đại từ Ngô, Đinh, Tiền Lê, bộ máy quan lại ngày càng được
mở rộng với chức năng, nhiệm vụ rõ ràng hơn, nhưng phần lớn các quan vẫn làm việc
kiêm nhiệm, chưa có cơ quan chuyên môn giúp việc. Hệ thống chính quyền địa
phương từ thời kì đầu lỏng lẻo mang nặng tính tự trị, nhưng về sau đã được tổ chức
chặt chẽ hơn, đặc biệt dưới triều Tiền Lê. Quyền lực của chính quyền trung ương được
củng cố. Các vị vua đều xuất thân và trưởng thành từ chiến tranh, hầu hết các quan
trong triều đều là võ tướng. Quân đội được tổ chức quy mô, chặt chẽ, là chỗ dựa vững
chắc cho chính quyền nhà nước.
Thế kỷ XI - XV, Đại Việt trải qua bốn triều đại Lý - Trần - Hồ - Lê sơ. Mỗi
triều đại đều thay nhau ra sức xây dựng một đất nước cường thịnh, nhân dân no ấm là
cơ sở vững chắc để sẵn sàng đấu tranh chống lại sự xâm lược của các thế lực thù địch.
Sự thay thế nhau của mỗi triều đại là một quy luật tất yếu của lịch sử.
Vào cuối triều Tiền Lê xã hội Việt Nam lâm vào khủng hoảng suy yếu. Tháng
10 mùa Đông năm Kỷ Dậu, Lê Ngọa Triều mất chấm dứt vai trò của nhà Tiền Lê.
“Nhân lòng người và triều thần đã oán ghét nhà Tiền Lê, sư Vạn Hạnh cùng quần thần
đứng đầu chi hậu Đào Cam Mộc đã vận động suy tôn Lý Công Uẩn lúc đó đang làm
Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ lên làm vua, lập ra vương triều nhà Lý”. [23, tr.40]
Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế (Thái Tổ), đặt niên hiệu là Thuận
Thiên, cho dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, sau đó đổi thành Thăng Long (rồng
bay), chính thức gọi tên nước là Đại Việt. Xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền. Với mong muốn thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế nhà Lý đã sử
dụng Nho giáo làm nguồn tuyển chọn quan lại bên cạnh các hình thức tuyển chọn đã
có trước kia. Đặc biệt ở thời nhà Lý, năm 1070 khoa thi đầu tiên của nước ta đã được
tổ chức, Quốc Tử Giám được thành lập đánh dấu nền giáo dục Nho học chính thức
xuất hiện trong xã hội Đại Việt. Cuối thế kỉ XII, nhà Lý bước vào thời kì suy yếu,

nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề, thiên tai xảy ra liên miên điều này đã làm các cuộc
7


khởi ngĩa của nông dân bùng nổ.
Đến năm 1226, nhà Trần được thành lập, trải qua 12 đời vua đã lãnh đạo nhân
dân ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông - đế quốc của thời đại, giữ vững
nền độc lập và chủ quyền của dân tộc, mở rộng cương vực về phía Nam, củng cố thể
chế chính trị quân chủ trung ương tập quyền. Giai đoạn đầu nhà Trần tồn tại và phát
triển trên cơ sở củng cố mối quan hệ thân tộc hoàng gia: Hoàng tộc là trụ cột của chính
quyền, là tổ chức hậu thuẫn chính trị cho nhà vua. Chỉ những người dòng họ Trần mới
được làm quan, hôn nhân nội tộc được khuyến khích để củng cố vững chắc ngôi vua
và sự cai trị của dòng họ. Tư tưởng đó được phản ánh qua lời dạy của Trần Thánh
Tông: “Thiên hạ này là của tổ tông, người nối dõi cơ nghiệp nên cùng anh em trong
tôn thất chung hưởng phú quý”. [1,Tr.81]
Vào cuối triều Trần mô hình thể chế chính trị quân chủ quý tộc lỏng lẻo và
quyền lực đang nghiêng về phía thân vương, quý tộc. Năm 1400, Hồ Quý Ly chính
thức lên ngôi vua. Ngay sau khi lên ngôi Hồ Quý Ly đã giương cao tư tưởng Nho giáo,
thiết lập thể chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Năm 1406 Nhà Minh xâm
lược nước ta, các cuộc đấu tranh của Nhà Hồ nhanh trong thất bại. Tuy nhiên dù chỉ
cầm quyền trong một thời gian ngắn (7 năm) nhưng chính Hồ Quý Ly đã đưa ra những
điều luật nghiêm khắc như: đồ hình, lưu hình, tử hình,… Và những người có công cho
nhà Hồ cũng được ban thưởng chức tước, tiền bạc,… để khuyến khích họ.
Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi mở ra một trang mới cho lịch sử phát triển của
đất nước. Năm 1428, Lê Lợi đã chính thức lên ngôi vua lập nên vương triều Lê sơ.
Đây là vương triều đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển lịch sử Đại Việt. Bộ
máy nhà nước thời Lê sơ từ Lê Thái Tổ đến Lê Nghi Dân (1428 - 1459) tương đối
hoàn chỉnh, mức độ tập trung quyền lực đã cao hơn. Tuy nhiên, để đáp ứng cho nhu
cầu xây dựng và phát triển đất nước tập quyền vững mạnh, củng cố quyền lực của
mình, năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính

