Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Chế độ lộc điền, quân điền thời lê thánh tông và những biến đổi trong thế kỉ XVI XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.83 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
-----------o0o-----------

TẠ MỸ GIANG

CHẾ ĐỘ LỘC ĐIỀN, QUÂN ĐIỀN THỜI LÊ THÁNH TÔNG
VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG THẾ KỈ XVI - XVIII

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Sơn La, năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
-----------o0o-----------

TẠ MỸ GIANG

CHẾ ĐỘ LỘC ĐIỀN, QUÂN ĐIỀN THỜI LÊ THÁNH TÔNG
VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG THẾ KỈ XVI - XVIII

Nhóm ngành: Lịch sử Việt Nam Cổ trung đại

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Trần Thị Phƣợng

Sơn La, năm 2018



Lời cảm ơn!
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới ThS. Trần Thị Phƣợng
- người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, Khoa Sử - Địa,
phòng Đào tạo, Thư viện Trường Đại học Tây Bắc lời cảm ơn chân thành vì đã quan tâm,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thư viện tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập tài liệu nghiên cứu.
Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn khóa luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của quý thầy giáo,
cô giáo và bạn đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận

Tạ Mỹ Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ...........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ...................................................................5
5. Đóng góp mới của đề tài ...............................................................................................5
6. Bố cục của đề tài ...........................................................................................................6
CHƢƠNG 1: ĐẠI VIỆT TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG ..............7
1.1. Quá trình xác lập vương triều Lê sơ ..........................................................................7
1.2. Tình hình chính trị .....................................................................................................8

1.3. Tình hình kinh tế ......................................................................................................10
1.4. Tình hình văn hóa, giáo dục ....................................................................................11
Tiểu kết chương 1 ...........................................................................................................12
CHƢƠNG 2: CHẾ ĐỘ BAN CẤP RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ THÁNH TÔNG
(1460 - 1497)...................................................................................................................13
2.1. Khái quát tình hình ruộng đất thời Lê sơ (1427 - 1460) .........................................13
2.2. Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) ...............................16
Tiểu kết chương 2 ...........................................................................................................25
CHƢƠNG 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA CHẾ ĐỘ LỘC ĐIỀN, QUÂN ĐIỀN
TRONG THẾ KỈ XVI - XVIII ....................................................................................26
3.1. Những biến đổi của chế độ lộc điền thế kỉ XVI - XVIII ........................................26
3.2. Những biến đổi của chế độ quân điền thế kỉ XVI - XVIII .....................................32
3.3. Nguyên nhân dẫn đến những biến đổi .....................................................................37
Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................................44
KẾT LUẬN ....................................................................................................................45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................46
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dưới chế độ phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, nên tư liệu sản xuất
căn bản là ruộng đất. Vì vậy, chế độ sở hữu ruộng đất là cơ sở của quan hệ sản xuất
phong kiến. Và đương nhiên khi nghiên cứu về chế độ phong kiến thì trước hết phải
nghiên cứu về chế độ sở hữu ruộng đất. Hơn nữa, bản thân vấn đề ruộng đất ở các thế
kỉ trung đại Việt Nam tự nó mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. Gần đây,
giới sử học và xã hội học đang tập trung nghiên cứu lịch sử các nền văn minh, trong đó
văn minh Đại Việt giữ một vị trí trọng yếu. Nó vừa là sự kế tục và nâng cao của nền
văn minh sông Hồng nảy sinh từ những thế kỉ trước công nguyên, mang sắc thái đặc
biệt, vừa là một trong những nguồn gốc của nền văn minh Việt Nam. Nền tảng của văn

minh đó không phải cái gì khác là chế độ ruộng đất đương thời. Như vậy, chế độ sở
hữu ruộng đất có ý nghĩa phương pháp luận trong việc nghiên cứu khái quát toàn bộ
tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam.
Khi nghiên cứu trao đổi về vấn đề ruộng đất, đã nảy sinh hàng loạt những cách
hiểu khác nhau về các thiết chế sở hữu ruộng đất, từ những hình thức sử dụng cho đến
những mối quan hệ xã hội và xu thế phát triển. Những cách hiểu khác nhau đó đã làm
cơ sở cho những quan niệm khác nhau về hình thái kinh tế - xã hội Việt Nam trước thế
kỉ XIX và dĩ nhiên như vậy sẽ ảnh hưởng quan trọng đến việc nhận thức con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Tách vấn đề ruộng đất ra khỏi toàn bộ xã hội để
nghiên cứu do đó góp phần làm sáng tỏ những điểm bất đồng cơ bản, từ đó tạo tiền đề
cho một sự nghiên cứu khái quát đúng đắn và khoa học hơn là cần thiết.
Chế độ sử hữu ruộng đất của các nhà nước quân chủ Việt Nam trong từng thời kỳ
lịch sử có những đặc trưng riêng. Về cơ bản có hai loại sở hữu chính là: sở hữu nhà
nước về công điền công thổ và sở hữu tư nhân. Một đặc trưng quan trọng của chế
độ ruộng đất của nhiều nước phương Đông trong thời kỳ phong kiến về trước là chế
độ sở hữu ruộng đất của nhà nước chiếm ưu thế. Có thể nói, sở hữu công về ruộng
đất là cơ sở để tồn tại và phát triển của nhà nước phong kiến trong đó có Đại Việt.
Quá trình phong kiến hóa ở Việt Nam là một quá trình lâu dài với những diễn
biến phức tạp nhưng về cơ bản đến những năm 70 của thế kỉ XV sau cuộc cải cách
hành chính Lê Thánh Tông (1460 - 1497), quá trình này đã được hoàn thiện với
việc xác lập mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền cao độ

1


cùng quan hệ bóc lột: quan hệ địa chủ - tá điền. Cơ sở dẫn đến sự hình thành quan
hệ bóc lột này đó chính là vấn đề ruộng đất. Hay nói cách khác, chính sách ban cấp
ruộng đất thời Lê Thánh Tông có vai trò quan trọng trong việc xác lập chế độ phong
kiến ở Việt Nam.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề ruộng đất

thời Lê sơ cũng như cải cách Lê Thánh Tông nhưng ở đây chúng tôi muốn đi sâu làm
rõ chính sách ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông cũng như những biến đổi của chế
độ ban cấp này trong các thế kỉ XVI - XVIII. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài“Chế độ lộc
điền, quân điền thời Lê Thánh Tông và những biến đổi trong thế kỉ XVI - XVIII” có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
Về khoa học:
+ Góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về chế độ ruộng đất Việt
Nam thời kỳ cổ - trung đại.
+ Vẽ nên bức tranh toàn cảnh về bối cảnh xã hội Đại Việt thế kỉ XV - XVIII.
Đây chính là không gian tồn tại, phát triển của chế độ ruộng đất thời kì này.
+ Làm rõ nội dung chế độ ban cấp ruộng đất thời kì Lê Thánh Tông (1460 1497) thông qua chính sách lộc điền và quân điền và những biến đổi trong thế kỉ XVI XVIII. Từ đó có sự nhìn nhận, so sánh, đối chiếu với chính sách ruộng đất của các
triều đại trước và sau đó.
+ Chỉ ra tác động của chế độ ruộng đất thời kì này tới tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội Đại Việt trong thế kỉ XV và những biến đổi trong thế kỉ XVI - XVIII.
+ Góp phần làm sáng tỏ sự phân hóa giai cấp trong xã hội trên cơ sở sự phân chia
quyền lợi trong sở hữu ruộng đất.
+ Chỉ ra nguyên nhân sâu xa của các cuộc khởi nghĩa nông dân thời kì trung đại
trong lịch sử Việt Nam đều xuất phát từ vấn đề ruộng đất. Đây là vấn đề cốt lõi đối với
sự tồn tại và phát triển của một nhà nước phong kiến.
Về thực tiễn:
+ Bổ sung nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập Học phần
Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại; chuyên đề Vấn đề ruộng đất trong lịch sử phong kiến
Việt Nam; tiến hành làm đề tài, khóa luận tốt nghiệp cho sinh viên ở các trường Đại
học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp.

