TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ
BÀI GIẢNG
KINH TẾ HỘ VÀ TRANG TRẠI
(Cho các lớp Cao học KTNN)
Đắk Lắk - NĂM 2015
Mô tả học phần
Giới thiệu chung về kinh tế nông hộ và trang trại; Quản lý các yếu tố sản
xuất trong nông trại; Kinh tế ra các quyết định trong nông trại; Lập kế hoạch và
quản lý nông trại; Hạch toán sản xuất và tổ chức tiêu thụ sản phẩm trong
nông trại; Đánh giá kinh tế trong nông trại.
Mục tiêu học phần
Sau khi kết thúc môn học, người học nắm được các kiến thức cơ bản
về kinh tế hộ và trang trại; biết đánh giá kinh tế, tổ chức và quản lý một nông hộ
hoặc trang trại.
Phương pháp đánh giá học phần
- Điểm chuyên cần: 10%
- Điểm kiểm tra, thảo luận, tiểu luận môn học: 20%
- Thi tra kết thúc học phần hoặc chuyên đề môn học: 70%
- Thang điểm: 10/10
i
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ KT HỘ VÀ KT TRANG TRẠI ....................1
1.1
Kinh tế hộ.............................................................................................1
1.1.1 Các khái niệm cơ bản về kinh tế nông hộ...........................................1
1.1.2 Vị trí, vai trò của kinh tế hộ trong thời kỳ đổi mới .............................2
1.1.3 Những điểm sáng, những nhân tố tích cực ban đầu ............................3
1.1.4 Khó khăn và thách thức trong thời gian tới ........................................4
1.1.5 Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam ........................9
1.2
Kinh tế trang trại................................................................................12
1.2.1 Khái niệm và tiêu chí xác định trang trại..........................................12
1.2.2 Những thành tựu đạt được và tồn tại của kinh tế trang trại ở nước ta15
1.2.3 Những giới hạn của kinh tế nông hộ và tính tất yếu của sự phát triển
kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường .............................................17
1.2.4 Doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt Nam với hội
nhập kinh tế quốc tế ...................................................................................18
1.3
Quản trị trang trại..............................................................................21
1.3.1 Khái niệm và tầm quan trọng của quản trị trang trại.........................21
1.3.2 Chức năng của quản trị trang trại. ....................................................22
1.3.3 Các phương pháp quản trị................................................................24
CHƯƠNG II. LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI SẢN XUẤT...............................27
2.1
Những mối quan hệ có tính vật chất..................................................27
2.1.1 Mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất và sản phẩm sản xuất ra (sản xuất
với một đầu vào biến đổi). ..........................................................................28
2.1.2 Mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất (sản xuất với 2 đầu vào biến
đổi).
........................................................................................................34
2.1.3 Mối quan hệ giữa các sản phẩm. .....................................................36
2.2
Những mối quan hệ kinh tế ...............................................................38
2.2.1 Tối ưu hóa HQKT trong mối quan hệ giữa yếu tố SX và sản phẩm.38
2.2.2 Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa yếu tố và yếu tố
(nguyên tắc lựa chọn khối lượng sản phẩm tối ưu của người sản xuất).......39
ii
2.2.3 Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa các sản phẩm
(nguyên tắc lựa chọn cơ cấu sản phẩm của người sản xuất). ......................47
Chương 3. KẾ HOẠCH SẢN XUẤT..............................................................50
3.1
Khái niệm, ý nghĩa và hệ thống kế hoạch của trang trại ...................50
3.1.1 Khái niệm và ý nghĩa của kế hoạch trang trại..................................50
3.1.2 Hệ thống kế hoạch của trang trại.....................................................50
3.2
Dự toán ngân sách phương án sản xuất............................................52
3.2.1 Khái niệm về phương án và dự toán ngân sách phương án ..............52
3.2.2 Lập dự toán ngân sách phương án...................................................53
3.3
Xây dựng kế hoạch sản xuất toàn trang trại......................................56
3.3.1 Xác định mục tiêu ............................................................................57
3.3.2 Đánh giá các nguồn lực sản xuất.....................................................58
3.3.3 Lựa chọn các phương án có thể và hệ số kỹ thuật ............................58
3.3.4 Ước tính lợi nhuận gộp....................................................................59
3.3.5 Phân bổ tài nguyên phương án ........................................................60
3.3.6 Phương pháp hoạch định đơn giản ..................................................60
3.3.7 Lập kế hoạch thực hiện....................................................................63
3.4
Một số loại kế hoạch hoạt động cụ thể...............................................64
3.4.1 Kế hoạch sử dụng lao động .............................................................64
3.4.2 Kế hoạch dòng tiền mặt ...................................................................65
Chuơng 4. QUẢN LÝ CÁC YÉU TỐ SX TRONG TRANG TRẠI ..............68
4.1
Khái niệm chung về quản lý các yếu tố sản xuất trong trang trại .....68
4.2
Tổ chức quản lý đất đai......................................................................69
4.2.1 Vị trí, mục đích tổ chức quản lý đất đai ...........................................69
4.2.2 Quy hoạch sử dụng đất đai ..............................................................69
4.2.3 Cải tạo, bảo vệ, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đất đai .............73
4.2.4 Chỉ tiêu đánh giá trình độ và HQ của việc tổ chức SD đất đai .......74
4.3
Tổ chức quản lý các tư liệu sản xuất trong trang trại........................74
4.3.1 Khái niệm, phân loại và đặc điêm của nhiều sản xuất nông nghiệp .74
4.3.2 Tổ chúc quản lý tài sản cố định .......................................................75
4.3.3 Tổ chức quản lý tài sản lưu động.....................................................79
iii
4.3.4 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của quản lý tư liệu sản xuất...................81
4.4
Quản lý và sử dụng lao động trong trang trại....................................81
4.4.1 Vai trò và đặc điểm của lao động nông nghiệp ................................81
4.4.2 Xác định nhu cầu lao động của trang trại........................................82
4.4.3 Tuyển dụng, thuê mướn lao động.....................................................83
4.4.4 Tổ chức quản lý và sử dụng lao động...............................................83
4.4.5 Chế độ thù lao cho lao động ............................................................85
Chương 5. HẠCH TOÁN SX VÀ TỔ CHỨC TIÊU THỤ SẢN PHẨM .......87
5.1
Hạch toán sản xuất trang trại ............................................................87
5.1.1 Khái niệm, mục đích và đặc điểm hạch toán sản xuất trang trại ......87
5.1.2 Hạch toán chí phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ...................88
5.1.3 Các biện pháp hạ giá thành sản phẩm .............................................91
5.2
Tổ chức tiêu thụ sản phẩm.................................................................91
5.2.1 Vai trò và đặc điểm của việc tổ chức bán sản phẩm trang trại.........91
5.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm ...............92
5.2.3 Hoạt động tổ chức tiêu thụ sản phẩm của trang trại ........................94
5.2.4 Các biện pháp nâng cao giá trị sản phẩm........................................98
Tài liệu tham khảo: .........................................................................................99
iv
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ KINH TÉ HỘ VÀ KINH TÉ
TRANG TRẠI
1.1 Kinh tế hộ
1.1.1
Các khái niệm cơ bản về kinh tế nông hộ
Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên ngành
kinh tế, người ta định nghĩa về “hộ” như sau: “Hộ” là tất cả những người sống
chung trong một ngôi nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và người
làm công, người cùng ăn chung. Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái niệm về
“Hộ” gồm những người sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm
chung và cùng có chung một ngân quỹ.