từ trung ương đến địa phương, từ dân sự đến quân sự, cả quan chế lẫn thể chế; đã thiết
lập một thể chế chính trị quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền quan liêu cao độ.
Quyền lực tập trung tuyệt đối vào tay vua, với một bộ máy vận hành theo hệ thống luật
pháp thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Có thể nói, qua phần tìm hiểu về bối cảnh chính trị của quá trình du nhập Nho
giáo, chúng ta có thể thấy: cho đến thế kỉ XV, Nho giáo du nhập vào Đại Việt trải qua
8


3 thời kì: Thời kì Bắc thuộc, thời kì bước đầu xây dựng nhà nước độc lập thế kỉ X, thời
kì phát triển và hoàn chỉnh nhà nước Đại Việt thế kỉ XI - XV. Mỗi một thời kì, do
những biến động về mặt chính trị mà Nho giáo cũng có những sự biến đổi khác nhau.
Hay nói cách khác, Nho giáo được tiếp thu và phát triển đồng hành cùng mục đích cai
trị của mỗi thời kì lịch sử.
1.2. Kinh tế - xã hội
Sau khi thôn tính được nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc đã bắt đầu
thiết lập bộ máy cai trị với mục đích đồng hóa, bóc lột nhân dân ta, biến nước ta trở
thành một địa phận trực thuộc Trung Quốc. Về cơ bản từ năm 179 trước công nguyên
đến năm 905 nước ta phải trải qua quá trình cai trị của các triều đại phong kiến sau:
Triệu, Hán, Đông Ngô, Tấn, Tống, Nam Tề, Lương, Tuỳ, Đường.
Trong quá trình cai trị hơn 1000 năm, các triều đại phong kiến phương Bắc liên
tục thực hiện hàng loạt các chính sách bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm vơ vét sức
người, sức của của nhân dân ta. Sách Văn hiến thông khảo đã ghi: “Từ đời Tần, bọn
man mọi (nhân dân ba quận) ở hang cùng ngõ hẻm đều được đội ơn giáo hoá của nhà
vua (Trung Quốc), bọn chúng tuỳ theo mức ít, nhiều mà thu của cải để cho nhà nước
tiêu dùng. Lại như bọn tù trưởng ở miền lĩnh ngoại, dựa vào sự giàu có của việc sản
xuất chi trả, ngọc châu, sừng tê, ngà voi. Triều đình (Trung Quốc) phần lớn cũng nhân
đấy nắm lấy để thu lợi, qua các triều Tống, Tề, Lương… đều dựa theo dó không sửa
đổi” [23].
Càng về sau, các triều đại phong kiến phương Bắc lại càng thực hiện chính sách

bóc lột nặng nề hơn. Năm 618, nhà Đường lên thay thế nhà Tuỳ. Nhà Đường đã thực
hiện nhiều chính sách bóc lột tàn bạo đối với nhân dân ta, phải đóng tô, thuế nặng nề
với chính sách lưỡng thuế và phải đi phu dịch cực khổ. Ngoài việc bị bóc lột bằng tô,
thuế, người dân còn bị bóc lột nặng nề vì chính sách cống nạp không có giới hạn, bao
gồm những sản vật quý giá mà triều đình nhà Đường và bọn chính quyền đô hộ có yêu
cầu như: ngà voi, đồi mồi, lông trả, chuối tiêu, mật trăn, hương liệu, vàng, bạc, châu
báu… Chính quyền nhà Đường vẫn giữ độc quyền về muối và sắt.
Với chính sách bóc lột, vơ vét triệt để của phong kiến phương Bắc, trong
hơn 1000 năm bị đô hộ, nhân dân ta đã trải qua cuộc sống đói khổ, đầy đau thương,
tủi nhục. Điều này càng làm nên ý chí quyết tâm chống ngoại xâm, giành lại độc
lập dân tộc.
9


Đầu năm 905, nhân sự suy yếu của nhà Đường, Khúc Thừa Dụ đã lãnh đạo
nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền, lật đổ ách đô hộ, bước đầu xây dựng chính
quyền mới độc lập, tự chủ và sau đó nhà Đường buộc phải phong ông làm Tiết độ sứ.
Nền thống trị của phong kiến phương Bắc cơ bản chấm dứt. Năm 907, Khúc Thừa Dụ
qua đời, con trai ông là Khúc Hạo lên nối nghiệp cha tự xưng là Tiết độ sứ và thực
hiện cuộc cải cách toàn diện đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế nhằm xây dựng một quốc
gia độc lập, tự chủ, chấm dứt sự ảnh hưởng của phong kiến phương Bắc. Khúc Hạo
chủ trương sửa đổi chế độ tô thuế, ông đã thực hiện chính sách “bình quân thuế ruộng”
và “tha bỏ lực dịch” phù hợp với kết cấu kinh tế - xã hội thực tế nước ta thời bấy giờ.
Sang đến thời nhà Đinh – Tiền Lê, đất nước hoà bình, xã hội ổn định đã tạo
điều kiện thuận lợi để nhà nước cùng nhân dân xây dựng một nền kinh tế độc lập tự
chủ. Nhà nước cũng quan tâm nhiều hơn đến nông nghiệp, đặc biệt chú trọng đến đê
điều, đào kênh, làm thuỷ lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nhưng thời kì này nhà
nước chưa đủ sức để can thiệp tới các làng xã, mà chỉ thông qua làng xã để thu tô thuế.
Thời Đinh – Lê, thủ công nhiệp tiếp tục được mở mang. Đời sống nhân dân ổn định.
Thế kỷ XI đến thế kỷ XV là thời kỳ tồn tại của các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê

sơ. Đây là giai đoạn đầu của thời kỳ phong kiến độc lập, đồng thời cũng là thời kỳ đất
nước thống nhất. Bối cảnh này đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Trong
đó, nông nghiệp là kinh tế chủ đạo.
Ruộng đất là tài sản quý giá, nguồn thu chủ yếu để duy trì sự tồn tại của triều
đình, xã hội nên các vua nhà Lý đều cố gắng tập trung ruộng đất vào tay mình. Tuy
nhiên, ở thời kỳ này triều đình chỉ nắm quyền chiếm hữu ruộng đất còn quyền sở hữu
thực tế thuộc về công xã. Nhà nước chỉ thu thuế thông qua các công xã còn việc chia
ruộng đất cày cấy lại do công xã thực hiện. Điều này cho thấy nhà nước chỉ nắm ruộng
đất về mặt hình thức, chưa nắm được quyền quản lý ruộng đất thực sự.
Nhà Lý ban cấp ruộng đất cho quan lại cao cấp, những người có công không
phải họ vua rất ít chỉ có trường hợp của Lê Phụng Hiểu, “Năm 1028, vua bằng lòng
cho Phụng Hiểu lên núi cầm dao quăng một cái xa đến hơn mười dặm, dao rơi xuống
hương Đa Mi, vua lấy ruộng ấy ban cho. Tha thóc thuế cho ruộng ném đao ấy. Và
thể theo nguyện vọng của Lê Phụng Hiểu ruộng đó được nhà vua ban cho làm thế
nghiệp” [15,Tr.27]. Từ đó loại ruộng này được gọi là ruộng thác đao. Như vậy thời
kỳ này, ruộng đất tư nhân chủ yếu trong tay quý tộc. Do đó tầng lớp trí thức Nho học
chưa có tiềm lực về kinh tế cũng như địa vị xã hội.
10


Sang thời kì nhà Trần, Nhà nước cho phép mua bán ruộng đất công, dần dần đã
hình thành tầng lớp phổ biến trong xã hội là địa chủ thường (hay địa chủ thứ dân) và
tầng lớp tiểu nông tư hữu nhỏ. Tuy nhiên, sự bóc lột của tầng lớp địa chủ không tạo
nên địa vị thống trị, họ cũng chỉ được nhà nước coi là dân thường như những tầng lớp
lao động khác. Chỉ khi nào họ có học trở thành quan lại mới được nhà nước coi trọng.
Để tạo cơ sở vững chắc cho vương triều, nhà Trần đã đưa ra chính sách ban cấp
thái ấp cho các quan văn: “Chế độ nhà Trần các vương hầu đều ở phủ đệ ở hương của
mình, khi chầu thì mới đến kinh sư, xong lại quay về. Như Trần Quốc Tuấn ở Vạn
Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chân ở Chí Linh đều thế cả” [15, tr.32]. Năm
1266, nhà Trần khuyến khích các vương hầu chiêu tập những người phiêu tán, lấy làm

nô tì khai khẩn đất hoang đập điền trang. Thái ấp, điền trang là hai loại hình sở hữu
ruộng đất đặc trưng của vương triều Trần.
Trong xã hội thời Lý – Trần, nông dân là giai cấp chủ yếu. Tầng lớp quý tộc
cũng tăng nhanh về số lượng. Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ ngày càng đông đảo trong
xã hội. Tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội là nô tì.
Sau khi nhà Hồ thành lập, Hồ Quý Ly đã tiến hành cải cách để ổn định xã hội,
khẳng định quyền lực tối cao của nhà vua và để nhằm hạn chế chiếm hữu lớn về đất
đai của quý tộc Trần. Năm 1397, ông đã ban hành chính sách hạn điền. “Nhà nước quy
định trừ đại vương và trưởng công chúa, còn tất cả mọi người không được sở hữu quá
mười mẫu. Người nào có nhiều ruộng được phép đem ruộng chuộc tội, nếu không
cũng phải nộp Nhà nước” [28,Tr.105]. Đồng thời, tiến hành phép hạn nô nhằm giải
phóng sức lao động của nô tì đang bị thống trị bởi quý tộc Trần “Hán Thương lập phép
hạn chế gia nô,chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau; còn thừa phải dâng
lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc
thư 3 đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này. Các nô đều thích vào trán để
danh dấu. Quan nô thì thích hình viên ngọc hảo châu, có khi lấy vào quân điện tiền;
của công chúa thì thích hình cây dương; của đại vương thì thích hai khuyên đỏ, quan
nhất phẩm thích một khuyên đen; các quan nhị phẩm trở xuống thích hai khuyên đen”
[28, tr.201]. Tuy nhiên, trước sức mạnh tấn công của nhà Minh, công cuộc cải cách
của Hồ Quý Ly cũng thất bại. Sự thất bại của nhà Hồ một lần nữa lại đẩy nhân dân ta
vào cuộc sống lầm than, cơ cực trong sự thống trị hơn 20 năm của nhà Minh.