2


+ Làm tài liệu để các nhà nghiên cứu có cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
ruộng đất, phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam thời trung đại.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề ruộng đất trong xã
hội Việt Nam cổ trung đại nói chung và các loại hình ruộng đất thời Lê sơ nói riêng.
Trong một số công trình đã nghiên cứu và làm rõ chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam
thời kì cổ - trung đại như:
Người đặt cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về chế độ ruộng đất ở Việt Nam
thời kì cổ - trung đại đó chính là Phan Huy Lê với công trình“Chế độ ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ”, Nxb Văn Sử Địa (1959). Qua tác phẩm này Phan Huy
Lê đã làm rõnhững chính sách ruộng đất và tình hình kinh tế nông nghiệp của nước ta
thế kỷ XV. Đây được coi là kim chỉ nam cho tác giả có thể nghiên cứu nội dung chính
sách lộc điền, quân điền một cách rõ nét, tường tận nhất.
Tác giả Ngô Sĩ Liên (1968) với Đại Việt Sử ký Toàn thư, Tập I, Nxb KHXH, Hà
Nội. Trong tác phẩm này đã nhắc đến triều đại nhà Lê sơ trong quyển X. Đây là cơ sở
để tác giả nghiên cứu bối cảnh, khung cảnh xã hội Đại Việt thời Lê sơ. Đặc biệt đây là
nền tảng quan trọng để tác giả có thể tìm hiểu những vấn đề liên quan đến chế độ
ruộng đất thời kì này.
Trong cuốn Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam của Trần Bá Đệ, 2002, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội. Tác phẩm gồm 8 chuyên đề, đề cập đến một số nội dung cơ bản
và chuyên sâu của Lịch sử Việt Nam thời Trung đại, Cận - Hiện đại. Trong đó chuyên
đề hai: Những cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam thời Trung đại (từ thế kỷ X đến
nửa đầu thế kỷ XIX), đã đề cập đến cuộc cải cách của Lê Thánh Tông. Tất cả những
vấn đề liên quan đến bối cảnh lịch sử đẫn đến cuộc cải cách cũng như nội dung cải
cách trên lĩnh vực ruộng đất của Lê Thánh Tông đều được làm rõ. Đây là cơ sở để tác
giả có thể đi sâu tìm hiểu nội dung chế độ ban cấp ruộng đất thời kì này.
Lê Đức Tiết (2007), Lê Thánh Tông vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại, Nxb
Tư pháp, Hà Nội. Tác phẩm đã nói đến cuộc đời, sự nghiệp, vai trò của Lê Thánh
Tông đối với vương triều Lê sơ và đặc biệt đã nói tới chính sách cải cách ruộng đất
của Lê Thánh Tông trong thời trị vì của mình (1460 - 1497).
Với Lưu Văn An (2008), Thể chế chính trị Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám dưới góc nhìn hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Đây là tài liệu bổ ích


3


giúp tác giả có cái nhìn tương đối khái quát về Lịch sử chính trị của Việt Nam từ thời
dựng nước đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác phẩm này làm rõ khung
cảnh xã hội Đại Việt thế kỷ XV, đặc biệt những vấn đề liên quan đến tổ chức chính trị
- xã hội của nhà Lê sơ, từ đó cho thấy những ảnh hưởng của chế độ ruộng đất tới thiết
chế xã hội thời kì này.
Tác giả Trương Hữu Quýnh (2009), Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử
Việt Nam, Nxb Thế Giới, Hà Nội. Đây là tài liệu quan trọng nhất đã khắc họa đầy đủ nội
dung các loại hình ruộng đất, sự biến đổi của tình hình ruộng đất ở nước ta trong thời kỳ
trung đại từ thế kỷ XI - XVIII trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tác phẩm này là nguồn
tài liệu quý báu, cung cấp cho tác giả cái nhìn toàn cảnh về chế độ ruộng đất Việt Nam nói
chung, Lê sơ nói riêng đặc biệt dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông. Để từ đó tác giả có thể
so sánh đối chiếu với chính sách ruộng đất của các triều đại khác, làm rõ tác động của chế
độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông tới xã hội Đại Việt trên tất cả các lĩnh vực và
những biến đổi trong thế kỉ XVI - XVIII.
Như vậy, các công trình trên đã đề cập đến vấn đề ruộng đất thời Lê sơ nói chung, chế
độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông nói riêng ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đây được
coi là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý báu để tôi có thể hoàn thành đề tài: “Chế độ lộc
điền, quân điền thời Lê Thánh Tông và những biến đổi trong thế kỉ XVI - XVIII”.
3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng
Chế độ lộc điền, quân điền thời Lê Thánh Tông và những biến đổi trong thế kỉ XVI
- XVIII.
3.2. Phạm vi
Về thời gian: Với đề tài “Chế độ lộc điền, quân điền thời Lê Thánh Tông và
những biến đổi trong các thế kỉ XVI - XVIII” được giới hạn trong phạm vi thời gian cụ
thể, rõ ràng từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII.

Về không gian: Với đề tài“Chế độ lộc điền, quân điền thời Lê Thánh Tôngvà
những biến đổi trong các thế kỉ XVI - XVIII”, tập trung nghiên cứu trong phạm vi không
gian lãnh thổ Đại Việt bao gồm toàn bộ vùng Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ - Duyên hải Nam
Trung Bộ kéo dài đến Tây Nguyên - Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Về nội dung: Đề tài tập trung làm rõ chế độ lộc điền, quân điền thời Lê Thánh
Tông và những biến đổi trong các thế kỉ XVI - XVIII.

4


3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài với 2 nhiệm vụ quan trọng: Thứ nhất, nghiên cứu về chế độ lộc điền, quân
điền thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Thứ hai, làm rõ những biến đổi của chế độ quân
điền, lộc điền thời Lê Thánh Tông trong các thế kỉ XVI - XVIII, đồng thời đưa ra một số
nhận xét về nguyên nhân sự biến đổi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thành trên cơ sở vận dụng chủ yếu các phương pháp đặc trưng
của bộ môn khoa học lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương
pháp thống kê, so sánh, nghiên cứu liên ngành...
4.2. Nguồn tư liệu
Nguồn tài liệu lưu trữ: Các tác phẩm, bài báo của các tác giả, tập thể các tác giả
được công bố ở các Nhà xuất bản, Tạp chí... Đây là nguồn tài liệu quan trọng, là cơ sở
để xây dựng nên khóa luận, là nguồn tài liệu tham khảo, cung cấp cho tôi thêm những
thông tin về tình hình ruộng đất thời Lê sơ, đặc biệt là chế độ ban cấp ruộng đất thời
Lê Thánh Tông cũng như những biến đổi của chế độ quân điền, lộc điền trong thế kỉ
XVI - XVIII để tôi hoàn thành khóa luận.
5. Đóng góp mới của đề tài
Thứ nhất, góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về chế độ ruộng đất
Việt Nam nói chung thời kỳ cổ - trung đại nói riêng.