Giáo sư Mc Gê (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng:
“Hộ” là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết
tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.
Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các
nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối quan hệ
chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.
Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981,
1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một nhóm người
có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là một
đơn vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”.
Giáo sư Frank Ellis Trường Đại học tổng hợp Cambridge (1988) đưa ra một
số định nghĩa về nông dân, nông hộ. Theo ông các đặc điểm đặc trưng của đơn vị
kinh tế mà chúng phân biệt gia đình nông dân với những người làm kinh tế khác
trong một nền kinh tế thị trường là:
Thứ nhất, đất đai: Người nông dân với ruộng đất chính là một yếu tố hơn
hẳn các yếu tố sản xuất khác vì giá trị của nó; nó là nguồn đảm bảo lâu dài đời
sống của gia đình nông dân trước những thiên tai.
Thứ hai, lao động: Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc
tính kinh tế nổi bật của người nông dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của
các nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các xí nghiệp tư bản.
1
Thứ ba, tiền vốn và sự tiêu dùng: Người ta cho rằng: “người nông dân làm
công việc của gia đình chứ không phải làm công việc kinh doanh thuần túy”
(Woly, 1966) nó khác với đặc điểm chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là
làm chủ vốn đầu tư vào tích lũy cũng như khái niệm hoàn vốn đầu tư dưới dạng
lợi nhuận.
Từ những đặc trưng trên có thể xem kinh tế hộ gia đình nông dân là một cơ
sở kinh tế có đất đai, các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của hộ gia đình, sử dụng
chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất và thường là nằm trong một hệ
thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu được đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào
các thị trường có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao.
Tóm lại trong nền kinh tế hộ gia đình nông dân được quan niệm trên các
khía cạnh:
Hộ gia đình nông dân (nông hộ) là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích
kinh tế; các nguồn lực (đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động...)
được góp thành vốn chung, cùng chung một ngân sách; cùng chung sống dưới
một mái nhà, ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định
đều dựa trên ý kiến chung của các thành viên là người lớn trong hộ gia đình.
Gia đình (family) là một đơn vị xã hội xác định với các mối quan hệ họ
hàng, có cùng chung huyết tộc. Trong nhiều xã hội khác nhau các mối quan hệ họ
hàng xây dựng nên một gia đình rất khác nhau. Gia đình chỉ được xem là hộ gia
đình (Household) khi các thành viên gia đình có cùng chung một cơ sở kinh tế.
1.1.2 Vị trí, vai trò của kinh tế hộ trong thời kỳ đổi mới
Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn nhân
lực, vừa là nguồn của cải vật chất (chưa nói tới tinh thần) cho cuộc chiến, đồng
thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm cuộc sống không những cho gia đình
(chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ gia đình làm kinh tế vườn
theo lối tự túc, tự cấp), mà còn đóng vai trò là hậu phương lớn miền Bắc cho tiền
tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ).
Vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn lao
động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực phát
triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị 100, ngày 312
01-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong hợp tác xã.
Tiếp theo đó, Nghị quyết 10, ngày 05 - 04 - 1988 của Bộ Chính trị về đổi
mới quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để kinh tế hộ nông dân trở
thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp.
Đối với khu vực nông, lâm trường, nhờ có Nghị định số 12/NĐ-CP, ngày
03-2-1993 về sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông
nghiệp nhà nước, các nông, lâm trường đã từng bước tách chức năng quản lý nhà
nước đối với với quản lý sảnxuất, kinh doanh, các gia đình nông, lâm trường viên
cũng được nhận đất khoán và hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ. Tuy những
đặc điểm truyền thống của kinh tế hộ vẫn không thay đổi, nhưng việc được giao
quyền sử dụng đất lâu dài đã làm cho hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất, kinh
doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới cho sự phát triển kinh tế trong nông nghiệp,
nông thôn đã xuất hiện.
1.1.3
Những điểm sáng, những nhân tố tích cực ban đầu
Chủ trương, chính sách về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho kinh tế
hộ (đất nông nghiệp 20 năm, đất lâm nghiệp 50 năm) đã nhanh chóng đi vào cuộc
sống của hàng triệu hộ nông dân. Và mặc dầu phong trào hợp tác xã không còn
phát huy tính tích cực như xưa, nhưng diện mạo của kinh tế hộ nông dân Việt
Nam đã thay đổi một cách cơ bản, nhất là ngày càng có nhiều đóng góp cho việc
giải phóng sức sản xuất, nâng cao sản lượng nông nghiệp, mở mang ngành nghề
mới, nâng cao thu nhập. Theo số liệu điều tra, trên 74,5% số hộ đã có từ 2 - 4 loại
hình hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập(1).
Cơ cấu hộ nông dân theo ngành nghề đang chuyển dịch theo hướng tăng
dần số lượng và tỷ trọng nhóm các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp, như
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số hộ làm nông, lâm nghiệp và
thủy sản giảm từ 80,9% năm 2001 xuống còn 70,9% năm 2006. Các nghiên cứu
đều cho thấy, giai đoạn 2001 - 2006 tốc độ chuyển dịch ấy đã diễn ra nhanh hơn
trước. Nếu thời gian này GDP nông nghiệp đóng góp 20,23% vào cơ cấu kinh tế,
nhưng là nền tảng của sự ổn định chính trị - xã hội vì chúng ta có tới trên 70%
dân số sống tại nông thôn, thì trong số đó, đã có tới 40% dân số nông thôn có
3
nguồn thu từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Đây là một động thái
tích cực.