11


Sau hơn hai mươi năm dưới ách đô hộ nhà Minh đồng ruộng nhiều nơi bỏ
hoang, kinh tế nông nghiệp đình trệ. Để khắc phục tình trạng đó, Lê Lợi đã xuống
chiếu kêu gọi dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn, đồng thời cho 25 vạn quân giải ngũ
về làm ruộng. Lê Lợi còn sai tịch thu tất cả ruộng đất của quan lại nhà Minh, của bọn
Việt gian, ruộng đất của các quý tộc Trần đã chết, ruộng đất của nhân dân bỏ hoang,

sung làm ruộng đất công. Nhà Lê cũng lệnh cho các địa phương lập sổ ruộng và ban
hành các chính sách về ruộng đất. Đặc biệt là chế độ lộc điền được ban hành năm 1477
dưới thời vua Lê Thánh Tông. Lộc điền được ban cấp theo thứ bậc từ các Hoàng tử,
Công chúa cho đến các quan chức từ chánh nhất phẩm đến tòng tứ phẩm. Ruộng lộc
được chia làm hai loại: Loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng thế nghiệp, chủ yếu dành cho
các vương hầu, công chúa; loại cấp một lần gọi là ruộng ân tứ - ruộng này sau khi chết
3 năm phải trả lại cho nhà nước. Chế độ lộc điền là một chế độ ban cấp ruộng đất đại
quy mô thời Lê. Với số ruộng được ban cấp cùng với số ruộng tư vốn có, tầng lớp quý
tộc, quan lại cao cấp thời Lê trở thành những đại địa chủ trong xã hội bấy giờ.
Nhà Lê sơ không căn cứ vào nguồn gốc xuất thân, đặc biệt là sau cải cách Lê
Thánh Tông những người có học, thi cử đỗ đạt ra làm quan (bộ phận trí thức Nho học)
đều được ban cấp ruộng đất và được phân chia ruộng đất khẩu phần theo chế độ lộc
điền và phép quân điền.
Thời Lê còn tồn tại ruộng đất công làng xã thuộc sở hữu tối cao của nhà nước.
Để thống nhất việc phân chia ruộng công trong phạm vi cả nước, cùng với việc ban
hành chính sách lộc điền, năm 1447, Lê Thánh Tông ban hành chính sách quân điền.
Theo phép quân điền, cứ 6 năm, ruộng công làng xã được chia lại một lần cho các
thành viên trong xã, bao gồm quan chức cấp thấp (từ ngũ phẩm trở xuống), chức dịch
của làng, quân lính, dân đinh, vợ các quan, phụ nữ góa chồng, trẻ mồ côi. “Bậc cao
nhất là quan tam phẩm được 11 phần (nếu chưa được cấp ruộng lộc), tứ phẩm 10
phần, ngũ phẩm 9,5 phần cho đến hạng lão được 3.5 phần, trẻ mồ côi, người tàn phế
được 3 phần” [28,Tr.159]. Các quan phủ, huyện có nhiệm vụ phối hợp với các xã
trưởng, già làng đo đạc ruộng đất, tính số người được chia và thực hiện việc quân điền.
Phép quân điền vừa giúp cho người nông dân có mảnh đất cày cấy sinh sống, trên cơ
sở đó họ tương đối yên tâm sản xuất, nền kinh tế tiểu nông được phục hồi và phát
triển. Đồng thời cũng giúp cho Nhà nước thu thuế, lao dịch, lấy lính và nuôi lính.

