Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời lê thánh tông và ý nghĩa đối với công tác cán bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 98 trang )

LUẬN VĂN:

Chính sách đào tạo và sử dụng quan
lại thời Lê Thánh Tông và ý nghĩa đối
với công tác cán bộ hiện nay


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và cùng với nó là sự xuất hiện của Nhà nước
thì chính trị và con người chính trị cũng ra đời. Con người chính trị có vai trò rất to lớn,
là nhân tố quyết định sự vận động và phát triển của chính trị nói riêng, của toàn xã hội
nói chung. Nếu quyền lực chính trị được xác lập trên thực tế thông qua bộ máy nhà nước
hay tổ chức chính quyền nhà nước – cái quan trọng nhất trong chính trị - thì Nhà nước đó
hoạt động như thế nào, có thực hiện được các chức năng của nó hay không lại phụ thuộc
rất nhiều vào những chủ thể nắm quyền lực chính trị. Ở Việt Nam, dưới các triều đại
phong kiến dân tộc theo mô hình Nho giáo, vua – quan là chủ thể quyền lực chi phối toàn
bộ sự hoạt động xã hội. Bộ máy quyền lực nhà nước đó do vua đứng đầu và bên dưới là
đội ngũ quan lại các cấp mà ngày nay trong đời sống chính trị nước ta chính là đội ngũ
cán bộ, công chức.
Lịch sử Việt Nam là quá trình đấu tranh lâu dài, gắn liền giữa dựng nước và giữ
nước, thường xuyên phải đối mặt với thiên tai và giặc ngoại xâm. Bởi thế, việc tập hợp
lực lượng, xây dựng sức mạnh đoàn kết dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu. Để giải
quyết thành công các nhiệm vụ đó, Nhà nước phong kiến Việt Nam nhất là trong các giai
đoạn phục hưng và phát triển mạnh mẽ của dân tộc đều coi trọng việc đào tạo, sử dụng
đội ngũ quan lại nhằm tăng cường sức mạnh của Nhà nước cũng như đảm bảo hiệu quả
và hiệu lực của chính quyền các cấp.
Vào nửa cuối thế kỷ XV, vương triều Lê Thánh Tông (1460-1497) đã đạt được
những thành tựu rực rỡ trong xây dựng và phát triển đất nước, được xem là đỉnh cao sự
phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Với thời gian 38 năm trị vì, Lê Thánh Tông


đã đưa nước Đại Việt trở thành một quốc gia hùng cường trong khu vực Đông Nam Á lúc
bấy giờ cả về mặt kinh tế, chính trị và văn hoá – xã hội. Nhà nước Đại Việt được củng cố
vững chắc, thống nhất theo mô hình nhà nước quân chủ trung ương tập quyền và thực
hiện việc cai trị đất nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Gắn liền với việc xây dựng,
củng cố thể chế chính trị quân chủ trung ương tập quyền tuyệt đối theo hệ tư tưởng Nho


giáo, Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm xây dựng con người chính trị, trọng tâm là vấn đề
đào tạo và sử dụng quan lại. Vì vậy, đội ngũ quan chức triều đình cũng như quan lại địa
phương đã được tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng cả về trình độ, đạo đức và
năng lực, đáp ứng kịp thời đòi hỏi sự phát triển của đất nước. Chính sách đào tạo và sử dụng
quan lại thời Lê Thánh Tông trở thành “khuôn phép”, hay “chế độ” như các sử gia phong
kiến đã đánh giá để các triều đại sau đó noi theo, xem như mẫu mực cho việc tổ chức và xây
dựng bộ máy nhà nước vững mạnh. Dưới góc nhìn của chính trị học ngày nay, có thể nói
triều đại Lê Thánh Tông đã có nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con người chính trị
và thể chế chính trị, thấy được vai trò quyết định của đội ngũ quan lại cũng như của việc
dùng người trong hoạt động chính trị vì đó là “cội gốc để tiến lên trị bình”, đồng thời cũng là
“thềm bậc để đi đến hoạ loạn” như lời nhà Vua nói với thượng thư các bộ vào năm 1643 [48,
tr.399].
Từ khi thành lập, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, coi đó là “nhân
tố quyết định mọi thành bại của cách mạng” trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ cũng như trong giai đoạn đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước
hiện nay. Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và hội nhập quốc tế, công tác cán bộ càng trở nên quan trọng, là “khâu then chốt”
của công tác xây dựng đảng. Bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được, đội ngũ cán bộ
và công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của đất
nước trong giai đoạn phát triển mới.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu chính sách dùng người trong chính trị dưới thời Lê
Thánh Tông thể hiện sự kế thừa và phát huy những tiềm năng vốn có của dân tộc trong
kho tàng tư tưởng chính trị Việt Nam truyền thống, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ

trong sạch, vững mạnh đảm bảo cho công cuộc đổi mới thành công. Chính vì thế, tác giả
chọn đề tài “Chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và ý nghĩa
đối với công tác cán bộ hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước tới nay, nhiều công trình nghiên cứu về sử học, văn học, triết học, chính
trị học, lịch sử tư tưởng, văn hoá, giáo dục Việt Nam của nhiều tác giả trong nước được


công bố. Trong các công trình đó, dưới góc độ tiếp cận khác nhau của các khoa học cụ
thể, một số tác giả đề cập đến vấn đề đào tạo và sử dụng đội ngũ quan lại cũng như việc
dùng người trong chính trị của các nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử. Có thể
dẫn ra một số công trình nghiên cứu của các tác giả sau đây.
Bàn về con người chính trị Việt Nam, nổi bật là công trình nghiên cứu Con người
chính trị Việt Nam - Truyền thống và hiện đại của một nhóm tác giả của Viện Chính trị
học thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh do GS.TS Nguyễn Văn
Huyên (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2009. Tác phẩm đã hệ thống
những vấn đề lý luận cơ bản về con người chính trị cũng như thực tiễn con người chính
trị Việt Nam trong truyền thống và thời hiện đại, đồng thời xác định những yêu cầu mới
đối với con người chính trị Việt Nam hiện nay.
Trong cuốn Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 do
Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1996, các tác giả đã phân
tích cụ thể về nội dung, phương pháp và kết quả đạt được trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
ở nước ta từ thế kỷ X đến năm 1945, trong đó nhấn mạnh những đóng góp tích cực của
nền giáo dục Nho học vào việc đào tạo đội ngũ quan lại cho các triều đại phong kiến dân
tộc.
Về vấn đề sử dụng nhân tài, cuốn Phương sách dùng người của ông cha ta trong
lịch sử của GS. Phan Hữu Dật (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 1994 và
cuốn Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt
Nam của Phạm Hồng Tung, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2008 đã khái quát
nhận thức của ông cha ta về vai trò của người tài cũng như những kinh nghiệm, biện pháp

thu hút, sử dụng hiền tài trong lịch sử Việt Nam, chủ yếu dưới thời phong kiến.
Triều đại Lê Sơ, nhất là thời Lê Thánh Tông là giai đoạn phát triển tiêu biểu trong
lịch sử Việt Nam truyền thống. Lê Thánh Tông là một trong những vị vua anh minh trị vì
lâu, có nhiều đóng góp về mặt tư tưởng chính trị cũng như trong thực tiễn cai trị đất
nước. Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập I do PGS.TS Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, năm 1993, đã dành riêng một chương bàn về thế giới quan, tư
tưởng chính trị - xã hội và đường lối trị nước của Lê Thánh Tông.