Thứ hai, vẽ nên bức tranh toàn cảnh về bối cảnh xã hội Đại Việt thế kỉ XV - XVIII.
Đây chính là không gian tồn tại, phát triển của chế độ ruộng đất thời kì này. Từ bức tranh
toàn cảnh ấy khóa luận làm rõ nội dung chế độ lộc điền, quân điền thời Lê Thánh
Tôngvànhững biến đổi trong các thế kỉ XVI - XVIII. Từ đó có sự nhìn nhận, so sánh, đối
chiếu với chính sách ruộng đất của các triều đại trước và sau đó.
Thứ ba, góp phần làm sáng tỏ sự phân hóa giai cấp trong xã hội trên cơ sở sự
phân chia quyền lợi trong sở hữu ruộng đất. Đồng thời chỉ ra nguyên nhân sâu xa của
các cuộc khởi nghĩa nông dân thời kì trung đại trong lịch sử Việt Nam đều xuất phát từ
vấn đề ruộng đất. Đây là vấn đề cốt lõi đối với sự tồn tại và phát triển của một nhà
nước phong kiến.
Thứ tư, bổ sung nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập Học
phần Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại; chuyên đề vấn đề ruộng đất trong xã hội phong

5


kiến Việt Nam; tiến hành làm đề tài, khóa luận tốt nghiệp cho sinh viên ở các trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp.
Thứnăm, làm tài liệu để các nhà nghiên cứu có cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề ruộng đất, phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam thời trung đại.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
khóa luận được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Đại Việt trước cải cách của Lê Thánh Tông
Chương 2: Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
Chương 3: Những biến đổi của chế độ lộc điền, quân điền trong thế kỉ XVI - XVIII

6



CHƢƠNG 1
ĐẠI VIỆT TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
1.1. Quá trình xác lập vƣơng triều Lê sơ
Cuối năm 1407, sau gần một năm dồn sức chiến đấu trong mối tương quan lực
lượng không cân sức, cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhà Hồ thất bại. Từ đây
phong kiến nhà Minh trực tiếp đô hộ nước ta. Cuộc xâm lược, đô hộ của nhà Minh đã
làm cho xã hội Đại Việt truyền thống bị gián đoạn, đứt gãy. Mặc dù bị phong kiến
phương Bắc nhiều lần xâm lược, đô hộ nhưng đầu thế kỉ XV, nhà Minh đã áp dụng
chính sách đặc biệt nhằm mục tiêu “tẩy não” Đại Việt. Bên cạnh việc xâm lược, bóc
lột nhà Minh còn thực hiện thủ đoạn tiêu hủy những giá trị văn hóa, văn hiến của Đại
Việt, đốt sạch giấy tờ, sách vở, phá hủy các công trình, ra sức chiếm đoạt ruộng đất.
Không cam chịu mất nước, nhân dân ta trên khắp mọi miền đã vùng lên chống lại
chính quyền đô hộ. Từ trong bão lửa của phong trào đấu tranh yêu nước, cuộc khởi
nghĩa do Lê Lợi khởi phát ở đất Lam Sơn nhanh chóng phát triển thành phong trào giải
phóng dân tộc lan rộng trên quy mô khắp cả nước. Sau 10 năm anh dũng chiến đấu
(1418 - 1427), nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại chủ
quyền đất nước, khôi phục nền độc lập dân tộc.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên (Thăng Long), đặt niên
hiệu là Thuận Thiên, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt, mở đầu triều đại Lê (thường
được gọi là Hậu Lê để phân biệt với thời Tiền Lê của Lê Đại Hành) [23, Tr.319]. Từ
khi hình thành, nhà Lê sơ đã xác lập cho mình một vị thế quan trọng bởi đây là vương
triều ra đời sau cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vĩ đại. Sự tồn tại của Vương triều
Lê sơ đã để lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với tiến trình phát triển của lịch sử Đại
Việt các thế kỉ về sau.
Nhà Lê sơ thành lập là một trường hợp đặc biệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Đây là vương triều thoát thai từ một cuộc khởi nghĩa toàn dân, thành phần tham gia
rộng rãi. Nên ngay từ khi thành lập nhà Lê sơ muốn thực hiện chế độ quân chủ quý tộc
hoàn toàn không được bởi ngai vàng của Lê Lợi “ngồi” lên năm 1427 được “đúc” bằng
mồ hôi, xương máu của rất nhiều giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Tất cả đều hi sinh cho
dân tộc và nhà Lê sơ. Dẫn tới đặc điểm, nhà Lê sơ ngay từ khi thành lập đã mở toang cánh

cửa nhà nước và ngay từ đầu nền chính trị Lê sơ là nền chính trị đa tộc thay thế cho đơn

7


tộc trước đây. Trong triều đình có rất nhiều quyền lợi được chia sẻ cho nhiều dòng họ (có
221 công thần trong đó nhà Lê đứng đầu) gọi là giai đoạn đa tộc võ biền.
“Các tướng lĩnh của nghĩa quân trước kia đều theo thứ bậc được phong chức, ban
tước, trở thành những công thần, quan lại của triều đình phong kiến mới. Danh sách công
thần khai quốc lên đến 221 người, chưa kể số người có học, ứng nghĩa vào những năm
cuối của cuộc khởi nghĩa”. [18, Tr.148]
Như vậy, quá trình xâm lược của nhà Minh đã làm đứt gãy mối quan hệ giữa làng xã
với nhà nước, các thiết chế cổ truyền trong các làng xã bị phá tan tạo điều kiện cho nhà Lê
sơ có thể dễ dàng thiết lập lại.
1.2. Tình hình chính trị
Ngay từ khi thành lập nhà Lê sơ đã bắt tay vào việc xây dựng bộ máy nhà
nước, củng cố quyền lực của giai cấp thống trị, giải quyết những hậu quả từ cuộc
chiến tranh xâm lược của nhà Minh. Chính vì vậy, vương triều Lê sơ đã tập trung
xây dựng một bộ máy cai trị thống nhất từ trung ương đến địa phương; tiến hành
ban thưởng cho các công thần theo sát Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Việc
làm này là hết sức cần thiết nhằm tạo ra một hàng ngũ quan lại trung thành với triều
đại mình.
Về cơ bản mô hình bộ máy nhà nước Lê sơ vẫn được thiết lập theo thể chế quân
chủ chuyên chế, đứng đầu là vua nắm mọi quyền hành. Bên dưới là hệ thống các cơ
quan giúp việc cho nhà vua được thiết lập từ trung ương đến địa phương và ngày một
hoàn chỉnh.
Vào buổi đầu thời Lê sơ (từ Lê Thái Tổ đến Lê Nghi Dân (1428 - 1459), bộ máy
nhà nước chưa được tổ chức một cách hoàn chỉnh, quyền lực của nhà vua vẫn bị san sẻ
cho hệ thống quan lại đại thần đứng đầu là Tể tướng. Hệ thống quan lại đại thần giữ
những chức vụ quan trọng trong triều đình, tham góp ý kiến cùng vua bàn việc nước.