12



Sau cải cách Lê Thánh Tông nhà nước đã quản lý được ruộng đất trong xã hội,
quản lý đến cấp cơ sở thấp nhất là làng xã, giai đoạn này “phép vua thắng lệ làng” và
hình thành nên giai cấp địa chủ vừa có quyền lực về kinh tế vừa có thế lực về chính trị
làm xuất hiện quan hệ bóc lột địa chủ - tá điền. Như vậy, Nho học có vai trò ngày càng
lớn trong đời sống kinh tế - xã hội Đại Việt.
1.3. Văn hóa - giáo dục
Trong thời kì đô hộ nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc đều thi hành
chính sách chính sách đồng hoá dân tộc ta, chúng thực hiện chính sách di dân Hán
sang nước ta gồm nhiều tầng lớp kể cả người nghèo, tù tội đến các vùng chúng
chiếm đóng, cho ở lẫn với người Việt để thông qua đó truyền bá vào người Việt tư
tưởng, lễ giáo của phương kiến Trung Quốc, làm cho dân ta không còn ý thức dân
tộc, bị Hán hoá phong tục tập quán và cam tâm làm nô lệ cho chúng.
Bên cạnh việc di dân, phong kiến phương Bắc còn truyền bá đạo Nho vào nước
ta nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu thống trị. Nho giáo và Khổng giáo là hệ tư
tưởng triết lí, đạo đức, thể chế cai trị vốn xuất hiện ở Trung Quốc từ rất sớm. Ngay từ
thời Tây hán, Nho giáo đã bắt đầu xâm nhập vào xã hội Việt Nam để làm công cụ nô
dịch và đồng hoá nhân dân ta về tư tưởng và tinh thần. Cùng với đó, các triều đại
phong kiến phương Bắc đô hộ nước ta đã mở các trường để dạy học, truyền bá đạo
Nho vào trong xã hội Việt và đào tạo đội ngũ quan lại người Việt, làm công cụ tay sai
cho thiên triều.
Về sau, nhiều nho sĩ người Hán có tài được chính quyền phương Bắc cử sang
Giao Châu để truyền bá Nho giáo và dần dần được cất nhắc lên làm những chức vụ
cao. Dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ, Nho học càng thêm thịnh hành và trở
thành công cụ chính trị tư tưởng hàng đầu của chính quyền Giao Chỉ. Song song với
chính sách đồng hoá của các triều đại phong kiến phương Bắc, các cuộc đấu tranh
chống đồng hoá của nhân dân ta cũng diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt là trên lĩnh vực văn hoá.
Bước sang thế kỷ X - thế kỷ độc lập, dòng văn hóa ảnh hưởng chính đến xã hội
Đại Việt là Phật giáo. Phật giáo được đề cao, coi là quốc giáo và tác động đến đường lối
cai trị và thể chế chính trị của các triều đại phong kiến tuy nhiên Nho giáo vẫn tiếp tục

được thừa nhận, phát triển chứ không bị loại trừ. Thời Lý - Trần bên cạnh văn hóa dân
gian trong xã hội Đại Việt còn tồn tại ba tôn giáo đó là Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo

13


được gọi là thời kì “Tam giáo đồng nguyên”. Nhà nước Lý - Trần chủ trương duy trì một
chính sách khoan dung hòa hợp và chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo.
Tuy nhiên với mong muốn xây dựng một nhà nước quân chủ tập quyền từ trung
ương xuống địa phương nhà Lý đã lựa chọn Nho giáo trong giáo dục, thi cử. Dưới nhà
Lý đã xuất hiện thêm một bộ phận đảm nhận việc giáo dục trong cả nước là trí thức
Nho học. Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông
lập ra Quốc Tử Giám. Cùng với việc mở Quốc Tử Giám, nhà Lý quan tâm tới việc tổ
chức các kỳ thi Nho học để lựa chọn nhân tài mà các triều đại trước chưa thực hiện
được. “Năm 1075, Lý Nhân Tông xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học
tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển cho vào hầu vua học”. [28,Tr.48]
Nhà Trần, thời kì đầu đạo Phật chiếm vị trí độc tôn là quốc giáo nên đã ảnh
hưởng, chi phối đến mọi mặt đời sống xã hội. Càng về sau, do yêu cầu xây dựng phát
triển nhà nước phong kiến tập quyền vững mạnh nhà Trần đã nhận thấy cần phải mở
cửa để thu hút nhân tài góp sức xây dựng đất nước, do đó Phật giáo tuy vẫn tồn tại
nhưng không còn vị trí độc tôn như trước nữa, nhường chỗ cho sự lên ngôi bước đầu
của Nho giáo với tư cách là một học thuyết trị nước và vai trò ngày càng lớn của giới
trí thức Nho học. Nếu những vị vua đầu triều Trần chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật
giáo, thì 6 vị vua cuối thời Trần lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, lấy Nho
Giáo làm nguồn tuyển chọn quan lại trong cả nước thay thế chế độ đơn tộc trước kia.
Sau khi lên thay thế nhà Trần, để khắc phục khủng hoảng kinh tế, chính trị xã hội
cuối triều Trần, Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực. Trong lĩnh
vực văn hóa Hồ Quý Ly muốn đưa Nho giáo trở thành quốc giáo bằng nhiều biện pháp:
Đưa ra nhiều chính sách hạn chế Phật giáo, không ưu đãi tăng ni và phát triển chùa triền
như thời Trần mà còn có những biện pháp giảm thiểu: “Năm 1396, Hồ Quý Ly bắt tất cả

các nhà sư chưa đến tuổi 50 phải hoàn tục để lao động”. [19,Tr.78]
Cuộc kháng chiến chống Minh đã làm đứt gãy quá trình Nho giáo vươn lên
thống trị xã hội, vương triều sau đã tiếp nối quá trình còn dang dở đó là nhà Lê sơ.
Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thánh Tông đã đưa Nho giáo trở thành quốc giáo. Mọi
thành phần trong xã hội có học đều được tham gia thi cử đỗ đạt thì đều được ra làm
quan phụng sự triều đình, dưới thời Lê Thánh Tông không có trường hợp quan lại
không qua thi cử mà được làm quan. Triều đình phong kiến áp dụng triệt để quan niệm
của Nho giáo trong việc trị nước Tam cương ngũ thường, quan hệ vua - tôi được đặt
lên hàng đầu. Sau cải cách của Lê Thánh Tông, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng độc tôn
trong xã hội Đại Việt.