Năm 2002, trong cuốn Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh
Tông đến Minh Mệnh, PGS.TS. Nguyễn Hoài Văn đã đi sâu phân tích những đóng góp
của Lê Thánh Tông trong việc vận dụng, phát triển Nho giáo thành hệ tư tưởng chính trị
chính thống, sử dụng nó trong việc cai trị đất nước, đào tạo và xây dựng đội ngũ quan lại
đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước nửa cuối thế kỷ XV.
Trước đó, tại Hội thảo kỷ niệm 500 năm ngày mất của Lê Thánh Tông do Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (thuộc Đại học quốc gia Hà Nội) tổ chức năm
1997, đã có nhiều tác giả bàn về đường lối trị nước và các chính sách thời Lê Thánh
Tông trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội và an ninh - quốc phòng. Trong
đó có một số chuyên đề đáng chú ý như: Về đường lối trị nước của Lê Thánh Tông của
PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ; Suy nghĩ về cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông của
GS.TS Trương Hữu Quýnh; Vua Lê Thánh Tông và pháp luật của TS. Bùi Xuân Đính;
Cải cách quan lại địa phương dưới thời Lê Thánh Tông của Nguyễn Hoàng Anh;… Cũng
trong năm 1997, Nghiên cứu sinh Đặng Kim Ngọc đã bảo vệ thành công Luận án Phó
Tiến sĩ Khoa học Lịch sử với đề tài Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ
(1428-1527), trong đó có một số kết quả nghiên cứu về lĩnh vực này thời Lê Thánh Tông.
Trong những năm gần đây, trên các tạp chí nghiên cứu cũng đã công bố một số bài
viết, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đào tạo, tuyển chọn và sử dụng quan lại như
Tuyển chọn quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh: Di sản kế thừa và
tham khảo của Bùi Huy Khiên trên Tạp chí Quản lý nhà nước, số 144 năm 2008 ; Tuyển
chọn và sử dụng quan lại ở nước ta thời kỳ trung đại của TS. Đỗ Minh Cương trên Tạp chí

Xây dựng Đảng, số 9 năm 2006; Ông cha ta sử dụng hiền tài của Lê Văn Huân trên Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 2+3 năm 2008; Tuyển chọn và sử dụng quan chức: Cách làm của ông
cha ta của Bùi Xuân Đính trên Báo Tiền phong số 40 năm 2009 …
Các công trình, ấn phẩm nói trên đề cập đến con người chính trị Việt Nam hoặc
vấn đề đào tạo, sử dụng đội ngũ quan lại trong lịch sử Việt Nam truyền thống nói chung,
hoặc phân tích về tư tưởng chính trị hay một số khía cạnh có liên quan đến việc đào tạo
và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông nhưng chủ yếu tiếp cận dưới góc độ sử học, văn
học, triết học, lịch sử tư tưởng và văn hoá, giáo dục. Việc sử dụng con người chính trị với


tư cách là một hoạt động cơ bản và quan trọng trong thực thi quyền lực chính trị đã được
các nhà khoa học quan tâm nhưng chưa nhiều. Chính sách đào tạo và sử dụng quan lại
thời Lê Thánh Tông dưới góc nhìn chính trị học vẫn còn là khoảng trống cần được nghiên
cứu, tìm hiểu một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Tuy nhiên, những công trình khoa học
của các học giả, các nhà nghiên cứu kể trên là rất quý báu để tác giả luận văn có điều
kiện kế thừa, đồng thời vừa có thể tự hệ thống và khám phá độc lập trong nghiên cứu
riêng của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ chính sách đào tạo và sử dụng quan lại dưới thời Lê
Thánh Tông. Từ đó rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử thông qua liên hệ với thực tiễn công
tác cán bộ hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời
Lê Thánh Tông.
+ Trình bày một cách có hệ thống những chính sách, biện pháp thực hiện và kết quả
đạt được trong việc đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông.
+ Rút ra ý nghĩa thực tiễn cũng như mối liên hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại của tư duy chính trị Việt Nam nhằm đáp ứng những yêu cầu của công cuộc đổi

mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê
Thánh Tông thông qua những tư liệu lịch sử gốc như các văn bản chiếu, chỉ, lệnh dụ của
Lê Thánh Tông được ghi chép trong các bộ chính sử, các bộ luật, các bộ sách lịch sử
chính yếu như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Quốc triều hình
luật, Lê triều quan chế… cũng như lời nói, việc làm của Lê Thánh Tông trong lãnh đạo,


quản lý đất nước để phân tích, đánh giá và hệ thống hoá về chính sách đào tạo và sử dụng
quan lại thời kỳ này.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào giai đoạn lịch sử Việt Nam thế kỷ XV dưới
triều Lê Sơ, trong đó đi sâu vào nửa cuối thế kỷ XV - thời kỳ trị vì của Lê Thánh Tông
(1460-1497).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
trị và con người chính trị. Luận văn cũng dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ.
Trên cơ sở đó, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử - logíc, đồng thời
kết hợp nhiều phương pháp khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp hệ thống, khái quát hoá.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Là luận văn thạc sỹ Chính trị học đầu tiên nghiên cứu về chính sách đào tạo và sử
dụng quan lại thời Lê Thánh Tông. Luận văn góp phần trình bày một cách có hệ thống,
nhiều phương diện và đầy đủ hơn về chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê
Thánh Tông dưới góc độ của khoa học chính trị, đồng thời nêu lên những giá trị lịch sử
cũng như ý nghĩa của chính sách này đối với công tác cán bộ hiện nay.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hệ thống, đánh giá những giá trị tiêu biểu trong đường lối trị nước cũng như làm sâu sắc
thêm tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông - một nhà lãnh đạo Nhà nước xuất sắc và nhà
hoạt động tư tưởng, văn hoá, giáo dục lớn của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XV.
- Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về lịch
sử tư tưởng chính trị Việt Nam và khoa học chính trị nói chung.
8. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO
VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI THỜI LÊ THÁNH TÔNG

1.1. BỐI CẢNH VIỆT NAM THẾ KỶ XV VÀ SỰ LÊN NGÔI CỦA LÊ
THÁNH TÔNG
1.1.1. Về kinh tế - xã hội
Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược do nhà Hồ tiến hành thất bại
nhanh chóng vào năm 1407, Đại Việt rơi vào ách đô hộ tàn bạo của quân xâm lược nhà
Minh liên tục suốt hai mươi năm. Nền sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng, thiên tai, mất
mùa, đói kém liên tiếp xảy ra. Vì vậy, sau khi giành được quyền tự chủ, Lê Thái Tổ - vị
vua đầu tiên của vương triều Lê Sơ – đã thi hành các biện pháp khôi phục sản xuất nông
nghiệp, giải quyết một số vấn đề an sinh xã hội. Sau đó, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông
tiếp tục chính sách xây dựng đất nước, trọng tâm là lĩnh vực kinh tế. Cuộc sống tương đối
thanh bình được người dân khi ấy truyền tụng: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông. Thóc lúa
đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn” [34, tr.215]. Đến thời Lê Thánh Tông, kinh tế Đại Việt

phát triển mạnh mẽ, vững chắc, góp phần bảo đảm đời sống nhân dân và duy trì sự ổn
định xã hội.
Nông nghiệp, với vai trò nền tảng kinh tế của xã hội phong kiến, Nhà nước Lê Sơ
chủ trương “trọng nông”, nhất là thời Lê Thánh Tông với nhiều biện pháp như khôi phục
và mở rộng diện tích đất nông nghiệp, chăm lo đê điều, xây dựng các công trình thuỷ lợi,
bảo vệ mùa màng, bảo vệ sức lao động nông nghiệp, khai khẩn ruộng hoang vùng ven biển
và đất trung du, lập đồn điền, phát triển các nghề trồng dâu nuôi tằm… Điểm nổi bật trên
lĩnh vực kinh tế là thi hành chính sách mới về ruộng đất với chế độ lộc điền và chế độ quân
điền được Nhà nước xây dựng thành quy chế pháp lý chặt chẽ đã có tác dụng tích cực làm
phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp, thúc đẩy sức sản xuất của xã hội, kích thích
sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Khác hẳn với các triều Lý - Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem ruộng
đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ lộc