Trong bản thân lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, số hộ sản
xuất thuần túy nông nghiệp giảm dần, trong lúc số hộ tham gia sản xuất lâm
nghiệp, thủy sản tăng lên. Tuy vậy, tính đến năm 2006, số lượng và tỷ trọng các
hộ trong lĩnh vực thủy sản (chiếm 6,2%), lâm nghiệp (chiếm 0,3%) vẫn bị đánh
giá là còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng thực tế.
Một động thái tích cực rất đáng được lưu ý của kinh tế hộ nông dân là sự xuất
hiện ngày càng nhiều các hộ bứt phá khỏi tình trạng tự cung, tự cấp vươn lên sản
xuất hàng hóa, trong đó phương thức trang trại gia đình phát triển mạnh và ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Trong bản thân kinh tế hộ trang trại cũng có sự phát triển về chất, xuất hiện
nhiều nhu cầu đầu tư vốn lớn, thuê đất canh tác và lao động thường xuyên hoặc
theo thời vụ, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây, con theo hướng đáp ứng ngày
một tốt hơn nhu cầu thị trường. Chẳng hạn, trang trại chăn nuôi tăng rất nhanh,
bên cạnh số trang trại sản xuất cây hàng năm và cây lâu năm cũng có sự phát
triển về số lượng và chất lượng. Lượng hàng hóa nông sản của các trang trại đang
ngày càng có vị trí trên thương trường. Một số các trang trại lớn đã bắt đầu phát
triển thương hiệu, mở rộng các quan hệ làm ăn với các công ty lớn trong chế
biến, thu mua và xuất khẩu.
1.1.4 Khó khăn và thách thức trong thời gian tới
Kinh tế hộ gia đình phần lớn sản xuất với qui mô nhỏ, tự cấp, tự túc, do
ruộng đất giao cho các hộ manh mún, bình quân ruộng đất trên đầu người thấp.
-Trình độ học vấn, trình độ tay nghề của người lao động thấp, việc tổ chức
sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên chất
lượng sản xuất, kinh doanh chưa cao và thiếu bền vững.
Chất lượng sản phẩm hàng hoá của các hộ gia đình chưa cao, chủ yếu dưới
dạng thô, tiêu thụ khó khăn, chưa nắm bắt được thị trường, nên còn thụ động,
hiệu quả thấp.
Khó khăn và thách thức lớn đối với nông dân nước ta nói chung và kinh tế hộ
nói riêng trong tiến trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới là chênh lệch
4
lớn về năng suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Đây là một
trong số các nguyên nhân chính đang khoét sâu thêm khoảng cách cả thu nhập lẫn
mức chi tiêu giữa nông thôn và thành thị... Thêm vào đó tỷ lệ hộ nghèo khu vực
nông thôn tuy đã giảm mạnh, hơn một nửa trong khoảng thời gian 10 năm, năm
1993 - 2004, từ 66,4% xuống còn 25%. Hai năm gần đây, tỷ lệ hộ nghèo của cả
nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007, vượt kế hoạch
đề ra (16%). Nhưng trong nông thôn, cá biệt một số tỉnh miền núi, tại những vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng
cao: Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện Biên 40,77%; Hà
Giang 39,44% và Bắc Cạn 37,8%. Dù khu vực nông thôn chiếm tới 90% số hộ
thuộc diện nghèo của cả nước, nhưng tốc độ giảm nghèo ở nông thôn vẫn chậm
hơn thành thị tới 20%. Tính bền vững trong các trường hợp thoát đói nghèo trong
nông nghiệp, nông thôn không chắc chắn, do thiên tai, dịch bệnh, ốm đau... Điểm
xuất phát thấp, tốc độ phát triển chậm, rủi ro lớn, thì khoảng cách khó có thể rút
ngắn nếu không có những giải pháp mang tính đột phá.
Nếu chia toàn bộ dân số ra 5 nhóm bằng nhau về số người và theo các mức thu
nhập từ thấp đến cao để so sánh chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số giàu
nhất với nhóm 20% dân số có mức thu nhập thấp nhất, thì nếu năm 1994, chênh lệch
giữa nhóm giàu và nghèo là 6,50 lần, đến năm 2006 đã tăng lên 8,34 lần. Nhưng nếu
nhóm dân số càng nhỏ lại, 10%, hay 5%, thì sự chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu
và nhóm nghèo lại càng tăng lên đáng kinh ngạc. Theo một cách suy luận khác,
chênh lệch giàu nghèo là rất lớn khi đang tồntại nghịch lý ở Việt Nam, rằng thu nhập
GDP đầu người thì còn rất thấp, nhưng giá nhà, đất lại cao ngất ngưởng, ngang với
cả những nước có thu nhập GDP cao gấp hàng chục lần.
Hộ nông dân thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt của
quy luật thị trường. Cơ hội kiếm tiền sẽ đến với người có vốn, có điều kiện về
thông tin, và kể cả điểm xuất phát cao, sẽ nhiều hơn rất đáng kể so với các đối
tượng khác, nhất là người nghèo. về nguyên lý, thị trường dường như mang lại cơ
hội cho tất cả mọi người, nhưngkhông phải mọi người đều có đủ khả năng như
nhau để tận dụng cơ hội đó. Người nắm thông tin, người nhiều vốn, người lanh
lợi và phải có chút “tinh quái” mới tận dụng cơ hội tốt hơn và do đó giàu lên
5
nhanh hơn. Không ít người lợi dụng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước những năm gần đây nắm giữ nhiều cổ phiếu; hay những người biết trước
thông tin về quy hoạch nên đầu cơ được những khu đất đắc địa... từ đó càng có
điều kiện thu vén những nguồn lợi từ các cơ hội tốt, lại càng có điều kiện tích lũy
làm giàu - giàusẽ dễ giàu thêm hơn, nghèo thì thua thiệt và dễ nghèo đi.
Nhiều hộ nông dân đang rơi vào cảnh thua thiệt đó trước vòng xoáy của các
quy luật thị trường, nhất là ở những nơi hợp tác xã không còn tồn tại, chính
quyền cơ sở lại yếu kém, thì không biết dựa vào đâu? Bởi vậy, sự nghiệt ngã của
tình cảnh “nghèo thì nghèo thêm, giàu thì giàu nhanh hơn” đang là tác nhân
chính khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo giữa người giàu và người nghèo,
giữa nông thôn và thành thị. Đây là nguyên nhân chính của hiện tượng số người
tự do di cư ra thành thị kiếm việc làm đang tăng lên hàng ngày. Người nông dân
bị thu hồi đất cho công nghiệp hóa, hay đô thị hóa cũng rơi vào tình trạng tương
tự. Tư liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi, trong lúc chưa chuẩn bị kịp các điều
kiện để chuyển đổi nghề nghiệp. Phần đông nông dân có tiền (ý nói tiền đền bù
do bị thu hồi đất) cũng khó tìmphương án nào cho hiệu quả để sử dụng lượng tiền
dành dụm được cho sản xuất, kinh doanh. Họ luôn trong tâm lý lo sợ rủi ro, bởi
vậy, tư duy “ăn chắc, mặc bền” vẫn là phổ biến, có đồng nào đổ vào “xây nhà
xây cửa” chắp vá, cơi nới một cách manh mún rất tốn kém.