14


Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy, Nho giáo được du nhập và phát triển ở nước ta trong một bối cảnh
lịch sử đầy biến động. Thời cơ tốt nhất để Nho giáo từ phương Bắc được du nhập và
đẩy mạnh hơn bao giờ hết chính là thời kì Bắc thuộc. Nho giáo được sử dụng như một
công cụ để nô dịch và đồng hóa nhân dân ta về mặt văn hóa, tư tưởng. Đến thế kỉ X,
ảnh hưởng của văn hoá Hán đã bị ngăn chặn bởi công cuộc xây dựng một quốc gia độc
lập tự chủ. Tuy nhiên về sau, tất cả các triều đại đều mong muốn xây dựng một thể chế
chính trị đỉnh cao, một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, một nền giáo dục đáp ứng
nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Trong những cố gắng đó Nho giáo chiếm
hữu những vị trí ngày càng quan trọng và càng về sau giáo dục Nho học càng khẳng
định được vị trí, vai trò của mình trong xã hội Đại Việt.

15


CHƢƠNG 2

QUÁ TRÌNH DU NHẬP NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
2.1. Khái quát Nho giáo
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng
Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hoá
và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người
sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni,
Giê –xu… người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng Tử một cách trực
tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông
để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ “đốt sách chôn Nho” của nhà Tần, hai trăm năm sau
khi Khổng Tử qua đời khiến việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn.
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng
và cuộc đời của ông.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục Kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau
khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ.
Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử dựa vào lời thầy
mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử
Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà
sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình
thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần). Khổng
giáo hay là "tư tưởng Khổng - Mạnh" từ đây mới hình thành nên hai khái niệm Nho
giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho
học. Còn Nho giáo mang tính chất tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh
đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho
cần phải thực hành.
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên

thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết
16


viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này
cho thấy rõ xu hướng biện luận về chính trị, xã hội, về đạo đức là những tư tưởng cốt
lõi của Nho gia.
Ngũ Kinh
Kinh Thi: Sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình
yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 3000 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm
trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi
con trai “học Kinh Thi chưa?”, người con trả lời “chưa”. Khổng Tử nói: “Không học
Kinh Thư thì không biết nói năng ra sao”. [5]
Kinh Thư: Ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng
Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như
Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ: Ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng
làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: “Không học Kinh Lễ thì
không biết đi đứng ở đời”. [5]
Kinh Dịch: Nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên
các khái niệm âm dương, bát quái… Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích
các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng
hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử
giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và
Hào truyện.
Kinh Xuân Thu: Ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông
chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc
vua chúa. Ông nói: “Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ
ở kinh Xuân Thu này”. Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân Thu có nghĩa

là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra). [5]
Kinh Nhạc: do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít
làm thành một thiên trong Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy Lục kinh chỉ còn lại Ngũ kinh.
Tứ Thư
Luận Ngữ: Ghi lại những lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại
sau khi ông mất. Luận ngữ còn có nghĩa là các lời bình.
17


Đại Học: Dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng Sâm
còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của thầy mà soạn
ra. Đại học có nghĩa là sự học lớn.
Trung Dung: Dạy người ta cách sống trung hòa, không thiên lệch. Sách này do
người cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử soạn ra. Trung là ý
muốn nói cái tâm không lệch bên này hay bên kia. Dung có nghĩa là dung dưỡng, giữ
mãi mức như vậy.
Mạnh Tử: Ghi lại những lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha
(390-305 TCN). Ông là người đã phát triển tư tưởng của Khổng Tử và là nhân vật tiêu
biểu nhất của Nho giáo sau Khổng Tử.
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên làm quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Nho giáo nhà Hán có sự khác biệt so với Nho giáo nguyên thuỷ. Điểm khác
biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống
trị, thiên tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị". Vì vậy, Nho giáo thời kỳ
này còn được gọi là Hán Nho. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính
thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm.
Nho giáo truyền đến cuối đời Đông Hán, bề ngoài thì rất thịnh mà bên trong
thì thật là suy. Các học giả chỉ chăm chăm về lối chương cú. Mỗi phái học theo một
lối, rồi cãi nhau về nghĩa từng câu, từng chữ. Sách Hán Thư Nghệ Văn Chỉ có nói: có
khi một câu năm chữ mà bàn ra đến mấy vạn lời.