điền được thi hành ngay từ những triều vua đầu tiên của nhà Lê, nhưng chưa trở thành
quy chế. Đến thời Lê Thánh Tông mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả
nước vào năm 1477. Theo đó, người được cấp là “những quan lại cao cấp từ thân vương
đến tòng tứ phẩm và những người thân thuộc gần gũi nhà Vua, các nữ quan thân cận
trong triều” và “quan lại từ tứ phẩm trở lên thường nắm giữ các trọng chức trong triều
hay đứng đầu các khu vực hành chính” [27, tr.20]. Chế độ lộc điền là đặc quyền của tầng
lớp cao nhất trong giai cấp thống trị, bao gồm hai phần: một phần nhỏ là Nhà nước cấp
vĩnh viễn, người được cấp có toàn quyền sở hữu gọi là ruộng đất thế nghiệp; còn phần
lớn lộc điền thuộc loại ban cấp tạm thời, người được cấp chỉ có quyền chiếm hữu và sử
dụng trong một đời, trong đó có quyền phát canh thu tô, sau khi người được cấp lộc điền
chết ba năm phải trả lại cho Nhà nước. Bằng chế độ lộc điền, Nhà nước đã hạn chế và đi
đến thủ tiêu nền kinh tế điền trang thái ấp, thúc đẩy phát triển giai cấp địa chủ, đánh dấu
một bước tiến trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam.
Chế độ quân điền được thực hiện ngay sau khi hoàn thành công cuộc giải phóng
đất nước, khi chính quyền đã được củng cố và Nhà nước đã điều tra xong tài sản ruộng

đất trong toàn quốc. Vào năm 1477, Lê Thánh Tông đã hoàn chỉnh chế độ quân điền và
năm 1481 được thực hiện theo nguyên tắc thống nhất trên quy mô cả nước. Đây là chế độ
chia cấp định kỳ ruộng đất công của làng xã cho các hộ nông dân cứ sáu năm một lần.
Đối tượng được cấp quân điền là “tất cả mọi người trong xã từ quan viên cho đến hạng
thấp nhất của bậc thang xã hội phong kiến như người cô quả, tàn tật, vợ con người bị tội
lưu, tội đồ đều được chia ruộng đất” [27, tr.35]. Phần ruộng đất chia cho mỗi người nhiều
hay ít phụ thuộc vào địa vị xã hội của họ và phụ thuộc vào số ruộng đất công của mỗi xã.
Người được cấp quân điền phải nộp tô cho Nhà nước với mức nhẹ hơn các loại ruộng đất
khác.
Như vậy, để thực hiện quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà vua, nhà Lê đã
thông qua đơn vị làng, xã thay mặt Nhà nước quản lý đất đai, tiến hành thu tô thuế cho
Nhà nước, biến giai cấp nông dân thành tá điền của mình. Đây là một loại quyền rất đặc
trưng của các nhà nước phương Đông, là “sở hữu kiểu châu Á” như Mác nói. Chính sách
quân điền của nhà Lê Sơ một mặt xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích Nhà nước, mặt khác


phần nào cũng đáp ứng được lợi ích của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. Trong xã hội
phong kiến, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, bằng phép quân điền, nhà Lê đảm bảo cho
người nông dân số ruộng đất tối thiểu để cày cấy, đảm bảo cuộc sống. Phép quân điền đã
góp phần củng cố nền kinh tế tiểu nông, khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp.
Đây là yếu tố tương đối tiến bộ của chính sách kinh tế dưới thời Lê Sơ, góp phần giải
quyết những mâu thuẫn giữa các lợi ích trong xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước.
Ở thế kỷ XV, thủ công nghiệp được tạo điều kiện mở rộng và khởi sắc. Nhiều
nghề thủ công truyền thống như dệt vải, tơ lụa, làm giấy, làm gốm, đan lát,…. khá phổ
biến trong các gia đình nông dân. Trong các làng xã ngày càng có nhiều làng thủ công
nổi tiếng như nghề gốm (Bát Tràng), nhuộm (Huê Cầu), nung vôi (Yên Thế)… Ở thành
thị, thợ thủ công được tổ chức thành từng phường chuyên môn như Thăng Long có 36
phố phường với những cơ sở sản xuất thủ công nổi tiếng (phường Yên Thái làm giấy,
Nghi Tàm, Thụy Chương dệt lụa, Hàng Đào nhuộm điều…) Bộ phận thủ công của Nhà

nước bao gồm những xưởng thủ công chuyên đúc tiền, đóng thuyền, sản xuất vũ khí, làm
đồ dùng cho các vua quan. Các hoạt động khai thác mỏ sắt, đồng, vàng, bạc .. cũng được
mở rộng.
Trên cơ sở nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, việc buôn bán cũng
được đẩy mạnh. Các chợ địa phương phát triển, nhà Lê Sơ còn ban hành “lệ họp chợ”,
quy định việc chia chợ cũ thành các chợ mới và thống nhất các đơn vị đo lường để
tiện việc trao đổi hàng hóa trong vùng. Tình hình ngoại thương không được phát triển
như nội thương do những chính sách “ức thương” như Nhà nước nắm độc quyền ngoại
thương, hạn chế và kiểm soát chặt chẽ các thuyền buôn và thương nhân nước ngoài.
Nhiều cơ quan kiểm soát ngoại thương mọc lên khắp các cửa biển dọc miền duyên
hải. Thuyền buôn nước ngoài chỉ được cập bến ở một số địa điểm đã quy định như
Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Nghệ An), Hội Triều (Thanh Hóa) và
một số địa điểm trên đất liền thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Tây. Việc
buôn bán giữa người trong nước với người nước ngoài cũng bị kiểm soát chặt chẽ.
Theo sách Đại Việt Sử ký toàn thư, vào những năm Quang Thuận đời Lê Thánh Tông,


“thuyền đi biển của nước Xiêm La đến trang Vân Đồn dâng biểu văn khắc trên lá vàng
và dâng sản vật địa phương, vua khước từ không nhận” [48, tr.427]. Sở dĩ triều Lê Sơ
thi hành một chính sách “bế quan toả cảng” nghiêm ngặt là vì đất nước mới trải qua
hàng chục năm đấu tranh gian khổ chống ngoại xâm để giành độc lập nên rất cảnh
giác đề phòng âm mưu dò xét và xâm lược của người nước ngoài.
1.1.2. Về văn hoá, tư tưởng
Cùng với những bước phát triển về kinh tế - xã hội, nền văn hóa, tư tưởng của
nước Đại Việt thế kỷ XV cũng phát triển mạnh mẽ và giành được nhiều thành tựu rực rỡ.
Nho giáo có vị trí quan trọng ngay từ thời Lý với việc bắt đầu thi cử Nho học, lập
Văn Miếu,... và đến thời Lê Sơ thì phát triển đến đỉnh cao. Các triều đại phong kiến sử
dụng triệt để Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị có nội dung đề cao vai trò,
quyền lực của vua, tuyệt đối hóa “trung quân”, chủ trương “lễ trị”... làm vũ khí tư tưởng
quan trọng nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp của mình.