Vốn tích lũy của các hộ gia đình cũng có sự phân biệt khá rõ giữa các loại
hình sản xuất. Theo số liệu của tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006
của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2006 vốn tích lũy bình quân một hộ
nông thôn là 6,7 triệu đồng, tănggấp 2,1 lần so với thời điểm tháng 10 năm 2001.
Nhưng vốn tích lũy của các hộ sản xuất phi nông nghiệp vẫn vượt lên cao hơn
các hộ thuần nông. Hộ vận tải tích lũy bình quân là 14,9 triệu đồng, hộ thương
nghiệp 12,1 triệu đồng, hộ thủy sản 11,3 triệu đồng, trong khi đó hộ nông nghiệp
thuần chỉ tích lũy dưới 4,8 triệu đồng. Lý do chính của việc tiết kiệm tiền trong
phần đông các hộ gia đình nông thôn(2) không phải là để tích lũy mở rộng sản
xuất, mà 82%số người được hỏi trả lời là để chi trả khám và chữa bệnh khi cần
thiết và 70% trả lời là để đề phòng các nhu cầu chi tiêu đột xuất khác, chỉ 6%
mong đợi lợi nhuận hay lãi suất.
6
Trong kinh tế thị trường, việc tìm ra cây gì, con gì để cho sản xuất hàng hóa
lớn đã khó, thì việc tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp mấy
năm gần đây cũng đang khó khăn không kém. Đã thế, thị trường đầu vào của sản
xuất nông nghiệp biến động rất bất lợi cho các hộ nông dân, giá lên cao liên tục,
giao thông khó khăn, vốn ít nên khó khăn trong việc mua giá thấp với khối lượng
lớn (mua buôn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu những nhà cung cấp tin cậy và ổn
định, và còn thiếu cả thông tin để có cơ hội lựa chọn phương án tối ưu.
Khó khăn trong khâu sơ chế và chế biến sau thu hoạch cũng là một cản trở
lớn đối với kinh tế hộ nông dân. Phần lớn các hộ nông dân đều thiếu kỹ thuật và
khả năng sơ chế nông sản sau thu hoạch, thiếu thông tin thị trường, chi phí giao
dịch cao... Nên phần lớn nông sản chưa nâng được thêm giá trị kinh tế đáng kể
trong các khâu tiếp theo của quy trình sản xuất đến tay người tiêu dùng, kể cả
mẫu mã, tiếp thị và tiêu thụ, xuất khẩu.
Nhiều hộ nông dân đang rất cần đến những sự trợ giúp có tính chất cộng
đồng, hiệp hội ngành hàng hay hợp tác trong các khâu, nhất là đầu vào và đầu ra
của sản xuất, nhưng các hợp tác xã (HTX) hiện nay trong nông nghiệp, nông thôn
chưa đáp ứng đầy đủ, do chưa hoạt động thật hiệu quả và thiết thực. Theo số liệu
điều tra của Trung tâm Phát triển nông thôn (RUDEC) năm 2007, thì HTX chỉ đáp
ứng 6,9% nhu cầu phân bón và 13,8% nhu cầu giống, trong khi đó các đại lý tư
nhân cung cấp tới 59,2% phân bón và 43,1% giống. Thực trạng chung của các
HTX là, mức vốn hoạt động còn nhỏ, đặc biệt là các HTX trong nông nghiệp, công
nghiệp, xây dựng, thương mại. Tỷ lệ vốn cố định ở các HTX rất cao, từ trên 70%
đến 95%. Tình trạng này làm cho HTX thường không đủ vốn lưu động để hoạt
động, do đó cũng không phát huy được vốn cố định, trong khi vay ngân hàng thì
gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp. Ngược lại, trong lĩnh vực tín dụng thì tỷ
trọng vốn cố định rấtthấp (chưa đạt 5%), dẫn đến tình trạng chung ở các quỹ tín
dụng là cơ sở làm việc rất nghèo nàn, không đảm bảo an toàn cho việc mở rộng
hoạt động huy động và cho vay. Tỷ lệ HTX có quan hệ tín dụng với ngân hàng và
các tổ chức tín dụng khác chỉ bằng 11,3% số HTX được thống kê, điều đó cho thấy
các HTX chưa phát triển các quan hệ tín dụng với ngân hàng để có thêm vốn phát
triển các dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã viên.
7
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với quá trình sản xuất nông nghiệp.
Nhưng khókhăn lớn hiện nay là diện tích đất nông nghiệp đang mất vào các khu
công nghiệp, khu đô thịvà giao thông với tốc độ quá nhanh. Đất trồng lúa nước
năm 2005 đã giảm trên 302 ngàn hécta so với năm 2000. Theo số liệu thống kê,
trong 5 năm qua cả nước đã có khoảng 13% số hộ nông dân bị mất đất, mà lý do
chính là bị thu hồi do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa.Trong khi đó,
nhiều hộ khác tuy đã năng động chuyển đổi ngành nghề, nhưng vẫn không đủ
“can đảm” (tính chắc chắn của nghề mới chưa bảo đảm cho các hộ chuyển nghề
yên tâm) để nhượng ruộng cho người khác canh tác hay thuê người làm. Phần lớn
là giữ đất hay có chăng cũng là cho con cháu làm để vừa đủ mức nộp thuế sử
dụng đất. Bởi vậy, tốc độ tích tụ, hoặc dồn điền, đổi thửa diễn ra quá chậm so với
nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí sử dụng
đất diễn ra khá phổ biến. Tại Nam Định, có địa phương người nông dân muốn trả
ruộng thì chính quyền xã không nhận, vì thời hạn giao đất vẫn còn hiệu lực, nếu
nhận thì xã không thu được lệ phí. Trong khi đó người dân nơi khác đến canh tác
thì khó khăn do chính sách cư trú... Hay tại huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có đến
10.600 hộ nông dân mất đất, dẫn đến việc làm cho 21.000 lao động không có
việc làm. Nhưng số diện tích bị thu hồi lại bỏ hoang, chờ dự án, hoặc chỉ sử dụng
khoảng 30%...