Đến đời nhà Tống, các vua rất sùng bái Nho học, Khổng Tử và Mạnh Tử rất
được tôn trọng. Thời kỳ này có những danh nho như Âu Dương Tu làm bộ sử đời
"Ngũ Quý", phân biệt rõ kẻ gian, người ngay, đem hai chữ liêm sĩ đề xướng lên, dựng
lại cái nền nho hạnh của sĩ phu.
Đời Tống, Đại học, Trung Dung được tách ra khỏi lễ ký và cùng với Luận Ngữ
và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường
của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Tống Nho, với các tên tuổi như
Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trình Hạo và Trình Di.
Trong khi về đường học vấn có phái lý học phát triển thì về đường chính trị
cũng chia làm hai phái: Tân Đảng và Cựu Đảng. Tân Đảng có Vương An Thạch đứng
đầu, còn cựu Đảng đứng đầu là Tư Mã Quang. Hai bên đều lấy cái chủ nghĩa Nho giáo
18


mà công kích nhau kịch liệt. Tân Đảng thì muốn theo thời mà sửa đổi, nhằm cho binh
cường nước mạnh. Cựu Đảng thì cho rằng việc trị nước cần theo chế độ đời trước, cốt
làm cho dân chúng được an cư lạc nghiệp. Tân Đảng và Cựu Đảng tranh giành nhau
lúc tiến, lúc thoái, mãi đến cuối đời Nam Tống mới thôi.
Nho học thời Nguyên không được thịnh hành như thời Tống nhưng vẫn có
nhiều danh nho như Triệu Phục, Hứa Hành và Hứa Khiêm. Nho giáo đời nhà Nguyên
tuy so với đời trước thì không bằng, nhưng cũng rất thịnh đạt. Những học giả như
Triệu Phục, Hứa Hành và Hứa Khiêm đều là người có đức hạnh, rất xứng đáng là danh
nho một thời. Tuy nhiên, Nho học trong thời Nguyên chỉ bó hẹp trong phạm vi Trình
Chu mà thôi, bởi ai cũng cho rằng Nho học đến đó là cùng cực rồi. Bởi vậy, Nho học
thời Nguyên chỉ nhằm giữ lấy cái danh tiết cho trong sạch chứ không ai phát triển
thêm được điều gì cao minh hơn nữa.
Đến thời nhà Minh, sau khi Chu Nguyên Chương lấy được đất Kim Lăng, đón
mời các nho sĩ, mở nhà quốc tử học và làm miếu thờ Khổng Tử thì nền Nho học có
nhiều bước phát triển. Thời kỳ đầu, các học giả vẫn còn theo lối học của nhà Nguyên,
chưa ai đề xướng ra học thuyết nào mới cả. Thời kỳ này có những danh nho như

Lưu Cơ, Tống Liêm tự là Cảnh Liêm. Đến thời kỳ thứ hai, từ đời vua Nhân Tông
đến vua Mục Tông, trong khoảng thời gian hơn một thế kỉ rưỡi đó, Nho giáo thịnh
hành hơn trước và có nhiều học giả trứ danh. Người thì ra làm quan, người thì ẩn
cư ở chốn quê mùa nhưng ai nấy đều có chí làm sáng rõ đạo của thánh hiền. Đến
quãng thời gian suy tàn của nhà Minh, kể từ đời vua Thần Tông nền Nho học tuy
không thịnh đạt như trước, nhưng nhiều người muốn lấy sự học để cứu vớt nhân
tâm con người nên đã lập ra nhiều học phái để giảng dạy đạo thánh hiền. Trong đó
có Đông Lâm phái với người sáng lập là Cố Hiến Thành và Cao Phan Long, Thủ
Thiện phái với người sáng lập là Châu Nguyên Tiêu. Xét ra, Nho học đời Minh
không ra ngoài phạm vi Tống học dù có phái Diêu Giang chuyên về mặt tâm học
hay phái Hà Đông tôn sùng cái học của Trình Chu. "Cái học ấy từng chia ra chi nọ,
phái kia nhưng kết cục vẫn theo cái tôn chỉ thiên địa vạn vật nhất thể, và về đường
thiết thực vẫn cố giữ cái khí tiết của học giả". [14, tr.669]
Thời nhà Thanh, nhất là đời vua Khang Hy, không những các phái trong Nho
giáo như phái Hán học và phái Tống học đều thịnh hành mà phái Tây học cũng có thế
lực. Thời kỳ này vẫn chú ý để dạy Nho học nhưng vẫn bảo thủ các văn hóa cũ của
19


người Mãn Châu nhà Thanh. Trong lúc đó, có nhiều nhà Nho học không chịu ra làm
quan với nhà Thanh, mà ở nhà chuyên tâm học tập. Lại có nhiều học giả thấy sự học
của Nho gia cuối đời Minh đã suy đồi nên tìm phương pháp sửa đổi. Nho học đời nhà
Thanh tuy là rất thịnh nhưng đa số các học giả đều làm sách vở, nghiên cứu tường tận
theo phương pháp khoa học nên "Thanh Nho chỉ có cái tư cách khoa học mà không có
cái tinh thần triết học. Những danh nho trong khoảng ba thế kỷ đó đều là người bác
học, song không có mấy người hiểu biết chỗ uyên thâm của Nho giáo như đời Tống và
đời Minh". [14, tr.720]
2.1.2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được

người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là “quân tử” (quân là kẻ làm vua, quân
tử là chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những người thấp kém
về địa vị xã hội; sau “quân tử” còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao
thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo đức
hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lý giải bởi đối tượng mà Nho giáo
hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con
người ta trước hết phải “tự đào tạo”, phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải “hành đạo” (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung
cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí
vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lý đạo đức do Nho
gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng
mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận
hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sở
triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức… để
làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ
Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà
nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ
Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.