Lê Thánh Tông (1442-1497) là một nhà nho học uyên bác do được tiếp thu Nho
học từ nhỏ nên sau khi lên ngôi, từ những bài học kinh nghiệm lịch sử của các triều đại
trước và của các bậc cha ông để lại, Lê Thánh Tông chủ trương và kiên quyết dùng Nho
giáo để thống nhất về mặt tư tưởng trong phạm vi cả nước, đưa nó lên địa vị độc tôn và
ngự trị trong các thể chế của Nhà nước. Các nhà nghiên cứu cho rằng Nho giáo thời Lê
Thánh Tông là Tống Nho, hay là “sự vận dụng Tống Nho vào thực tế xã hội Việt Nam
trên tinh thần dân tộc sáng tạo” [44, tr.18-19]. Đó là kết hợp giữa những biện pháp dùng
lễ giáo để nêu quy phạm và răn dạy với việc dùng lễ giáo để trừng trị những người chống
đối. Đường lối chung này vẫn nằm trong khuôn khổ lễ trị của hệ tư tưởng Nho giáo chính
thống, hay Nho giáo thời Lê Thánh Tông không còn đậm yếu tố “nhân” như thời Nguyễn
Trãi mà chủ yếu là yếu tố “lễ”, được các nho sĩ làng xã tiếp thu và truyền tải vào đời
sống.
Giai cấp phong kiến chắt lọc lấy những yếu tố có lợi trong Nho giáo, vận dụng vào
đường lối trị nước phù hợp với thực tiễn Việt Nam thế kỷ XV để tổ chức bộ máy nhà
nước, xây dựng hệ thống pháp luật, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phù hợp với lợi
ích chung của cộng đồng. Với tư cách là hệ tư tưởng thống trị tuyệt đối trong xã hội, Nho


giáo đã góp phần tích cực củng cố Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền thống
nhất của một quốc gia tiểu nông nghiệp, tạo ra trật tự kỷ cương xã hội.
Cùng với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo xâm nhập vào nước ta từ thời Bắc
thuộc và cùng tồn tại từ thế kỷ X đến thế kỷ XV được gọi là hiện tượng “tam giáo đồng
nguyên”. Thời Lý - Trần, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và trở thành quốc giáo nhưng đến
thế kỷ XV thì suy yếu. Sở dĩ Lê Thánh Tông hạn chế Phật giáo, Đạo giáo vì ông cho rằng
giáo lý của hai đạo này hết thảy đều “mê lừa dân”, “che lấp nhân nghĩa”, cái hại của nó
không thể kể xiết mà lòng người rất ham, rất tin, trong khi đạo của Thánh nhân (tức Nho
giáo), lớn thì tam cương, ngũ thường, nhỏ thì tiết văn độ số đều thiết dụng trong cuộc
sống thường ngày. Mặc dù bị hạn chế, nhưng Phật giáo và Đạo giáo vẫn tồn tại ở mức
đáng kể, có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá tinh thần, không chỉ trong dân gian mà
cả trong một bộ phận quan lại, thậm chí cả trong đời sống cung đình.

Giáo dục Nho học do Nhà nước phong kiến quản lý bắt đầu xuất hiện từ cuối thế
kỷ XI khác hẳn nền giáo dục của nhà chùa đã tác động trực tiếp đến sinh hoạt văn hóa, tư
tưởng của nhân dân, đến sự hình thành đội ngũ trí thức dân tộc và quan lại cũng như ảnh
hưởng đến thế giới quan, phong cách tư duy và những quy phạm chính trị và đạo đức của
con người. Trong thế kỷ XV, giáo dục và thi cử Nho học tiếp tục được mở rộng và không
ngừng phát triển.
Hoạt động văn hóa - nghệ thuật diễn ra sôi nổi. Văn học rất phong phú về thể loại
với nội dung xoay quanh những vấn đề của đạo Nho và đề cập đến đời sống hiện thực,
phản ánh tinh thần dân tộc. Các ngành nghệ thuật sân khấu ca vũ nhạc cũng có nhiều
bước tiến bộ, đã xuất hiện những loại hình ca kịch như hát ả đào, hát chèo, hát tuồng,...
Bên cạnh nền văn hóa cung đình còn tồn tại một nền văn hóa dân gian rất đa dạng và
phong phú, phục vụ đời sống tinh thần của tầng lớp lao động. Ở các địa phương, các lễ
hội truyền thống thể hiện tinh thần thượng võ như bơi thuyền, đánh vật, đấu gậy, cướp
cù... rất thịnh hành. Các lễ hội thường xuyên gắn liền với việc nêu cao truyền thống đánh
giặc giữ nước và suy tôn các vị anh hùng dân tộc, những người đã hy sinh vì sự nghiệp
chống ngoại xâm.
Những thành tựu văn hóa rực rỡ luôn gắn liền với sự vận động và phát triển của tư


tưởng Việt Nam, nhất là tư tưởng chính trị. Thông qua hai đại diện tiêu biểu là Nguyễn
Trãi và Lê Thánh Tông, tư tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ XV đã tỏ ra phong phú và đạt
tới một trình độ cao; nó không vượt ra ngoài giới hạn của những vấn đề mà thực tiễn đất
nước đòi hỏi và là một tấm gương phản ánh khá rõ những nét cơ bản của sinh hoạt chính
trị - xã hội trong thời kỳ này.
1.1.3. Lê Thánh Tông lên ngôi
Thế kỷ XV với nhiều biến cố chính trị phức tạp, đánh dấu sự hình thành và những
bước phát triển quan trọng đối với Nhà nước phong kiến thời Lê Sơ. Vào năm 1428, sau
khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh thắng lợi, Lê Lợi - lãnh tụ của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ, vương triều nhà Lê (Lê Sơ) được thiết
lập. Thời kỳ này, nhà Lê ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh cũng như ổn định trật tự

xã hội và củng cố chính quyền. Sau khi Lê Thái Tổ qua đời năm 1428, Lê Thái Tông và
Lê Nhân Tông lần lượt kế nghiệp đều lên ngôi khi còn rất ít tuổi (10 và 2 tuổi) nên mọi
quyết sách trong triều đều nằm trong tay các đại thần và hoàng thái hậu nhiếp chính. Tình
hình chính trị - xã hội ngày càng rối ren, trong nước liên tục đối mặt với thiên tai, nhiều
nơi mất mùa, nạn đói kém xảy ra liên miên. Tình trạng tham ô, tham nhũng, nhận hối lộ,
hạch sách nhân dân ngày càng diễn ra phổ biến, pháp luật không được thực thi nghiêm
minh, nhân dân bị nhiều oan sai, điêu đứng, tất cả những điều đó đã làm cho đất nước
lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Năm 1459, Lê Nghi Dân - con trưởng của vua Lê Thái Tông - tập hợp băng đảng
giết hại Lê Nhân Tông - người em cùng cha của mình và tự lập làm vua, “tin dùng bọn
gian nịnh, giết hại bề tôi cũ, pháp chế của tổ tông thay đổi hết thảy, người oán trời giận”
[48, tr.388]. Cuộc chính biến cung đình càng làm cho những bất cập của chế độ bộc lộ
sâu sắc. Triều đình nhà Lê tỏ ra lúng túng, bất lực trước đòi hỏi của đời sống chính trị xã hội đã có những chuyển biến tích cực về nhiều mặt sau hơn 30 năm phát triển đất nước
trong hoà bình.
Trước tình hình thực tiễn đó, năm 1460 một số quan đại thần trung thành với nhà
Lê, đứng đầu là Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã tiến hành một cuộc đảo chính nổi binh giết bọn
tay chân của Nghi Dân rồi “giáng Nghi Dân xuống tước hầu” [48, tr.388]. Con thứ tư của


Thái Tông là Bình Nguyên Vương Lê Tư Thành vừa tròn 18 tuổi được quần thần đưa lên
làm vua tức vua Lê Thánh Tông. Ông là vị vua đã góp phần quan trọng nhất trong việc
củng cố chế độ quân chủ quan liêu tập quyền trung ương. Trong thời Lê Thánh Tông, bộ
máy nhà nước quân chủ trung ương đã phát triển tới mức cao nhất của nó, các chế độ, qui
chế về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục đều được hoàn chỉnh, làm mẫu mực
cho các triều đại phong kiến sau này. Lê Thánh Tông đã được các nhà sử gia phong kiến
khen là “vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực
là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể
hơn được” [48, tr.387].
Lê Thánh Tông không chỉ là nhà chính trị, vị vua anh minh mà còn là nhà văn hoá,
nhà tư tưởng lỗi lạc, học vấn uyên bác và có khả năng về nhiều mặt. Ngoài việc hiểu