Nhà vua phải thông qua bộ phận này mới làm việc được với các cơ quan ở chính
quyền trung ương cũng như địa phương.
Tuy nhiên, vào thời kì này trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là chính quyền trung
ương chưa được thiết lập hoàn chỉnh. Nếu như dưới thời Lý - Trần có đầy đủ 6 bộ thì
buổi đầu Lê sơ chỉ bao gồm 2 bộ: bộ lại và bộ lễ. Các cơ quan hoàn toàn độc lập với
nhau, chưa có sự quản lí, ràng buộc lẫn nhau một cách chặt chẽ. Quyền lực của nhà
vua bị san sẻ quá nhiều bởi thành phần tham gia trong tổ chức bộ máy đầu triều Lê sơ

8


chủ yếu là những người tham gia trong khởi nghĩa Lam Sơn và có công lớn giúp Lê
Lợi đánh tan quân Minh chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi đội ngũ quý tộc tôn thất
như quan lại thời Lý - Trần, đây là điểm hết sức mới mẻ của triều đại Lê sơ so với các
triều đại trước. Hay nói cách khác nhà Lê sơ buộc phải san sẻ quyền lợi của dòng họ
mình cho nhiều thế lực khác nhau trong cả nước.
Hơn thế nữa, nhà nước trung ương vẫn chưa kiểm soát chặt chẽ được các địa
phương, đứng đầu các đạo ở cấp chính quyền địa phương là quan Hành Khiển - nắm
mọi quyền lực. Đặc biệt ở cấp nhỏ nhất là các làng xã, nhà nước vẫn không kiểm soát
được việc bầu các xã quan. Điều này khiến cho sự kết nối của Trung ương Hoàng đế
với làng xã bị đứt gãy, nhà nước chưa với tay được vào các làng xã.
Xuất phát từ những yếu kém, khuyết điểm trong mô hình bộ máy nhà nước thời
kì đầu, năm 1460, ngay sau khi lên ngôi Lê Thánh Tông tiến hành cải tổ lại bộ máy
hành chính nhằm xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền cao độ, đưa
nhà vua lên vị trí tối thượng mà chưa vương triều nào trước đó có thể làm được. Thêm
vào đó, Lê Thánh Tông lấy khoa cử làm hình thức tuyển chọn quan lại chủ yếu. Chính
vì vậy, bộ máy nhà nước thời kì Lê Thánh Tông được gọi là mô hình nhà nước tập
quyền quan liêu.
Đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông, để duy trì bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu
quả từ trung ương đến địa phương, để củng cố, ổn định đất nước, năm 1483, Lê Thánh

Tông đã ban hành bộ “Quốc triều hình luật”. Đây là bộ luật mang đặc thù của pháp
luật Đại Việt, phản ánh chân thực và sâu sắc tình trạng xã hội nước ta thế kỉ XV và sau
này. Giống như các bộ luật trước kia dưới nhà Lý, Trần, bộ luật Hồng Đức cũng thể
hiện tính giai cấp rõ ràng trong việc bảo vệ quyền thống trị của nhà nước trung ương
tập quyền, bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và
các nguyên tắc đạo đức phong kiến. Thêm vào đó, bộ luật này thể hiện tính dân tộc và
nhân dân sâu sắc trong việc bảo vệ sức sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình
công cộng. Điểm mới nhất trong bộ luật này mà chưa từng có trong luật lệ Đại Việt
trước kia đó là những đạo luật bênh vực bảo vệ người phụ nữ. Có thể nói: “Trong lịch
sử phong kiến Việt Nam, Luật Hồng Đức không những là bộ luật hoàn chỉnh nhất mà
còn là bộ luật tiến bộ nhất của xã hội Việt Nam dưới thời phong kiến”. [26, Tr.142]

9


Cùng với việc xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước, nhà Lê tập trung xây dựng quân
đội và quốc phòng. Đến cuối năm 1427, số quân lên đến 35 vạn người. Năm 1428, sau khi
lên ngôi vua Thái Tổ cho 25 vạn quân về quê làm ruộng, chỉ giữ lại 10 vạn.
Bài toán giải ngũ đặt ra đới với nhà Lê sơ, sau khi quân đội về quê, nhà nước
phải tiến hành phân chia ruộng đất, trả lương bổng lộc cho họ. Vậy số ruộng đất này
lấy từ đâu? Điều này buộc nhà Lê phải thi hành hàng loạt những biện pháp để phân
chia lại ruộng đất trong cả nước, ổn định cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến. Bởi
vậy, buổi đầu Lê sơ quân lính đều được chia ruộng đất công ở làng mình và thay phiên
nhau về quê sản xuất để tự cấp. Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách “Ngụ binh ư
nông” vốn được áp dụng từ thời Lý - Trần. Với mục đích vừa duy trì lực lượng quân
đội, vừa duy trì lực lượng sản xuất, đồng thời thể hiện quyền lực của nhà nước trung
ương trong việc can thiệp vào ruộng đất công làng xã.
1.3. Tình hình kinh tế
Sau khi đánh thắng quân xâm lược Minh, nhà Lê sơ bắt tay xây dựng lại nền kinh
tế Đại Việt bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Nông nghiệp, thủ công nghiệp được

phục hồi, riêng ngoại thương bị chính sách “trọng nông ức thương” hạn chế nên không
có điều kiện phát triển mạnh. Hệ thống đơn vị tiền tệ được điều chỉnh và áp dụng ổn
định kể từ thời Lê Thánh Tông.
Chế độ đô hộ của nhà Minh và cuộc chiến tranh giải phóng Tổ quốc đã tàn phá
nghiêm trọng nền kinh tế nước ta vốn đã suy yếu trong những thập kỉ cuối Trần. Hai
mươi năm dưới sự cai trị của quan quân xâm lược nhà Minh và 10 năm kháng chiến
giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, ruộng đồng, đất đai bị bỏ hoang rất nhiều,
trai tráng thì sung vào nghĩa quân đánh giặc, dân chúng thì phiêu bạt khắp nơi, nội tình
đất nước rối ren, diện tích đất canh tác trong nước vẫn chưa được khôi phục. Đất nước
trở lại độc lập, nhà nước và nhân dân với ý thức tự hào dân tộc sâu sắc đã hợp sức
cùng nhau nhanh chóng khôi phục sản xuất, hàn gắn các vết thương chiến tranh với
mục tiêu đưa nền kinh tế phát triển lên một giai đoạn mới ở thế kỉ XV. Để đảm bảo
an toàn cho sản xuất, nhà Lê chú trọng chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là
nền tảng của xã hội, chú trọng đến công tác khai hoang phục hóa. Nhờ chính sách
khai hoang, phục hóa mà tình trạng dân cư phiêu bạt, tha phương cầu thực xảy ra khắp
đất nước được chấm dứt. Nhiều làng xóm cũ và hàng loạt làng xóm mới được thiết lập
trong cả nước.

10


Nhà Lê rất chăm lo đến hệ thống thủy lợi, đê điều. Ở các đạo thừa tuyên đều có
chức quan hà đê chuyên phối hợp với các quan phủ, huyện trông nom, sửa đắp đê điều
và khuyến nông. Năm 1498, nhà nước ra quy định mỗi xã phải cử một xã trưởng
chuyên trách việc đê điều và khuyến nông.
Như vậy, chính sách trọng nông của nhà Lê thực sự đạt kết quả tốt. Đến nửa sau
thế kỷ XV, diện tích sản xuất tăng, tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước, bộ phận
nông dân tư hữu, tự do tăng lên, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh
tế nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và phát triển. Để nhớ lại thời kì này nhân
dân ca ngợi qua câu thơ:

“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”.
Sự phát triển của nông nghiệp đã tạo cơ sở cho các ngành thủ công nghiệp,
thương nghiệp có điều kiện phát triển nhanh chóng. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ được
hình thành đã tác động vào xã hội, vào hệ thống quan lại, từng bước gây nên sự đổi
thay trong chế độ chính trị và sự ổn định của đất nước.
1.4. Tình hình văn hóa, giáo dục
Vào cuối thế XIV, đầu thế kỉ XV, cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra với mục
tiêu đưa Nho giáo lên vị trí thống trị thay thế Phật giáo trước kia trong xã hội Lý Trần. Tuy nhiên, những cải cách của Hồ Quý Ly đang diễn ra thì cuộc xâm lược của
nhà Minh đã làm xã hội Đại Việt bị đứt gãy, công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly không
thể hoàn thiện được.
Năm 1428, nhà Lê sơ thành lập ra sức củng cố tư tưởng Nho giáo với mục tiêu
thiết lập nhà nước quân chủ quan liêu. Ngay từ khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Lợi đã hạ
lệnh dựng lại Quốc Tử Giám ở kinh đô, mở trường ở các lộ, ban chiếu “cầu hiền”.
Giáo dục được mở rộng cho mọi tầng lớp nhân dân. Các giáo quan được chọn lựa cẩn
thận. Năm 1435, dưới triều Thái Tông, các giáo quan ở kinh đô và các lộ được tập hợp
về kinh để khảo hạch, ai yếu kém thì bị sa thải.
“Năm 1429, Thái Tổ mở khoa thi Minh Kinh ở kinh đô, cho phép mọi người có
học đều được tham dự. Thái Tông cho các quan bàn định thể lệ thi cử, dự kiến đến
năm 1438 mở khoa Hương ở địa phương, năm sau đó mở khoa thi Hội ở kinh đô. Từ
đó cứ 3 năm mở một kì thi, ai đỗ thi Hội đều được phong là Tiến sĩ xuất thân. Lại định
rõ nội dung của 4 kì thi. Tuy nhiên, phải đến năm 1442, nhà nước mới mở được khoa

11


thi Hội đầu tiên, lấy 33 người đỗ (trong đó Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn
Như Đỗ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa). Bên cạnh các kì thi Đại khoa
này, nhà Lê cũng mở các khoa thi Lại viên với các môn toán và viết chữ”. [23, Tr.332]
Thời kỳ đầu do quan lại của nhà Lê tuyển dụng chủ yếu là những người có công

trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nên bộ phận trí thức Nho học hay trí thức quan liêu
chưa phát triển. Mặc dù vậy, Lê Lợi đã chú ý tới việc tuyển dụng quan lại thông qua
khoa cử cũng như nền giáo dục Nho học.
Tuy nhiên, sau khoảng 30 năm hình thành, tồn tại và phát triển, bộ phận quan lại
là những công thần trước kia đã không còn phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau bộ phận này mất dần vị trí vai trò của mình đối với
xã hội Đại Việt. Nhà Lê sơ, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông buộc phải tìm kiếm một
bộ phận khác trong xã hội có thể đảm đương trọng trách này và dĩ nhiên bộ phận trí
thức Nho học theo tư tưởng Nho giáo được Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến. Thời kì
Lê Thánh Tông vẫn tiếp tục phải thực hiện chính sách đa tộc nhưng là đa tộc văn trị
hay “đa tộc nhân trị” thay thế cho “đa tộc võ biền” trước kia.
Đồng thời với quá trình thay thế quyền lực chính trị trong hệ thống chính quyền
thì bộ phận trí thức Nho học cũng dần nắm những địa vị kinh tế quan trọng. Điều này
buộc Lê Thánh Tông phải ban hành hàng loạt chính sách ruộng đất mới để đáp ứng,
thích ứng với sự thay đổi của lịch sử.
Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy, đến thế kỉ XV lịch sử dân tộc chứng kiến sự hình thành, phát triển của
một vương triều mới, vương triều Lê sơ. Sự xuất hiện của nhà Lê sơ trong lịch sử với
hàng loạt những biện pháp tích cực đã đánh dấu những chuyển biến quan trọng về kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội Đại Việt. Những chuyển biến này tạo cơ sở tiền đề quan
trọng để đến thời đại Lê Thánh Tông có thể tiến hành cải cách trên tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt là ruộng đất, đưa đến sự xác lập của chế độ phong kiến trong lịch sử dân tộc.

12


CHƢƠNG 2
CHẾ ĐỘ BAN CẤP RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ THÁNH TÔNG (1460 - 1497)
2.1. Khái quát tình hình ruộng đất thời Lê sơ (1427 - 1460)
Cuộc khủng hoảng xã hội Đại Việt cuối Trần chưa được giải quyết thì chiến

tranh xâm lược của nhà Minh bùng nổ. Từ đầu năm 1407 cho đến cuối năm 1427, đất
nước hầu như không lúc nào ngừng chiến tranh. Nền sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng,
ruộng đất bị bỏ hoang ở khắp mọi nơi. Những cuộc đàn áp man rợ của kẻ thù làm giảm
hẳn số dân trong cả nước. Lực lượng sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng. Quân xâm lược
chiếm đất xây thành, dựng lũy và rào một số vùng làm binh đồn điền giao cho binh
lính cày cấy theo chế độ "ba phần giữ thành, bảy phần đồn điền". Quan lại, tướng giặc
cũng nhân đó ra sức cướp đoạt ruộng đất của nông dân rồi xin chỉ huy cấp lính cho chúng
để làm người cày. Thiên tai, mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra ở các năm 1407, 1409 và
năm 1410 càng khiến cho ruộng đất hoang hóa tăng lên nhanh chóng.
Mặt khác trong quá trình khởi nghĩa chống xâm lược, một số tướng lĩnh của
nghĩa quân Lam Sơn như Trần Quỹ, Trần Quý Khoáng đã dùng uy thế của mình mà
cướp đoạt ruộng đất của nhân dân, hành hạ bóc lột dân làng. Địa chủ địa phương,
cường hào lí dịch cũng nhân tình thế loạn lạc mà cướp đoạt xâm chiếm ruộng đất của
nhân dân hoặc những người li tán.
Tình thế đó đã làm bùng nổ những cuộc đấu tranh quyết liệt của quần chúng nhân
dân và hầu như những cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi đều là những cuộc khởi
nghĩa biết xuất phát từ thực trạng của đất nước và nêu cao khẩu hiệu "vừa cày ruộng,
vừa đánh giặc" như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Chích, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn
Phúc Trực, cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Hãn... Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Rõ ràng vấn đề nông nghiệp đã trở thành vấn đề bức thiết mà nghĩa quân Lam
Sơn phải giải quyết. Đặc biệt, cùng với quá trình giành thắng lợi của khởi nghĩa thì số
lượng lớn nô tỳ được giải thoát khỏi chủ, tham gia vào cuộc khởi nghĩa. Hàng loạt vấn
đề kinh tế, xã hội cấp thiết đặt ra: vấn đề ruộng đất, vấn đề nhân lực cho sản xuất nông
nghiệp, vấn đề giải phóng nô tỳ và chung cho tất cả là vấn đề khôi phục sản xuất trong
phạm vi cả nước. Nhà Lê ra đời sau một cuộc kháng chiến lâu dài và thắng lợi vẻ
vang, không thể không đảm nhận sứ mệnh lịch sử to lớn, giải quyết toàn bộ các vấn đề
xã hội đặt ra.
13



Khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn còn đang trong giai đoạn chiến đấu ác liệt với
phần thắng lợi nghiêng về phía quân dân nhà Lê thì Lê Lợi đã ra lệnh thu thuế ruộng
đất công để tích vào các kho và kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê quán nhận lại
ruộng cày cấy và dựng lại xóm làng. Theo ghi chép của Trương Hữu Quýnh: “Ngay từ
năm 1427, khi còn bao vây thành Đông Quan (Thăng Long), Lê Lợi đã ra lệnh thu
thuế ruộng đất công để tích trữ vào các kho và kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê
quán nhận lại ruộng đất cày cấy và xây dựng lại làng xóm. Ai không có điền sản thì
nhà nước cho phép tự buôn bán để sống. Tiếp đó, ra lệnh tịch thu tài sản, ruộng đất
của bọn ngụy quan và những kẻ chạy theo giặc” [24, Tr.177 - 178]. Những chính sách
ban đầu này của Lê Lợi thể hiện tầm nhìn xa trông rộng và sự quan tâm đến đời sống
dân chúng của một vị lãnh tụ tài ba.
Ngay sau khi giành được chính quyền và lên ngôi vua, Lê Thái Tổ (1428 - 1433)
đã thi hành hàng loạt chính sách nhằm tập trung lại toàn bộ số ruộng đất cỏ trong cả
nước để phân chia và ban bố lại một cách hợp lí. Đến cuối năm đó nhà Lê sơ lại hạ
lệnh cho các phủ huyện khám xét kiểm tra ruộng đất: “chỉ thị cho các phủ, huyện, trấn,
lộ khám xét các bãi ruộng đất... cùng ruộng đất đã xung công của các thế gia và
những người tuyệt tự và ruộng đất của những người đào ngũ” [16, Tr.297]. Đồng thời,
nhà nước tiến hành tịch thu toàn bộ ruộng đất của quan lại nhà Minh, quan lại theo
giặc, cùng với ruộng đất của các quý tộc Trần và toàn bộ số ruộng đất bị hoang hóa,
ruộng chùa đều được xung làm ruộng công. Lê Thái Tổ còn hạ lệnh cho cả nước làm
sổ ruộng, sổ đinh. Trên cơ sở đó, nhà nước chủ động phân phối ruộng đất. Ruộng đất
được phân chia làm 2 loại: ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, ruộng đất tư hữu. Ruộng
thuộc quyền sở hữu nhà nước là rất lớn, nắm trong tay số ruộng đất này nhà Lê sơ đã
nuôi sống bộ máy quan lại đồ sộ mà không phải dựa vào thu thuế ruộng đất tư... Nhà
Lê đã khẳng định quyền sở hữu tối cao của mình với lãnh thổ quốc gia. Đầu năm
1429, nhà Lê đã nắm trong tay một số ruộng đất lớn trong nước, cùng số đinh ghi
được là 700 suất, tổng diện tích ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước đã tăng lên và chắc
chắn đã chiếm ưu thế trong tổng diện tích của cả nước. Nhà nước trung ương có điều
kiện thuận lợi để thi hành một số chính sách cần thiết, phù hợp với lợi ích của giai

cấp mình, giải quyết các vấn đề do lịch sử đặt ra.
Trên cơ sở tình hình ruộng đất mới, trên cơ sở các tập sổ ruộng mới hoàn thành,
nhà Lê đã ban hành một chính sách ban thưởng ruộng đất rộng rãi và thống nhất lại

14


cách phân chia ruộng công ở các làng xã, nhằm giải quyết triệt để vấn đề nhân công
cho nông nghiệp. Theo ghi chép của Trương Hữu Quýnh phong thưởng ruộng đất
được tiến hành theo hai cách: “hoặc là nhà nước dựa vào các sở ruộng mới lập xong,
tính các khu đất công cho đủ số lượng mà cấp, hoặc là nhà nước cho phép các công
thần được tự mình lựa chọn vùng đất phong thưởng. Diện tích ruộng đất phong
thưởng cho từng người là từ 400 - 500 mẫu. Tuy nhiên đối với một số trường hợp đặc
biệt, diện tích ruộng đất ban cấp có thể xê xích ít nhiều” [24, Tr.181]. Nguồn gốc của
nhà Lê thực hiện chính sách phong thưởng ruộng đất cho các công thần (hay chính
sách huân điền). Ruộng đất phong thưởng nói chung là ruộng của các họ tuyệt tự trong
chiến tranh, ruộng bỏ hóa, đất hoang có thể khai khẩn được. Theo ghi chép của Trương
Hữu Quýnh: “đây không phải là ruộng công hiện canh đã thành thuế lệ” [24, Tr.183],
nghĩa là nhà nước không lấy ruộng đất công đang được cày cấy và chịu thuế để phong
thưởng cho các công thần. Tất nhiên, trong khi sung công, ruộng đất của thế gia và
nhân dân tuyệt tự, sử dụng nó vào việc phong thưởng, nhà Lê đã dùng quyền sở hữu
tối cao của mình để cướp đoạt số ruộng đất mà nông dân, nông nô, nô tì đã nhân lúc
chủ tuyệt tự mà biến thành tài sản riêng. Song, phần lớn số ruộng còn lại là ruộng đất
bỏ hoang hóa. Như vậy, chính sách phong thưởng của nhà Lê cũng đạt được những kết
quả quan trọng, đặc biệt trong vấn đề ổn định, khôi phục sản xuất sau chiến tranh.
Tuy nhiên, đến giai đoạn sau số lượng các công thần suy giảm nhanh chóng. Những
người có công với công cuộc xác lập của vương triều Lê sơ thời kỳ đầu đã không còn
nhiều. Điều này buộc nhà Lê sơ phải thay đổi cách thức tuyển dụng trong bộ máy chính
quyền từ công thần chuyển sang tri thức Nho học. Cùng với quá trình đó, chế độ phân
phong ruộng đất của nhà nước phong kiến buộc phải có sự thay đổi. Ruộng đất dùng để

ban thưởng ở giai đoạn sau thì chủ yếu gồm 2 loại: ruộng công (quan điền) và ruộng ngoài
sổ thuế, đất hoang khai khẩn được. Chính sách phong thưởng ruộng đất như vậy không
thể không động chạm đến ruộng đất mới khai hoang được của những nông dân nghèo, lưu
tán. Vả lại, khi cho phép viên quan “được phong cấp tự tìm lấy, tâu lên” [24, Tr.188], nhà
nước đã khẳng định cho mình quyền cướp đoạt ruộng đất của nhân dân. Dĩ nhiên, đó là
một biểu hiện của quyền sở hữu tối cao của nhà nước về toàn bộ lãnh thổ trong nước.
Song chính sách phong thưởng này không còn có ý nghĩa tích cực như chính sách trước.
Tóm lại, với chính sách phong thưởng ruộng đất cho các công thần ở buổi đầu thời
Lê đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục sản xuất nông nghiệp thì càng về sau