20


Tam Cương
Tam là ba; Cương là giềng mối. Tam Cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua
tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thường phạt công minh, tôi trung thành
một dạ.
- Cha con: Cha hiền con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi dạy con cái, con phải hiếu

lễ và nuôi dưỡng cha khi cha về già.
- Vợ chồng: Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ, vợ chung thuỷ
tuyệt đối với chồng.
Ngũ thường
Ngũ là năm; Thường là hằng có. Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong
khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hoà nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Tam Tòng Tam là ba; Tòng là theo. Tam
Tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử”.
- Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng.
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
Tứ Đức
Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có:
Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
Công: khéo léo trong việc làm.
Dung: hoà nhã trong sắc diện.
Ngôn: hoà nhã trong lời nói.
Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
Đạt Đạo

21


Đạo có nghĩa là “con đường”, hay “phương cách” ứng xử mà người quân tử

phải thực hiện trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo
cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” [6, tr.131], tương đương với “quân
thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân.
Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán Nho ngũ luân
được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường
hay còn gọi là Tam tòng.
Đạt Đức
Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân - trí - dũng”. Khổng Tử nói: “Đức của
người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không
nghi ngại, người dũng không sợ hãi” [5, tr.190]. Về sau, Mạnh Tử thay “dũng” bằng
“lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành bốn đức: “nhân, nghĩa, lễ, trí”. Hán Nho thêm một
đức là “tín” nên có tất cả năm đức là “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Năm đức này còn gọi là
Ngũ thường.
Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc
Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử còn phải biết “Thi, Thư,
Lễ, Nhạc”. Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hoá toàn diện.
Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính
trị. Nội dung của công việc này được công thức hoá thành “tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”. Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt
đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành
động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm: nhân trị và chính danh.
Nhân trị
Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người
như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” [5, tr.123].
Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: “người không có
nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?”. [5, tr.123]
Chính danh
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm

đúng chức phận của mình. “Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận thì
22


tất việc không thành” [5, tr.150]. Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh Công: “Quân quân,
thần thần, phụ phụ, tử tử - vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. [5, tr.153]
Đó là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng
được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ; chín chữ đó chỉ
nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ,
nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần
phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là
tiểu nhân (như dân thường).
2.2. Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam
Vào cuối đời Tây Hán và đầu đời Đông Hán, cùng với chính sách cai trị và
"Hán hóa" vùng đất cổ Việt Nam thời đó gọi là Giao Chỉ, Cửu Chân, văn hóa Hán bắt
đầu được truyền bá vào Việt Nam từ tên tuổi hai tên quan mà sách sử Việt Nam cũng
như sách sử Trung Hoa đều ca ngợi họ có công trong việc "khai hóa", mở mang phong
tục mới là Tích Quang và Nhâm Diên. Hai viên thái thú tại quận Giao Chỉ và quận
Cửu Chân là Tích Quang và Nhân Diên đã tích cực dựng “học hiệu” để dạy lễ nghĩa,
tức mở trường dạy Nho học và truyền bá phong tục Hán tộc. Nhưng sự hiện diện
tương đối rõ nét của Nho giáo ở nước ta chỉ thật sự bắt đầu vào cuối thời Đông Hán
với vai trò tích cực của Sĩ Nhiếp (187-226). Sĩ Nhiếp là người gốc huyện Quảng Tín,
quận Thương Ngô nay thuộc Quảng Tây, Trung Quốc. Ông từng được phong làm quan
huyện lệnh của huyện Vũ Dương (Trung Quốc) sau đổi sang làm thái thú Giao Chỉ
(vùng Bắc Bộ nước ta ngày nay). Đó là những năm cuối thời hậu Hán (khoảng cuối thế
kỉ thứ II). Tại đây, Sĩ Nhiếp đã ra sức quảng bá Nho giáo vào Việt Nam, tự mình mở
mang việc học Nho giáo. Vì thế, ông được nhiều thế hệ Nho giáo tôn là Nam giao học
tổ (vị tổ của nền Nam giao, tức đất nước ta). Những cây đại bút như Bảng nhãn Lê
Văn Hưu, Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên, Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ… đều đánh giá rất cao vai trò

của Sĩ Nhiếp trong việc truyền bá Nho giáo. Ngô Sĩ Liên đã từng bình luận trong sách
"Đại Việt sử kí toàn thư" về vai trò của Sĩ Nhiếp với nước ta là "thông thi thư, tập lễ
nhạc". Từ thời Tích Quang - Nhâm Diên rồi Sĩ Nhiếp đến trước đời Đường (618-907),
Nho giáo được truyền bá sang Việt Nam là Hán Nho. Từ thời Tùy - Đường thống trị
nước ta đến khi Ngô Quyền giành lại được quyền độc lập năm 938, Nho giáo cùng văn

23


×