đường lối và phương pháp trị nước, ông còn am hiểu thiên văn, địa lý, lịch sử, văn học.
Thông qua hoạt động thực tiễn của mình, ông còn sáng tác thơ văn, tự mình chế định ra
các loại chiếu, chế, cáo và các văn kiện về pháp luật, giáo dục, quân sự, ngoại giao… Tác
phẩm của ông được tập hợp lại trong các bộ Thiên nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi
tập… không những cho thấy tài năng, trình độ của ông về các mặt nói trên, mà còn cho thấy
những quan niệm, những tư tưởng của ông về xã hội, về nhân sinh. Trong đó, những quan
niệm, những tư tưởng chính trị của ông được thể hiện ra với nhiều nét đặc sắc và có giá trị.
Tuy mang nặng dấu ấn của Nho giáo, không ngoài mục đích tăng cường chế độ quân chủ
chuyên chế song nó đã đáp ứng được một số yêu cầu dân sinh dân chủ của nhân dân, tạo
được một số tiền đề cho đất nước phát triển và ý thức tự cường dân tộc được đề cao.
Lê Thánh Tông lên ngôi vua đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của lịch sử dân
tộc, ông đã dựa vào những điều kiện mới của đất nước để tiến hành hàng loạt chính sách
lớn, quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, văn hoá, giáo dục. Ông đã thực hiện
được một bước chuyển quan trọng có ý nghĩa tiến bộ lịch sử - từ chế độ quân chủ quý tộc
sang chế độ quân chủ quan liêu theo mô hình Nho giáo tuyệt đối - một bước phát triển
mới về thể chế. Đồng thời, Lê Thánh Tông đã tiến hành đổi mới đất nước, hoàn thành
việc hội nhập Việt Nam với sự lựa chọn mô hình nhà Minh của Trung Quốc, được xem là
tiên tiến nhất lúc ấy. Với hai niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-


1497), Lê Thánh Tông là vị vua ở ngôi lâu nhất ở thời Lê Sơ, đã đưa đất nước Đại Việt ở
nửa cuối thế kỷ XV vào thế ổn định, có kỷ cương, luật pháp và phát triển mạnh mẽ, toàn
diện về mọi mặt, đạt trình độ ngang bằng với các quốc gia Âu - Á lúc bấy giờ, được coi là
“cực thịnh” không chỉ trong hơn một trăm năm của triều đại Lê Sơ mà còn là đỉnh cao sự
phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
1.2. QUÁ TRÌNH CỦNG CỐ, XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ
TRUNG ƯƠNG TẬP QUYỀN THỜI LÊ THÁNH TÔNG
1.2.1. Cải tổ bộ máy nhà nước ở Trung ương
Thế kỷ XV, sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, tinh thần độc lập và ý chí
tự lập tự cường được nâng cao là tiền đề chính trị cho sự củng cố vững chắc nền thống

nhất quốc gia và phát triển chế độ trung ương tập quyền theo hướng quân chủ chuyên chế
trên nguyên tắc “tôn quân quyền”. Dưới các triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê
Nhân Tông, bộ máy nhà nước về cơ bản vẫn phỏng theo tổ chức chính quyền các triều
đại trước, còn mang nặng “hơi hướng” của thể chế quân chủ quý tộc nhà Trần, của việc
trọng đãi các quý tộc hoàng tộc và các “khai quốc công thần”. Nhận thấy những hạn chế,
bất cập của mô hình này như tình trạng phân tán, thiếu tập trung quyền lực nên ngay từ
khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã sớm tiến hành công cuộc cải tổ bộ máy nhà nước và
được đẩy mạnh vào năm 1471 thông qua việc hiệu định Hoàng triều quan chế với
nguyên tắc “đất đai bờ cõi so với ngày trước càng lớn hơn nhiều lắm, không thể không
thi quyền chế tác, hiểu hết mọi đạo biến thông” [43, tr.12]. Đó thực chất là một cuộc cải
cách chính trị, tổ chức lại thiết chế nhà nước quân chủ tập quyền một cách có quy củ, hệ
thống nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế, giảm bớt các cơ quan trung gian rườm
rà, tăng cường hệ thống giám sát, hạn chế sự tham chính của quý tộc hoàng tộc, loại trừ
khả năng lộng quyền của triều thần ở trung ương và tệ nạn tập trung quyền hành của các
quan lại ở địa phương.
Tăng cường quyền lực và làm cho bộ máy nhà nước ở trung ương trở nên thực
quyền là mục tiêu quan trọng nhất trong khâu cải cách hành chính vì chính quyền trung
ương là cơ quan đầu não của đất nước trong việc hoạch định và triển khai việc tổ chức
thực hiện đường lối chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, Lê Thánh Tông bãi bỏ các chức


quan Tam tư (Tư đồ, Tư mã, Tư không), Tướng quốc, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ…
và những cơ quan trung gian giữa vua và các cơ quan thừa hành như Thượng thư sảnh,
Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, Nội mật viện. Vua trực tiếp nắm quyền chỉ đạo, giải quyết
mọi công việc quan trọng của Nhà nước cũng như mối liên hệ với các cơ quan thừa hành
cùng sự giúp đỡ của các đại thần trọng chức là tứ Thái (Thái sư, Thái uý, Thái phó, Thái
bảo), tứ Thiếu (Thiếu sư, Thiếu uý, Thiếu phó, Thiếu bảo) và các đại học sĩ… Những đại
thần này không hình thành cơ quan tư vấn mà chỉ là những người đáng tin cẩn làm việc
riêng rẽ, góp ý kiến cho nhà vua. Vua thực sự trở thành nguyên thủ quốc gia, nhân vật số
một có quyền lực tuyệt đối trong việc thực thi quyền lực nhà nước, có đặc quyền về khen

thưởng và xử phạt không những đối với quan lại, dân chúng mà còn có quyền sắc phong,
lập đền thờ cho các công thần, phúc thần hoặc tước sắc phong và triệt phá đền thờ đối với
hung thần, gian thần.
Cơ quan hành chính Trung ương giúp vua bảo đảm an ninh quốc gia, cai trị quân
dân là sáu bộ (gồm Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Công, Bộ Hộ) với chức năng,
nhiệm vụ rõ ràng là phụ trách về các mặt hoạt động của Nhà nước như “gọi lính, lấy quân
là việc của Đốc phủ mà thể thống tất phải do bộ Binh; chi ra, thu vào là chức của bộ
Hộ...” [43, tr.13]. Thượng thư là người đứng đầu Bộ, giúp việc có các chức Tả, Hữu thị
lang. Mỗi bộ lập ra các Thanh lại ty chuyên trách một số công việc nhất định và một cơ
quan thường trực là Tư vụ sảnh. Ngoài ra, còn có các cơ quan chuyên môn thừa hành
những công việc do bộ giao cho là sáu tự (Hồng lô tự, Thượng bảo tự, Đại lý tự, Thái
thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự) chuyên đảm bảo một số công việc đặc biệt, chủ yếu
là chuyên trách các hoạt động thuộc về hành pháp ở trung ương và một số cơ quan
chuyên môn về văn hoá, giáo dục không lệ thuộc vào sáu bộ như Hàn lâm viện, Quốc sử
viện.
Để kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các bộ, Lê Thánh Tông cho lập ra 6 khoa tương ứng với 6 bộ (gồm Khoa
Lại, Khoa Hộ, Khoa Lễ, Khoa Binh, Khoa Hình và Khoa Công) và Ngự sử đài. Ngự sử
đài do Đô Ngự sử đứng đầu là cơ quan có quyền kiểm soát toàn bộ hoạt động của các cơ
quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, có quyền đàn hặc (vạch rõ tội lỗi, vi phạm


của các quan từ bá quan đến hoàng thân, hoàng tử), quyền can gián nhà vua, quyền tấu
trình trực tiếp với nhà vua. Ngoài ra Ngự sử đài còn có quyền bàn bạc chính sự đương
thời và duyệt xét án.
Để nâng cao hiệu lực quản lý, Lê Thánh Tông rất chú trọng thiết lập quy chế tổ
chức hoạt động và mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước. Ở cấp Trung ương,
các bộ thực hiện nguyên tắc “Lục bộ tương thông” nhằm phối hợp điều hành công vụ
hoặc trực ban tại Triều đình, làm cho công việc quản lý nhà nước trở thành một chính thể
thống nhất và được giải quyết nhanh, gọn, hiệu quả. Lê Thánh Tông hợp lý việc phân tán