Lề lối làm ăn còn nặng về sản xuất nhỏ, manh mún, chưa thích ứng với kinh
tế thị trường. Chữ tín trong làm ăn là rất quan trọng, thế nhưng một số địa
phương nông dân sẵn sàng “phá hợp đồng” để được lợi trước mắt do giá thị
trường đột ngột lên cao so với hợp đồng, như trong hợp đồng bán hoa hồi cho đối
tác Bắc Âu tại Lạng Sơn. Hay giã tâm, bất chấp độc hại, phun thuốc kích thích
sinh trưởng để nhanh chóng có rau phục vụ đồng bào mình ở đô thị ở các vùng
lân cận đô thị. Còn chuyện giá cả lên xuống thất thường là quy luật cung - cầu
của thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp, tính chất mùa vụ và sự lệ thuộc vào
đất đai, tiểu khí hậu rất chặt chẽ, nên khó có thể thành công nếu cứ chạy theo cái
“lên - xuống” của thị trường. Thế mà, một số nông dân ở huyện Đông Triều,
Quảng Ninh, khi giá vải xuống, thì chặt vải trồng cây sưa (cây lấy gỗ phải mất 50
năm mới cho thu hoạch, mà giá lúc đó chưa ai có thể nói rõ là sẽ như thế nào); ở
8
một số địa phương phía Namcũng vậy, thấy giá một số cây trồng khác đang sốt
lên, thì vội chặt cây điều đang kỳ cho thu hoạch... Trong khi đó, các ngành chức
năng thiếu sự tuyên truyền, giải thích hữu hiệu để có định hướng sản xuất đúng
và hơn nữa có quy hoạch cây con một cách khoa học, ổn định lâu dài. Chẳng hạn,
nhiều địa phương đã khá thành công trong việc tìm kiếm thị trường “cần những
cái mình có”, như chè Nghệ An vào thị trường Trung Đông, gạo, hạt tiêu, cà
phê... xuất khẩu ra thế giới.
Hội nhập càng sâu, nền kinh tế càng sớm hòa vào dòng chảy chung của thế
giới, rõ rệt nhất là sự san bằng mặt giá các vật phẩm tiêu dùng do giá xuất nhập
khẩu nguyên liệu đầu và và năng lượng rất nhanh chóng bị “quốc tế hóa về giá”,
bởi vậy các hộ gia định nông dân phần lớn là nghèo và dưới trung bình của xã
hội về mức sống sẽ dễ bị tốn thương khigiá cả leo thang. Thực tế vừa qua cho
thấy tình trạng nhập khẩu lạm phát (do giá thế giới lên cao, nhất là xăng dầu...)
đan xen với xuất khẩu lạm phát (xuất được gạo giá cao thì giá gạo trong nước
cũng sốt lên, xuất được giấy giá cao thì giá giấy trong nước cũng tăng lên, thậm
chí thiếu giấy..).
Công nghiệp của đất nước phát triển chưa đủ mạnh để thu hút một lượng
lớn lao động nông thôn. Và dù có xuất hiện một nhu cầu lớn lao động thì trình độ
đào tạo của một lượng lớn lao động nông thôn cũng chưa thế đáp ứng kịp (ước
tính mới chỉ có 17% lao động qua đào tạo). Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao
động đang hiện hữu. Bởi vậy, thách thức rất lớn đối với lao động nông thôn là
chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Theo ước tính của chúng tôi,
nếu năng suất lao động tăng như vừa qua, thì để sự chênh lệch thu nhập không
quá cách biệt giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, một
hộ gia định nông nghiệp (trung bình có 2 lao động chính) phải được canh tác trên
một diện tích là 1 - 2 héc-ta. Đến bao giờ mới tích tụ được như thế, câu hỏi thuộc
về các nhà hoạch định chiến lược của đất nước.
1.1.5 Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam
Từ hộ nông dân tự cung tự cấp chuyển sang kinh tế hàng hóa kinh tế hộ
nông dân nói riêng và kinh tế nông thôn nông nghiệp nói chung có thể phát triển
theo các xu hướng cơ bản như sau:
9
Quá trình hình thành các nông trại hay trang trại gia đình. Sự hình thành các
nông trại hany các trang trại gia đình chính là sự hình thành các cơ sở sản xuất
hàng hóa nông nghiệp. Từ hộ gia đình nông dân tự cung tự cấp, sản xuất mang
nặng tính chất hiện vật sang nền kinh tế trang trại sản xuất hàng hóa là một lịch
sử tiến hóa lâu dài trong quá trình hình thành nền nông nghiệp thương phẩm. Và
con đường này không phải của riêng các nước TBCN. hay là các nước đang phát
triển. mà đó là sự phát triển hợp quy luật của nền nông nghiệp toàn cầu;
Sự hình thành các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho nghề nông thương
phẩm và đời sống của dân cư nông thôn diễn ra cùng với quá trình công nghiệp
hóa nông thôn. Quá trình này làm nảy sinh các quan hệ hoạt động trong các lĩnh
vực kinh tế, kỹ thuật ngoài ruộng đất - tức kinh doanh tách khỏi ruộng đất;
Quá trình làm tan rã hoàn toàn về mặt kinh tế các hộ nông dân nghèo, hiệu
quả sản xuất thấp (có mức thu nhập dưới ngưỡng tích lũy) cùng với quá trình gia
tăng phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đây là quá trình phi nông nghiệp, giải
phóng dần cư dân khỏi lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Đây là nội dung quan
trọng của quá trình phân công lại lao động xã hội và chuyển xã hội nông thôn
truyền thống sang xã hội nông thôn hiện đại.
Ba quá trình trên là những bộ phận khác nhau của cùng một nội dung:
chuyển kinh tế nông thôn truyền thống sang kinh tế hàng hóa. Có thể xem kinh tế
Trang trại gia đình là một hình thức phát triển cao của kinh tế hộ nông dân, là hạt
nhân, là nhân vật trung tâm trong mối quan hệ đan xen với kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã tạo thành kết cấu kinh tế nhiều thành
phần, đặc trưng cho nền kinh tế nông thôn đang trong quá trình xác lập nền kinh
tế hàng hóa hiện đại.
Quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa
phản ánh một xu thế có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Đặc
trưng của quá trình này là sự thay thế khiêu tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất
khép kín theo từng vùng, từng địa phương với kĩ thuật lạc hậu, sản xuất chậm phát
triển sang kinh tế thị trường. Thị trường là trung tâm của quá trình sản xuất và các
mối quan hệ kinh tế đều thực hiện thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Kinh tế thị trường có sức sống kỳ diệu của chính sự phát triển. Phát triển
10
kinh tế hàng hóa sẽ khai thác mọi tiềm năng của nền kinh tế, phát huy được tính
sáng tạo của người lao đông. Khác với kinh tế tự nhiên, sản xuất hàng hóa là
nhằm mục đích trao đổi, đáp ứng nhu cầu của người khác do đó kinh tế hàng hóa
có ưu thế là phát triển nhu cầu. Mà nhu cầu chính là động lực để thúc đẩy phát
triển kinh tế, phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, cũng chính từ
đó tạo ra động lực kinh tế cho con người, thúc đẩy làm giàu, phát triển đi lên. Chỉ
có sản xuất hàng hóa mới tạo ra được mục tiêu và động lực rõ ràng cho người sản
xuất, dịch vụ và họ tồn tại vì người khác - người tiêu dùng. Kinh tế hàng hóa ra
đời và phát triển trên cơ sở phân công lao động xã hộ nhưng đến lượt nó, chính
sự phát triển của kinh tế hang hóa lại tác động, thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công
lao động xã hội ở trình độ cao hơn.
Kinh tế hàng hóa còn tạo ra được cơ chế đánh giá vai trò vị trí của từng cá
nhân, bộ phận và thành phần kinh tếtrong xã hội. Đặt mọi người vào vị trí bình
đẳng thực sự thông qua cơ chế cạnh tranh để chọn lọc, đào thải làm cho con
người trở nên năng động và sáng tạo hơn.
Chính kinh tế hàng hóa là yếu tố đảm bảo cho sự hòa nhập giữa kinh tế
trong nước và kinh tế thế giới, có tác dụng nâng cao trình độ quản lý sản xuất,
chất lượng sản phẩm nhằm tạo ra cơ chế động lực thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất và xã hội hóa nền sản xuất.
Chuyển sang kinh tế hàng hóa với xuất phát điểm là hộ nông dân với tính
cách là đơn vị kinh tế độc lập đồng thời cũng là một sự xác lập một trình độ mới
của sự hợp tác.
Hợp tác đó là phương thức tồn tại và phát triển của lao động của con người
xuất phát từ bản chất xã hộ của lao động. Nghiên cứu tư tưởng của những nhà
sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học và những học giả khác trong lịch sử về chế
độ hợp tác có thể tóm tắt tư tưởng của họ về vai trò vị trí của kinh tế hộ nông dân
và xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân như sau:
a. Do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp kiểu tổ chức kinh tế Trang
trại gia đình là hình thức kinh tế có hiệu quả cao.
b. HTX là con đương đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân trong
quá trình xây dựng chế độ kinh tế mới.
11
c. Các quan hệ hợp tác này sinh trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nhu cầu của các hộ gia đình và hoàn toàn mang tính chất tự nguyện.
d. “HTX nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, phục vụ cho nó
và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì HTX sẽ không còn ý nghĩa gì cả” [70].
HTH là một quá trình xã hội hóa từng bước kinh tế nông dân. Kinh tế HTX ra
đời, phát triển không phá vỡ kinh tế hộ gia đình nông dân, nó tách dần một số
lĩnh vực, một số công việc mà nếu làm ở gia đình không có lợi bằng hợp tác lại.
Cho đến nay ở các nước có nền kinh tế phát triển cao cho đến các nước mới
NIC gần đây, chúng ta đều thấy xuất hiện một cách đa dạng các loại hình HTX
trong nông thôn, nông nghiêph trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình (kinh tế
trang trại). Các hộ nông dân xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi ích của mình đã tự
nguyện hợp sức thành các HTX để tạo nên sức mạnh kinh tế lớn hơn, có hiệu quả
hơn nhằm chống lại quá trình cạnh tranh, chèn ép của các công ty Tư bản.
1.2 Kinh tế trang trại
1.2.1
Khái niệm và tiêu chí xác định trang trại
FAO (1997), đã đưa ra khái niệm trang trại trên cơ sở khái niệm nông trại.
Theo FAO, nông trại (Farm) là một mảnh đất mà trên đó nông hộ thực hiện các
hoạt động sản xuất nông nghiệp phục vụ cho sinh kế của họ. Nông trại ở khu vực
châu Á được chia thành 6 loại hình cơ bản theo mục đích sản xuất, diện tích đất
đai và mức độ phụ thuộc khác nhau.
(1) Nông trại gia đình qui mô nhỏ sản xuất theo hướng tự cấp tự túc
Đối với nông trại thuộc loại này, "tự cấp tự túc" (sản xuất để tiêu thụ gia
đình) là mục tiêu chủ yếu của nông trại. Có thể có sản phẩm để bán nhưng không
đáng kể. Nông trại thuộc loại này thường độc lập với bên ngoài (không chịu tác
động của thị trường).
(2) Nông trại gia đình qui mô nhỏ, một phần sản xuất hàng hóa.
Mục tiêu của nông trại thuộc loại này là (l) tiêu thụ gia đình thông qua việc sản
xuất các nông sản phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày của gia đình và (2) thu nhập tiền
mặt thông qua việc bán sản phẩm dư thừa so với yêu cầu tiêu dùng gia đình.
(3) Nông trại gia đình qui mô nhỏ, sản xuất chuyên môn hóa và độc lập.
Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là chuyên môn hóa trong một số hoạt
12
động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi cụ thể. Mục tiêu của nông trại loại này cũng bao
gồm sản xuất hàng hóa và tiêu thụ gia đình nhưng ở mức độ chuyên môn hóa.
(4) Nông trại gia đình qui mô nhỏ, chuyên môn hóa sản xuất nhưng phụ thuộc .
Tương tự như loại hình trang trại 3 nhưng có một khác biệt cơ bản là hộ gia
đình ít có quyền lực trong việc ra quyết định sản xuất của nông trại. Điều này do
một số lý do sau:
- Đất sản xuất của nông trại không thuộc quyền sở hữu của gia đình mà
được thuê mướn từ các chủ đất khác;
- Hộ gia đình phải vay mượn các đầu vào cho sản xuất từ các doanh nghiệp
và sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của các doanh nghiệp;
- Chịu sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động sản xuất của gia đình (ví
dụ như qui hoạch vùng sản xuất.).
(5) Nông trại gia đình sản xuất hàng hóa với qui mô lớn.