15


chính sách phong thưởng chủ yếu là sự phân chia nguồn thu đại tô, sự phân chia
quyền lợi, trên cơ sở bóc lột nhân dân lao động của nhà nước phong kiến cùng với hệ
thống quan lại, và mở rộng diện tích của giai cấp địa chủ trong nước. Dĩ nhiên, đối
với bộ phận ruộng đất này, nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu. Mặc dù tính chất chiếm
hữu của các công thần là thế nghiệp, nhà nước có thể giữ nguyên, giảm bớt hay tước
đoạt hoàn toàn những ruộng đất phong thưởng này. Chế độ phong cấp ruộng đất thế
nghiệp đã củng cố chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, góp phần tạo điều kiện cho sở
hữu tư nhân phát triển. Con đường tư hữu hóa ruộng phong thưởng dần dần trở thành
quy luật tất yếu.
2.2. Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
Chế độ lộc điền
Khác hẳn với các triều Lý - Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp.
Trong số ruộng công, một bộ phận được đem phong thưởng cho các công thần, ban
cho các quý tộc và quan lại, gọi là lộc điền. Các thân vương, hoàng tộc có thể được
cấp tới 2000 mẫu ruộng (500 mẫu trong đó là đất tập ấm thừa kế); các quan chính nhất
phẩm được cấp 200 mẫu ruộng (trong đó 20 mẫu là đất tập ấm thừa kế). Thời Hậu Lê,

chế độ bổng lộc này chính thức được ban hành vào năm 1477, đời Lê Thánh Tông
gồm cả ruộng đất như một hình thức lương bổng qua tô tức.
Đối tượng được cấp
Năm 1471, Lê Thánh Tông ra dụ “Hiệu định quan chế” nhằm cải tổ lại bộ máy
quan liêu, củng cố nền chính trị quân chủ trung ương tập quyền. Sau đó, năm 1477, Lê
Thánh Tông quy định chế độ bổng lộc cho quan lại, quý tộc, quan liêu từ cấp cao nhất
đến cấp thấp nhất đều được cấp một số tiền bổng hàng năm tính theo phẩm cấp. Thể lệ
cấp tiền bổng hàng năm này được ghi chép trong các sách Kiến văn tiểu lục (Lê Quý
Đôn), Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Khâm định Việt sư thông
giám cương mục, được cấp một số đất làm vườn; những quý tộc quan lại cao cấp từ
tước bá trở lên được cấp một số thực hộ; còn ruộng đất thì quý tộc, quan lại cao cấp do
Nhà nước trực tiếp cấp gọi là lộc điền, quan lại cấp dưới thì được cấp công điền ở xã
thôn như ruộng khẩu phần nhưng nhiều hơn các tầng lớp người dân.
Những bổng lộc của quan lại thời Lê sơ gồm: tiền cấp hàng năm gọi là tuế bổng,
một số hộ để sai phái nộp thuế gọi là thực hộ, một số ruộng được hưởng dụng hoàn

16


toàn gọi là lộc điền. Chế độ lộc điền này đã xuất hiện trong những thời đại trước,
nhưng đến thời Lê sơ mới thịnh hành và trở thành chế độ quyền lợi căn bản của tầng
lớp quan liêu.
Đối tượng được cấp gồm: Quan lại từ tứ phẩm trở lên thường nắm giữ các trọng
chức trong triều hay đứng đầu các khu vực hành chính như Thân vương, Tự thân
vương, Phò mã, Quốc công, Quận công, Tước hầu, Tước bá, Chánh nhất phẩm, Tòng
nhất phẩm, Chánh nhị phẩm, Tòng nhị phẩm, Chánh tam phẩm, Tòng tam phẩm,
Chánh tứ phẩm, Tòng tứ phẩm, Thân công chúa, Phi tần trong cung (như Tam phi,
Tam chiêu, Tam tư, Tam sung); Lục chức (như Nhất cấp, Nhị cấp, Tam cấp, Tứ cấp,
Ngũ cấp, Lục cấp)...
Như vậy, người được cấp là những quan lại cao cấp từ thân vương đến tòng tứ

phẩm và những người thân thuộc gần gũi nhà vua, các nữ quan thân cận trong triều.
Quan lại từ tứ phẩm trở lên thường nắm giữ các trọng chức trong triều hay đứng đầu
các khu vực hành chính. Chế độ lộc điền là đặc quyền của tầng lớp cao nhất trong bộ
máy nhà nước thời Lê sơ.
Số lượng ban cấp
Theo Thiên nam dư hạ tập thì năm 1471, tổng số quan lại của nhà Lê là 5.370
người, trong đó có 899 quan văn, 1.910 quan võ, 446 tòng quan và 2.615 quan ngoài
(gồm cả văn võ, tạp chức). Như vậy, số quan lại được hưởng chế độ lộc điền không
nhiều lắm, chỉ khoảng 200 người (25 đại thần từ chánh nhị phẩm trở lên, 24 ở 6 bộ, 13
thừa tuyên sứ... Nếu chính sách lộc điền được thi hành đầy đủ thì số ruộng ban cấp chỉ
lên đến 1 vạn mẫu.
Trong khi đó, số ruộng đất ban cấp cho hoàng tộc, cung phi, thân tộc, nữ quan thì
lớn hơn nhiều (theo các nguồn sử liệu thì các vua Lê đều có hàng chục, thậm chí hàng
trăm cung phi và hàng chục con cái). Tổng số ruộng đất đem ban cấp như vậy có thể
lên đến 4-5 vạn mẫu. Nhà nước thực hiện ban cấp lộc điền nhưng nhà nước vẫn giữ
quyền sở hữu đối với bộ phận ruộng đất đó.
Các quý tộc, quan lại từ tứ phẩm trở lên, các tòng phụ, nữ quan được ban cấp một
số ruộng lộc như sau:

17


TƢỚC PHẨM

TỔNG SỐ
RUỘNG
ĐẤT
RUỘNG BÃI RUỘNG RUỘNG
THẾ
THẾ

ÂN TỨ DÂU
TẾ
CẤP CÙNG
NGHIỆP NGHIỆP
(MẪU) (MẪU) (MẪU) MỘT LÚC
(MẪU) (MẪU)
(MẪU)

1. QUÝ TỘC,
QUAN LẠI
Thân vương

600

40

1000

150

300

1790

Tự thân vương

450

35


400

110

250

995

400

34

300

90

200

824

350

32

300

90

180


772

300

30

260

80

160

670

200

28

230

70

140

498

Chánh nhất phẩm

18


100

30

70

148

Tòng nhất phẩm

16

80

30

60

126

Chánh nhị phẩm

14

60

20

50


94

Tòng nhị phẩm

12

50

10

40

72

Chánh tam phẩm

10

40

35

50

Tòng tam phẩm

8

30


20

38

Chánh tứ phẩm

6

20

15

26

Tòng tứ phẩm

4

12

10

19

36

600

100


200

1186

Quận thượng chúa

18

80

28

60

126

Quận chúa

16

50

26

50

92

Á quận chúa


14

40

12

40

66

Quận quân

12

35

8

35

55

Á quận quân

10

30

30


40

Huyện thượng quân

8

25

25

33

Vinh phong quốc
công
Vinh phong quận
công
Vinh phong hầu
Vinh phong bá

2. TÒNG PHỤ,
NỮ QUAN
Thân công chúa

450

18


Huyện quân


6

20

20

26

Á huyền quân

4

15

15

19

Tam phi

30

300

60

150

390


Tam chiêu

24

200

50

100

274

Tam tu

22

150

45

90

217

Tam sung

20

100


30

80

150

Nữ quan nhất cấp

18

70

15

70

103

Nữ quan nhị cấp

14

40

10

40

64


Nữ quan tam cấp

8

30

30

38

Nữ quan tứ cấp

7

25

25

32

Nữ quan ngũ cấp

6

20

20

26


Nữ quan lục cấp

5

15

15

20

Mệnh phụ quốc
Thái phu nhân

50

15

40

65

Quốc phu nhân

40

10

30

50

[24, Tr.191 - 193]

“Ngoài ra các thân vương còn được cấp 500 hộ thật phong, 500 hộ người hầu,
200 hộ mắm, muối. Tự thân vương được cấp 200 hộ thật phong, 120 hộ người hầu, 70
hộ mắm muối” [24, Tr.194]. Theo ghi chép của GS. Trương Hữu Quýnh: Năm 1473, Lê
Thánh Tông cũng ban hành chế độ cấp đất ở kinh thành cho các công thần, quan lại:
Tƣớc phẩm

Đất ở

Ao

Tƣớc phẩm

Đất ở Ao

Côngthần phong vương

5 mẫu

4 mẫu

Nhất phẩm

1 mẫu O

Công

4 mẫu


3 mẫu

Nhị phẩm

8 sào

Quận chúa

2,5 mẫu

2 mẫu

Tam phẩm

7 sào

Hầu

2,5 mẫu

2 mẫu

Tứ, ngũ phẩm

6 sào



2 mẫu


1,5 mẫu

Lục, thất phẩm

5 sào

Tử

1,5 mẫu

9 sào

Bát cửu phẩm

4 sào

Nam

1,2 sào

7 sào
[24, Tr.194]

19


Loại hình ban cấp
Ruộng lộc điền gồm có ruộng, đất, ao, đầm do nhà nước trực tiếp ban cấp bao gồm:
Các loại ruộng dùng để ban cấp (Thế nghiệp điền; Thế nghiệp thổ; Tứ điền; Bãi dâu;
Đầm (ban bằng tiền) và ruộng đất dùng để ban thưởng.