quyền lực giữa các cơ quan giúp việc trong triều, chẳng hạn như không lập ra các quan tư
pháp độc lập mà chỉ quy định những vụ án ở Trung ương phải qua các quan như Đề lĩnh,
Phủ doãn, ở ngoài đạo phải qua các Thừa ty và Hiến ty rồi chuyển lên Bộ Hình, những án
bị kêu ca, khiếu nại chuyển lên Ngự sử đài duyệt lại. Hơn nữa, việc tổ chức mạng lưới
sáu khoa kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của sáu bộ lần đầu tiên
được thực hiện dưới triều Lê. Nếu như ở các triều vua Lê trước Lê Thánh Tông, Ngự sử
đài và tất cả các quan lại đều được quyền dâng sớ đàn hặc bất cứ một viên quan nào hoặc
một cơ quan nào đó trong triều thì đến thời vua Lê Thánh Tông, ông đã bãi bỏ lệnh đó và
giao hẳn cho sáu khoa chịu trách nhiệm này. Trong các buổi chầu, nhà Vua đòi hỏi sự có
mặt của các văn võ đại thần, các viên quan phụ trách các bộ, khoa, Thượng bảo tự, Thông
chính sứ ty, Đông các, Ngự sử, Sử quan, nghĩa là cố gắng tận dụng sự góp ý của tất cả
những người có chức trách.
Dưới thời Lê Thánh Tông, bộ máy nhà nước ở Trung ương đã được xây dựng theo
hướng tinh gọn, hiệu quả và tập trung toàn bộ quyền lực nhà nước vào trong tay nhà vua.
Cùng với cải tổ về mặt tổ chức, Lê Thánh Tông đã sửa đổi quy chế công chức, nếu như
trước đó việc bổ nhiệm quan lại phần nhiều lấy “quan to, tước cao” thì đến đời vua Lê
Thánh Tông đặt quan đều là “lương ít, trật thấp”. Mặc dù, số lượng quan lại được đặt ra
so với trước có tăng rất nhiều về số lượng nhưng tiền lương chi tiêu so với trước kia
không tăng. Nhờ đó, “kẻ ăn hại đã không có, trách nhiệm lại quy đến nơi. Để cho lớn nhỏ
cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng kiềm chế nhau. Uy quyền không giả mà lẽ nước
lại khó lay” [43, tr.13-14].


1.2.2. Xây dựng bộ máy hành chính thống nhất ở các cấp
Để tăng cường sự điều hành của Triều đình đối với chính quyền địa phương, năm
1466, Lê Thánh Tông xoá bỏ 5 đạo và 24 lộ của thời Trần, đồng thời “đặt ra mười hai
đạo thừa tuyên” Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Tường, Nam Sách, Quốc Oai,
Bắc Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung
Đô; đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu [48, tr.411]; sau đó đặt thừa tuyên Quảng Nam,
tổng cộng là mười ba đạo. Khi tổ chức lại chế độ cai trị ở cấp đạo, Lê Thánh Tông không

đặt ra một chức quan có quyền hành quá to đứng đầu cấp đạo như trước mà phân lập
quyền lực nhà nước ở địa phương thành ba phạm vi: thứ nhất, quyền quản lý hành chính,
dân sự, thuế khoá giao cho Tuyên chính sứ ty, đứng đầu là chức Tuyên chính sứ, sau đó
đổi thành Thừa ty đứng đầu là chức Thừa chính sứ; thứ hai, quyền chỉ huy quân đội được
giao cho Đô ty do Tổng binh phụ trách; đến năm 1471, Lê Thánh Tông đặt thêm ty thứ ba
ở mỗi đạo là Hiến sát sứ ty do chức Hiến sát sứ đứng đầu. Năm 1473, quy định rõ chức trách
“Hiến sát sứ và Hiến sát phó chuyên giữ các các chức vụ tâu bày, xét hỏi, tâu hặc hoặc khám
xét, xét kiện, hội đồng, đối chiếu, soát lại, xét công tội, đi tuần hành… cả thảy 32 điều” [48,
tr.463]. Hàng năm, Hiến sát sứ phải đi kinh lý xứ mình để thăm hỏi cuộc sống của nhân dân,
kiểm tra hoạt động của các quan lại địa phương, phủ, huyện, xã. Tất nhiên, những công việc
như khuyến khích sản xuất, khám xét việc kiện tụng, chỉ đạo công việc của các thuộc lại…
cả hai ty Thừa, Hiến đều phải chăm lo. Theo quy định năm 1471, nếu ở địa phương có tai
biến nhưng Thừa ty, Hiến ty phủ, huyện không đến xem xét ngay mà “chây lười để quá hạn,
ta sẽ sai vệ sĩ vệ Cẩm y đi điều tra, nếu thấy vẫn còn việc lợi nên làm, mối hại nên bỏ mà các
ngươi chưa nói tới thì quan phủ, huyện phải bãi chức, sung quân ở Quảng Nam, quan Thừa
ty bị phải giáng chức” [48, tr.457]. Ngoài Hiến ty, Lê Thánh Tông còn đặt 13 cai đạo giám
sát ngự sử chuyên theo dõi, kiểm tra hoạt động của quan lại địa phương. Như vậy, mỗi ty có
phần quyền hạn riêng của mình đồng thời phải chịu trách nhiệm trước cấp trên của mình ở
Trung ương. Các chức quan ở ty Hiến sát cùng với 13 giám sát ngự sử là những người theo
dõi, giám sát hoạt động của quan lại các ty, các phủ, huyện. Năm 1489, khi dụ Ngự sử đài và
Giám sát ngự sử 13 đạo, Lê Thánh Tông quy định “nếu là ba ty bên ngoài trị lý dân chúng,


khi phát hiện quan lại tham ô, hoặc có đơn khống tố về kiện tụng oan ức, cùng tất cả việc
riêng tư xảy ra trong phủ, huyện, châu thì do phân ty các đạo xét xử thi hành” [48, tr.506].
Dưới đạo, Lê Thánh Tông chia thành các phủ, dưới phủ là huyện ở đồng bằng và
châu ở miền núi. Đứng đầu phủ có Tri phủ, Đồng tri phủ; Tri huyện và Huyện thừa cai
quản mỗi huyện; ở châu (vùng dân tộc thiểu số) có Tri châu do các tù trưởng đảm nhiệm.
Riêng phủ Trung đô thì đặt viên Phủ doãn đứng đầu, giúp việc có Thiếu doãn và Thị trung.
Đơn vị quản lý hành chính cơ sở là cấp xã được phân thành ba loại là đại xã, trung xã, tiểu xã

căn cứ vào số hộ dân. Năm 1466, Lê Thánh Tông đổi chức xã quan thành xã trưởng là những
người đứng đầu cấp xã giúp các đơn vị hành chính cấp trên nắm quyền quản lý ruộng đất,
thu thuế và quản lý hành chính ở địa phương. Đầu năm 1490, Lê Thánh Tông ban hành thể
lệ tách xã cũ, lập xã mới theo nguyên tắc, tiểu xã có từ 100 đến 299 hộ, trung xã có từ 300
đến 490 hộ, đại xã có trên 500 hộ; những đại xã quá số quy định 100 hộ (tức là có khoảng 600
hộ trở lên) thì tách số hộ này ra lập thành một tiểu xã mới. Cũng vào năm 1490, khi xác định
bản đồ toàn quốc, dưới 13 đạo thừa tuyên có “52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36
phường, 6851 xã, 332 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường” [48, tr.507].
Các chức quan từ cấp huyện trở lên đều do Nhà nước bổ nhiệm. Điều kiện và thủ
tục bổ nhiệm được quy định rõ ràng và có văn bản. Riêng chức xã trưởng, tuy do dân bầu
nhưng phải được sự duỵêt y của quan phủ, huyện. Xã lớn (đại xã) được cử 3 xã trưởng,
xã vừa (trung xã) cử 2 xã trưởng còn xã nhỏ (tiểu xã) cử 1 xã trưởng.
Công tác thanh tra, giám sát được Triều đình đặc biệt chú trọng vì việc cai trị của
quan lại các cấp, nhất là ở địa phương có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân.
Sử cũ ghi lại 22 lần (trong vòng 25 năm) nhà Vua ban các sắc dụ nói về trách nhiệm của
các quan ty thừa, hiến phủ, huyện, 13 giám sát ngự sử. Cùng với việc tăng cường hiệu lực
hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp, Lê Thánh Tông còn ban hành hàng loạt các
lệnh chỉ về sổ hộ tịch, về kiểm tra dân số, ruộng đất… Đó là những biện pháp nhằm tăng
cường quyền lực của chính quyền trung ương đối với các địa phương để nắm được tình
hình thực tế về mọi mặt diễn ra ở cơ sở.
1.2.3. Đề cao vai trò của pháp luật trong trị nước