Nông trại loại này có qui mô như một trang trại và người hưởng lợi của
nông trại là các thành viên trong gia đình, cũng là chủ nông trại mà không phải là
người ngoài gia đình làm chủ và hưởng lợi. Mục tiêu hoạt động của nông trại loại
này là lợi nhuận thông qua sản xuất hàng hóa bán ra thị trường.
(6) Nông trại sản xuất hàng hóa.
Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là sản xuất độc canh, diện tích nông
trại lớn từ 20 - 2000 ha. Người hưởng lợi chủ yếu của nông trại là người chủ
nông trại, họ chỉ làm công tác quản lý, không tham gia lao động trực tiếp trên
nông trại. Lao động cho nông trại hoàn toàn được thuê mướn. Lợi nhuận là mục
tiêu hàng đầu của các nông trại loại này.
Loại hình nông trại thứ 5 và 6 được xem như là trang trại. Như vậy, trang
trại là nông trại có qui mô lớn và tập trung vào sản xuất hàng hóa để bán ra thị
trường nhằm mục tiêu chủ yếu là tạo ra lợi nhuận.
Ở nước ta hiện nay, có nhiều nhận thức và quan điểm khác nhau về trang
trại và kinh tế trang trại:
Ban kinh tế Trung ương cho rằng "Trang trại là một hình thức tổ chức kinh
tế trong nông- lâm-ngư nghiệp phổ biến được hình thành trên có sở phát triển
kinh tế hộ nhưng mang tính sản xuất hàng hóa rõ rệt".
13
Tác giã Nguyễn Thế Nhã cho rằng "Trang trại là một loại hình tổ chức sản
xuất cơ sở trong nông, lâm, thủy sản có mục đích chính là sản xuất hàng hóa, có
tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập,
sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất với các yếu tố sản xuất tiến bộ và
trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”.
Theo thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT IBNN-TCTK ngày 20/06/2000
của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Tổng cục thống kê hướng dẫn các
tiêu chí xác định trang trại như sau:
Giá trị sản lượng hàng hóa và giá trị bình quân một năm đạt từ 40 triệu
đồng trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và ven biền miền Trung, từ 50 triệu đồng
trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên.
Có qui mô sản xuất tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ
tại địa phương, tương ứng với từng ngành sản xuất cụ thể như trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
- Đối với các trang trại trồng cây hàng năm là chủ yếu thì ở miền Bắc và
miền Trung phải có diện tích từ 2 ha canh tác trở lên, còn ở các tỉnh Nam Bộ phải
có diện tích từ 3 ha trở lên;
- Đối với trang trại trồng các loại cây lâu năm và cây ăn quả, thì ở các tỉnh
miền Bắc và miền Trung phải có diện tích từ 3 ha trở lên, ở các tỉnh Nam Bộ phải
có diện tích từ 5 ha trở lên;
- Đối với trang trại chăn nuôi như trâu bò phải có từ 50 con trở lên, lợn 100
con trở lên (không kể lợn sữa dưới 2 tháng, gia cầm có từ 2.000 con trở lên
(không tính số con dưới 7 ngày tuổi);
- Đối với trang trại lâm nghiệp phải có 10 ha đất rừng trở lên;
- Đối với trang trại nuôi trồng thủy sản phải có từ 2 ha diện tích mặt nước trở lên.
Có sử dụng lao động làm thuê thường từ 2 lao động/năm. Nếu lao động
thời vụ thì quy mô qui đổi thành lao động thường xuyên.
Chủ trang trại phải là người có kiến thức, kinh nghiệm về nông, lâm,
ngư nghiệp và trực tiếp điều hành sản xuất tại trang trại.
Lấy sản xuất hàng hóa làm hướng chính và có thu nhập vượt trội so với
trung bình của kinh tế hộ tại địa phương.
14
Như vậy, nông hộ được xem là cơ sở để hình thành trang trại, một nông hộ
bình thường không được xem là trang trại, khi nông hộ phát triển đến một mức
độ nhất định hội đủ các tiêu chỉ trên sẽ được xem là một trang trại. Tuy nhiên,
hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định trang trại và phân biệt
giữa trang trại và nông hộ sản xuất hàng hóa giữa các vùng khác nhau, cho nên
cũng là một hình thức tổ chức kinh tế giống nhau nhưng có nơi gọi là trang trại
(như Yên Bái, Bình Dương, Bình Phước), có nơi gọi là hộ sản xuất kinh doanh
tổng hợp (như Sóc Trăng). Vì thế mà số lượng trang trại được thống kê trên cả
nước thường không chính xác.
Kinh tế trang trại là một khái niệm khác, phân biệt với khái niệm "trang
trại". "Kinh tế trang trại" là tổng thể các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối
quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động của trang trại. Còn “trang trại”
là nói kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của của các mối quan
hệ kinh tế đó, trang trại là nơi diễn ra các mối quan hệ.
1.2.2 Những thành tựu đạt được và tồn tại của kinh tế trang trại ở nước ta
(1) Những thành quả đạt được
- Kinh tế trang trại nước ta dù còn nhỏ bé những đã góp phần phát huy nội lực,
khơi dậy được tiềm năng đất đai, lao động, vốn trong dân cư, cho đầu tư phát triển
sản xuất nông lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ cấu vốn của trang trại
chủ yếu là vốn tự có của chủ trang trại chiếm 85%. Phần còn lại là vay ngân hàng
8%, vay thân nhân 6% và 1% là do liên kết với doanh nghiệp Nhà nước.
- Kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, tạo ra các vùng tập trung, chuyên canh, sản xuất hàng hóa làm
tiền đề cho phát triển công nghiệp chế biên nông sản, thực phẩm ; tạo thuận lợi
cho việc đưa công nghiệp, dịch vụ vào nông thôn ,tăng tốc độ phủ xanh đất trống,
đồi núi trọc, cải thiện môi trường sinh thái.
Đến nay nhiều vùng sản xuất tập trung về cây công nghiệp và cây ăn quả
như: Cà phê, điều, hồ tiêu, mía, vải thiều,... về chăn nuôi bò sữa, bò thịt, dê, cừu,
nuôi tôm,... được hình thành phát triển dựa vào phát triển kinh tế trang trại.