Ruộng đất được ban cấp gồm 2 hình thức: cấp vĩnh viễn và cấp tạm thời.
Thứ nhất, nhà nước tiến hành cấp vĩnh viễn một số lượng ruộng đất nhất định cho
người được ban cấp. Người được ban cấp có quyền chiếm hữu và sử dụng như ruộng
đất tư (thế nghiệp điền, thế nghiệp thổ). Loại hình ban cấp này chỉ cấp cho vương hầu, công
chúa (công thần phong vương, công, quận chúa, hầu, bá) với diện tích lớn từ hàng trăm đến
hàng nghìn mẫu, được truyền lại cho con cháu hưởng lộc đời đời. Phan Huy Chú trong
Lịch triều hiến chương loại chí nhận xét: “Những hoàng tôn và quần thần ai lập được
quân công và có đủ tài đều được đặc cách vinh phong. Công, hầu, bá thì được ban cho
ruộng làm thế nghiệp, lưu truyền cho con cháu. Nhưng đến lúc phong mới có chỉ
chuẩn, không phải lệ thường”(q.18).Cương mục cũng nhận xét: “Ai có tài đức huân
nghiệp thì đặc tứ ruộng đất thế nghiệp truyền cho con cháu, đều lâm thời theo chỉ,
chưa phải là lệ thường”(q.23). Như vậy, ruộng đất ban cấp vĩnh viễn này tương đối ít,
thêm nữa việc ban cấp không đồng nghĩa với trao quyền mua bán, chuyển nhượng nên
không tạo thành quyền sở hữu thực sự.
Thứ hai, loại ruộng đất được cấp tạm thời cho người được ban cấp - ruộng ân tứ (tứ
điền), bãi dâu, đầm (ban bằng tiền). Đối tượng được cấp là quan lại từ tòng tứ phẩm trở lên
(chức Tam thái, tam thiếu, Thượng thư 6 bộ, Đô ngự sử, tả hữu thị lang, tông nhân phủ tả
hữu tông chính, tả hữu xuân phường, tả hữu dụ đức, thừa tuyên sứ, hàn lâm viện thừa chỉ,
phó đô ngự sử tả hữu trung doãn, đông các đại học sĩ, quốc tử giám tế tử thông chính sứ,
tham chính, các chức quan võ cấp tương ứng…). Nhà nước cho hưởng dụng nhưng không
cho quyền sở hữu như ghi chép của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại
chí: “Những hoàng tôn và công, hầu, bá, các quan văn vũ được triều đình ban cho
ruộng đất, bãi dâu, ao đầm, sau khi chết ba năm thì con cháu phải chiếu số trả lại,
không được ẩn lậu chiếm nhận” (q.18). Số lượng khoảng từ 15 - hơn 100 mẫu.
Xét về số lượng của ân tứ, bãi dâu được ban cấp như trên thì không phải là nhỏ. Phan
Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí nhận xét: “việc định bổng lộc ở thời
Hồng Đức tùy theo nơi nhiều hoặc ít việc có thể rút bớt số lương bổng, hạ thấp phẩm
trật để số lương xứng đáng với việc làm. Đó là bổng lộc một năm xem ra có phần ít ỏi,

20



nhưng về phần cấp ruộng, bãi dâu, ao đầm lại rất hậu” (q.18).
Như vậy, nếu xét tổng thể chế độ ban cấp lộc điền được thực hiện đầy đủ như
trên thì tổng số diện tích ban cấp lớn đến hàng nghìn mẫu. Lê Qúy Đôn trong Kiến
văn tiểu lục sau khi theo Thiên Nam dư hạ tập sao chép lại thể lệ lộc điền thời
Hồng Đức, cũng phải hoài nghi:“Điền lộc ấy thấy chép trong Dư hạ tập, nhưng có
danh không thực vậy” (q.2- Thể lệ). Sau này khi đọc sách Cương mục chép về chế
độ lộc điền thời Lê sơ, Tự Đức cũng kinh ngạc và “ngự phê” rằng: “Thời ấy đất cát
chưa nhiều mà phong cấp ruộng đất như thế thì công thuế còn được bao nhiêu, sợ
chưa đủ tin vậy” (q.23).
Ruộng đất dùng để ban thưởng thời gian này chủ yếu gồm hai loại là ruộng công
làng xã (quan điền) và ruộng ngoài sổ thuế, đất hoang tự khai khẩn được. Chính sách
ban thưởng này trên thực tế có ảnh hưởng đến ruộng mới khẩn hoang của nông dân
nghèo, lưu tán. Mặc dù điều đó có thể khẳng định quyền sở hữu tối cao của nhà nước
về ruộng đất nhưng nó không còn ý nghĩa tích cực như chính sách trước.
Ruộng đất để ban thưởng được Lê Quý Đôn chép lại sự kiện phong cấp ruộng đất
năm Hồng Đức thứ 2 (1471) như sau: “Phàm ruộng đất và bãi dâu các xứ phải nộp
thuế vào quan, chỗ nào còn để ẩn lậu chưa biên vào sổ sách thì viên quan được cấp có
thể tự tìm thấy, rồi làm giấy tâu lên triều đình. Bộ hộ sẽ giao cho ty Thừa, Hiến khám
thực, không kể chỗ ấy là ruộng hoang hay ruộng thục, sau đó bộ Hộ tâu bày, sẽ có chỉ
chuẩn cấp phát. Trừ số ruộng cấp làm phong hộ đi rồi, còn lại bao nhiêu thì cho phép
dân địa phương trồng cây nộp thuế”. [8, Tr.170]
Tóm lại, chế độ lộc điền là chế độ ban cấp ruộng đất, ao, bãi cho tầng lớp quan
lại cao cấp và những người thân thuộc trong hoàng tộc [13, Tr.9]. Chế độ lộc điền thời
Lê sơ so với chế độ phong cấp, ban cấp thái ấp thời Lý, Trần là một bước tiến. Với chế
độ thực phong, nhà nước cấp ruộng đất và cấp cả người sống trên ruộng đất ấy. Còn
ban cấp lộc điền tức là cấp ruộng đất không cấp người nông dân trên ruộng đất. Người
được cấp chỉ có quyền hưởng dụng thu tô (tức là lộc), còn nông dân cày ruộng ấy vẫn
là thần dân của nhà vua. Do đó chế độ lộc điền không đưa đến sự hình thành những

vùng biệt lập.
Chế độ quân điền
Để khẳng định sự tồn tại của vương triều, Lê Thánh Tông đã tiến hành hàng loạt
cải cách về mặt chính trị, luật pháp, giáo dục thi cử và đặc biệt về mặt kinh tế trong

21


×