Hoạt động lập pháp nhằm duy trì trật tự xã hội và kỷ cương phép nước được xem
là công việc hệ trọng nhất của các bậc vua chúa cho nên sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã
chú ý ngay đến việc xây dựng pháp luật, đề ra một số luật về kiện tụng và phân chia
ruộng đất công làng xã. Thời Lê Thái Tông, Nhà nước xây dựng thêm một số quy tắc xét
xử các vụ kiện tụng và một số điều luật nghiêm cấm hối lộ. Thời Lê Nhân Tông liên tiếp
ban hành nhiều điều luật về quyền thừa kế ruộng đất, về bảo vệ quyền lợi của quan lại,
quân lính và việc bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến. Đến thời Lê Thánh Tông, đi đôi với

việc củng cố bộ máy nhà nước, Triều đình rất coi trọng tới việc xây dựng thể chế pháp
luật để cai trị đất nước và quản lý xã hội. Năm 1464, khi biếm chức Binh bộ Tả thị lang
Nguyễn Đình Mỹ vì mắc tội tham tang, Lê Thánh Tông nêu rõ: “Pháp luật là phép công
của nhà nước, ta cùng các ngươi đều phải theo” [48, tr.401]. Năm 1471, nhân hiệu định
Hoàng triều quan chế, thực chất là cuộc cải tổ chính trị, sắp xếp lại một cách có hệ thống
bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền, Vua dụ các quan và trăm họ phải “thành thói quen
theo đạo giữ phép; không có lỗi trái nghĩa phạm hình” [43, tr.14]. Trong sắc dụ quan lại
cả nước vào năm 1474, Vua lại khẳng định “đặt luật để trừ kẻ gian, sao dung được bọn
coi thường pháp luật” [48, tr.463].
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị của giai cấp phong kiến,
nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Để
tập trung cao độ quyền lực nhà nước vào tay nhà vua, đơn giản hoá các cơ quan hành
chính, phục dịch, Lê Thánh Tông đã đề cao luật pháp, lấy luật pháp làm chuẩn để giải
quyết các vấn đề có ảnh hưởng đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Có thể thấy pháp
luật được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông khá hoàn thiện về hình thức và nội
dung, đỉnh cao là Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức (năm 1483), gồm
có 721 điều, chia làm sáu quyển, 16 chương. Về cơ bản, Bộ luật này là luật hình, như tên
gọi của nó, nhưng thực chất, lại là một bộ luật tổng hợp nhiều ngành luật, điều chỉnh
những quan hệ xã hội quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, hôn nhân và gia
đình cũng như các quan hệ xã hội cơ bản khác. Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất giai cấp
và quyền lực của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng cũng là bộ luật tiến bộ nhất
trong lịch sử phong kiến Việt Nam, “mang đậm nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai


cấp phong kiến trong giai đoạn đi lên của nó” [34, tr.203]. Đây là thành tựu có giá trị đặc biệt
quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam, là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật
không chỉ của các triều đại trước đó mà còn đối với cả bộ Hoàng Việt luật lệ được biên soạn
vào đầu triều Nguyễn sau này như Phan Huy Chú nhận xét: “Hình luật đời Hồng Đức... các
thời đều tuân theo, dùng làm phép sẵn, dù các điều mục lặt vặt có thêm bớt, nhưng đại cương
chế độ bao giờ cũng vẫn theo đó, thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc

dân” [5, tr.94].
Thời Lê Thánh Tông, với hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, lấy Quốc triều
hình luật làm xương sống, đã xác lập được một trật tự pháp luật cần thiết và đầy hiệu lực để
củng cố và bảo vệ trật tự nhà nước, trật tự xã hội của chế độ phong kiến tập quyền; gắn tăng
cường kỷ cương, phép nước với bảo đảm an dân, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về
mọi mặt của đất nước. Nhờ có các văn bản pháp luật phù hợp với lợi ích của đông đảo quần
chúng, Nhà nước đã xây dựng được uy thế chính trị lớn. Với thái độ kiên quyết, thực hiện
nghiêm pháp luật từ trên xuống, đã dần tạo lập được thói quen tôn trọng pháp luật, sống theo
pháp luật và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Sử thần Ngô Sĩ Liên, người đương thời
biên soạn lịch sử gian đoạn này, đã kê cứu được một số lượng lớn các vụ phạm pháp trong
khoảng thời gian 10 năm dưới niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) mà phần lớn đều liên quan
đến những quan chức cao cấp trong triều và Lê Thánh Tông đã xử rất nặng. Trong gần 3 thập
kỷ sau đó dưới niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), số lượng các triều thần và các quan chức
trọng trách trong kinh cũng như ở các địa phương phạm pháp giảm hẳn. Các vụ việc mà nhà
Vua phải trực tiếp xử hoặc giao cho Pháp ty là không đáng kể. Trọng tâm các sắc dụ chuyển
sang các lĩnh vực khác như giáo hoá, răn dạy đạo đức Nho giáo, tăng cường công tác khuyến
nông, chỉnh đốn chế độ thi cử, củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh ở các châu xa và biên giới.
Có thể nói, mục tiêu chấn chỉnh lại kỷ cương phép nước, trước hết là trong triều đình mà Lê
Thánh Tông đề ra, đã được thực hiện.
Tóm lại, trong buổi đầu chính quyền nhà Lê về cơ bản vẫn phỏng theo tổ chức
chính quyền của các triều đại trước. Trải qua nhiều lần sửa đổi và chấn chỉnh, đến thời Lê
Thánh Tông, thông qua cuộc cải cách được đẩy mạnh năm 1471 và Quốc triều hình luật ban
hành năm 1483, bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã đạt đến giai đoạn


phát triển cao nhất của mô hình Nho giáo. Hệ thống các cơ quan trong bộ máy quyền lực nhà
nước được “xếp đặt phân minh, phân công rõ ràng, không dẫm đạp lên nhau” [17, tr.449].
Ngoài việc lập ra các cơ điều hành là sáu bộ, sáu tự, Lê Thánh Tông còn lập ra một mạng
lưới các cơ quan kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá
nhân nắm quyền lực là sáu khoa và Ngự sử đài.

Cả bộ máy triều đình đều đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua, khuynh
hướng tăng cường sự chi phối của Triều đình và hạn chế quyền lực địa phương được thể hiện
rõ nét, coi trọng sự phân chia và kiểm soát lẫn nhau giữa hệ thống hành chính, quân sự, tư
pháp và giám sát. Nhờ đó mà Lê Thánh Tông đã thâu tóm được quyền hành, tạo ra một hệ
thống hành chính phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và dân trí đương thời. Để
đáp ứng yêu cầu vận hành của bộ máy nhà nước sau cải cách gắn liền với thực thi theo pháp
luật, việc quản lý xã hội đòi hỏi phải có một đội ngũ quan lại có kiến thức, có văn hoá, hiểu
biết về pháp luật, có phẩm chất đạo đức… Đó chính là những tiêu chuẩn của quan lại nhà
nước mà Lê Thánh Tông muốn hướng tới.
1.3. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
QUAN LẠI
1.3.1. Chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại theo những tiêu chí
cụ thể
1.3.1.1. Có văn hoá, tri thức cai trị theo tư tưởng Nho giáo
Nền văn hoá Đại Việt thế kỷ XV phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu rực
rỡ, nhất là trong lĩnh vực giáo dục và tư tưởng. Thời kỳ này, Nho giáo được tạo điều kiện
củng cố và vươn lên thành hệ tư tưởng thống trị xã hội, kéo theo sự phát triển của nền
giáo dục khoa cử Nho giáo. Bản thân Lê Thánh Tông từ nhỏ đã chăm chỉ học hành, lo lập
thân bằng con đường nghiên bút, “sớm khuya không lúc nào rời sách vở”, dành toàn bộ
tâm sức cho việc nắm được “sách vở cổ kim, nghĩa lý thánh hiền” [48, tr.388], vốn có tư
chất thông minh lại “đặc biệt siêng năng” nên đã sớm trở thành nhà nho uyên thâm trước
khi trở thành hoàng đế, “các tập kinh, sử, các sách lịch, toán, những việc thánh thần,
không có việc gì không bao quát tinh thông” [48, tr.519]. Là người tiếp thu Nho giáo một
cách cơ bản từ nhỏ nên sau khi lên ngôi vua, từ những bài học kinh nghiệm lịch sử của


các triều trước và của các bậc cha ông để lại, Lê Thánh Tông chủ trương và kiên quyết
dùng Nho giáo để thống nhất về mặt tư tưởng trong phạm vi cả nước, đưa nó lên địa vị
độc tôn và ngự trị trong các thể chế của Nhà nước. Ông triệt để khai thác ở Nho giáo
những nhân tố cần thiết để ổn định tình hình chính trị lúc bấy giờ, thể hiện rõ nét ở các

bài văn sách đình đối - một hình thức thi đặc biệt bằng sự “đối thoại” giữa vua và “sĩ tử”
về các vấn đề tư tưởng và những vấn đề chính trị - xã hội quan trọng nhất của đất nước.
Văn sách đình đối của Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh (khoa thi năm Quý Mùi 1463) đã
làm rõ chủ trương của Lê Thánh Tông trong vấn đề dùng Nho thuật để cai trị thiên hạ:
“Điều cốt yếu của việc trị nước là ở làm sáng tỏ nền thánh học, lấy đó làm gốc cho việc
chính nhân tâm trừ tà thuyết” [38, tr.7]. Văn sách đình đối của Trạng nguyên Vũ Kiệt
(khoa thi năm Nhâm Thìn 1472) khẳng định: “Nho thuật không được coi trọng thì giáo
hoá không được sáng sủa, nhân tài không phát triển, không lấy gì để dựng cương thường
muôn thuở, khơi dẫn nguyên khí của quốc gia” [39, tr.9]. Văn sách đình đối của Trạng
nguyên Vũ Tuấn Chiêu (khoa thi năm Ất Mùi 1475) nêu cụ thể thêm: “Trị nước lấy Nho
thuật làm đầu, trí trị lấy dùng Nho làm gốc. Phàm đạo đức, nhân, nghĩa, lễ, nhạc, hành chính
đều là Nho thuật cả” [40, tr.1] và “Nho thuật có ích cho quốc gia.... dựng mực thước cho dân,
mở nền thái bình cho muôn đời. Công dụng lớn như vậy thì phàm bậc trị thiên hạ quốc
gia, ai có thể bỏ mà không dùng?” [40, tr.4].
Thể chế chính trị nào cũng cần xây dựng được đội ngũ để duy trì quyền lực của
giai cấp thống trị. Do đó, cùng với việc cải cách hành chính, củng cố và đổi mới bộ máy
nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên hệ tư tưởng Nho giáo, Lê Thánh Tông đặc
biệt chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ quan lại với tư cách là chủ thể vận hành bộ máy
đó. Muốn thế, những người được giao nhiệm vụ này phải có kiến thức về cai trị theo tư
tưởng chính trị Nho giáo. Lê Thánh Tông đặt ra những quy định nghiêm ngặt, đòi hỏi cao
về học vấn, người làm quan phải có tri thức và chủ trương lấy trình độ học vấn làm cơ sở
để tuyển chọn quan lại. Vì vậy, họ phải được đào tạo cơ bản, học hành đầy đủ thông qua
giáo dục và thi cử Nho học để từng bước tri thức hoá, văn hoá hoá đội ngũ quan lại. Đã
qua rồi thời các quan “mù tịt, dốt đặc, xiểm nịnh”, thời đại mới với một bộ máy hành
chính nhà nước được tổ chức khoa học và phân minh hơn từng bước được thiết lập sẽ cần


đến một đội ngũ quan lại tương xứng “có học thức vững chắc và trung thành với dòng họ
bằng trí tuệ và đạo đức trong công việc” [44, tr.100].
1.3.1.2. Hiểu biết pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật

Song song với việc ban hành các văn bản luật, xác lập lòng tin yêu của dân chúng
với nhà cầm quyền, Lê Thánh Tông chủ trương xây dựng đội ngũ quan lại - những người
thay mặt vua và được giao cho việc thi hành pháp luật tức là nhiệm vụ cai trị đất nước
phải thông thạo pháp luật. Ông cho rằng, những người nắm pháp luật, thường là những
người cầm cân nảy mực, vì vậy bản thân họ phải có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
nhất định để vận dụng pháp luật cho đúng. Đồng thời họ phải tuân thủ chặt chẽ những thể
chế, những quy định của pháp luật thì mới đảm bảo cho pháp luật có giá trị tối cao trong
hoạt động của Nhà nước. Điều đó sẽ ngăn chặn được sự lạm quyền, sử dụng quyền lực
một cách tuỳ tiện ở các cấp chính quyền, nhằm làm trong sạch, vững mạnh bộ máy nhà
nước. Thực tế, Triều đình đã xử lý rất nghiêm khắc đối với những hành vi phạm pháp của
quan lại, bất kể họ ở cương vị nào trong bộ máy nhà nước, từ các quan có hàm từ chánh
nhất phẩm (quan đại thần) trở xuống cả ở trong Kinh đô và ngoài các đạo thừa tuyên với
các hình thức từ quở trách, cách chức, bãi chức đến xử phạt như: đánh trượng Điện tiền
kinh lịch Cao Bá Tường và đày ra châu ngoài vì “bọn quan kiểm điểm Lê Thọ Vực, Lê
Bô, Phạm Văn Hiến coi giữ quân lính, bắt làm việc riêng và thả về để lấy tiền mà Bá
Tường không biết nêu ra để hặc tội”, thu lại quân quyền của Tây quân đô đốc Lê Thiệt vì
“con Thiệt là Bá Đạt đang giữa ban ngày phóng ngựa ra phố, dung túng gia nô đánh
người”, bắt Giám sát ngự sử Quản Công Thiêm do “dung túng kẻ đưa hối lộ là Hán Tông
Nghiệp” hay Phó Tổng binh trấn thủ Bắc Bình là Lê Lục và Đồng Tổng tri Nguyễn Lương
“giữ trấn mình mà để cho giặc cướp đốt quan ải” nên bị đày ra châu xa [48, tr.427, 413, 416,
423].
Quan lại có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đều
bị trừng phạt nghiêm khắc và được quy định cụ thể trong Quốc triều hình luật. Theo đó,
tại Điều 185, quan lại làm công vụ sách nhiễu dân bị tội xuy đến biếm một tư; Điều 632
quy định: “Các quan cai quản quân dân các hạt, vô cớ mà đi đến những làng, xã trong
hạt, hay là cho vợ cả vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc mua bán làm cớ, để quấy nhiễu


×