- Kinh tế trang trại tạo thêm việc làm, góp một phần giải quyết số lao động
dư thừa trong nông thôn, tăng thu nhập cho một phận dân cư, góp phần thúc đẩy
15
việc nâng cao dân trí và đời sống văn hóa ở nông thôn, đặc biệt là ở vùng trung
du, miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
Năm 1997, bình quân giá trị thu hoạch sản phẩm trên 1 ha của nhiều trang
trại khá cao. Một số trang trại trồng hồ tiêu, thu nhập đạt từ 200 đến 500 triệu
đồng/ha; trang trại nuôi tôm đạt từ 80 đến 150 triệu đồng/ha,... Nhờ đó mà nhiều
chủ trang trại đã giàu lên nhanh chóng ; thu nhập của người lao động làm thuê
thường xuyên đạt khoảng 300 dấn 600 ngàn đồng/tháng ; người làm thuê thời vụ
nhận được đến 25000 đồng/ngày
- Kinh tế trang trại gắn với thị trường, phải tham gia cạnh tranh quyết liệt
trên thị trường, chính vì vậy, các trang trại có yêu cầu hợp tác, liên kế lại với
nhau với kinh tế nhà nước về nhiều mặt để có sức cạnh tranh trên thị trường và
cùng nhau chung sức giải quyết các nhu cầu xã hội của người lao động. Mối quan
hệ hợp tác sẽ giúp cho các trang trại vượt qua nhiều khó khăn, đặc biệt là vốn đầu
tư cho sản xuất là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế trang trại trong điều kiện hiện hiện nay.
(2) Những tồn tại:
- Đối với hầu hết các trang trại gia đình, trình độ quản lý của chủ trang trại
còn nhiều hạn chế, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa chú trọng vào
việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Hầu hết lao đông làm thuê cho
các trang trại thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật chưa được đào tạo qua các
trường lớp.
- Nhiều trang trại còn lúng túng về phương hướng sản xuất, thu nhập thấp.
Ở Yên Bái, năm 1997, thu nhập bình quân một trang trại chỉ có 14,5 triệu đồng.
- Các trang trại đều chưa được thừa nhận về mặt pháp lý nên chưa có tư
cách pháp nhân trong quan hệ giao dịch với cơ quan Nhà nước và các tổ chức
kinh tế nhất là đối với ngân hàng.
Thực tế, chủ trang trại chỉ được xem như là một chủ hộ nông dân bình
thường, trong khi đó qui mô sản xuất của chủ trang trang trại lớn gấp trăm thậm
chi gấn ngàn lần, nhất là vốn. Thiếu tư cách pháp nhân chủ trang trại chịu thiệt
thòi về nhiều mặt, do đó họ chưa yên tâm và không có điều kiện để mở rộng sản
xuất kinh doanh.
16
- Các trang trại đều có qui mô ruộng đất vượt quá hạn điền theo quy định
của Luật đất đai hiện hành. Hầu hết quỹ đất của trang trại là do khai hoang, phục
hóa và nhận chuyển nhượng từ người khác.
Nguồn vốn và lao động của gia đình, nhưng lại chưa được pháp luật công
nhận. Đến nay, Nhà nước vẫn chưa có chính sách về đất đai vượt quá hạn điền
của các trạng trại nên họ còn rất băn khoăn. Hiện tượng phân tán ruộng đất của
các trạng trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng ngầm còn diễn ra phổ biến.
- Quan hệ giữa trang trại với chính quyền địa phương, các chủ thể kinh tế (nông
trường, lâm trường, hợp tác xã nông nghiệp) và các hội nông dân trên địa bàn còn
chưa rõ ràng, cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Ranh giới giữa trang trại và hộ nông sản
xuất giỏi chưa được phân định đúng với thực tế và nói chung là chưa rõ ràng.
- Thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhà nước chưa có chính sách tín dụng để
hỗ trợ các trang trại nhất là trong nhưng năm đầu thành lập.
- Thiếu kỹ thuật, hoạt động sản xuất của trang trại còn dựa chủ yếu vào kinh
nghiệm hơn là áp dụng khoa học kỹ thuật, thiếu máy móc, nông cụ và thiêu lao
động lành nghề, nhưng bản thân các trang trại không có điều kiện đào tạo, bồi
dưỡng trong khi Nhà nước chưa quan tâm.
- Cơ sở hạ tầng yếu kém, gây khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất.
Hầu hết các trạng trại hiện nay được hình thành ở vùng trung du, miền núi đất
xấu, địa hình phức tạp, giao thông thủy lợi, điện đều khó khăn. Do đó sản phẩm
làm ra nhiều đang mâu thuẫn với khả năng vận chuyển chế biến và tiêu thụ.
- Thị trường và giá cả nông sản chưa ổn định nên nhiều chủ trang trại không
muốn mở rộng qui mô sản xuất mặc dù khả năng đất đai. lao động vẫn còn.
1.2.3 Những giới hạn của kinh tế nông hộ và tính tất yếu của sự phát
triển kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường
Từ sau nghị quyết 10 của bộ chính trị (tháng 4 năm 1988) và Nghị quyết hội
nghị Trung ương Đảng khóa 6 (tháng 3/1989) "Gia đình xã viên trở thành những
đơn vị kinh tế tự chủ". Hộ nông dân (nông hộ) trong cả nước đã huy động được
mọi khả năng sẵn có về lao động, vật tư - tiền vốn để đầu tư sản xuất trên 90%
diện tích đất canh tác. Kết quả đã sản xuất ra được 98% tổng sản lượng thóc,
99% sản lượng rau, 95% sản lượng cây công nghiệp ngắn ngày và 97% sản lượng
17
chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhờ đó sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn
nhìn chung đã đạt kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đây. Tuy nhiên tỉ suất
nông sản hàng hóa của nông dân (đến năm 1991) còn rất thấp, mới có 20%.
Tình trạng này là do qui mô về những điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa
của kinh tế nông hộ (kinh tế tiểu nông) như ruộng đất, vốn, kỹ thuật, thị trường,
... bị hạn hẹp, dẫn đến năng suất lao động thấp. Sản phẩm làm ra căn bản mới đủ
để tự cấp tự túc, phần còn lại là sản phẩm hàng hóa ít. Đó cũng là tất yếu của nền
kinh tế tiểu nông. Hay có thể nói là những giới hạn của kinh tế nông hộ. Bên
cạnh đó, nền kinh tế luôn luôn vận động, và có nhiều sự đổi mới, nhu cầu về
nông sản phẩm ngày càng tăng. Do đó kinh tế hộ tuy có nhiều ưu việt, nhưng với
hiện trạng kinh tế hộ như thế sẽ khó có thể đáp ứng được những điều kiện cho
thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Vì lẽ đó cũng không thể thỏa
mãn nhu cầu cho nền kinh tế cất cánh. Để thoát ra khỏi nhũng hạn chế về sản
xuất nông sản hàng hóa của kinh tế hộ và phù hợp với phù hợp với những quy
luật vận động của nên kinh tế thị trường, kinh tế nông hộ đã và đang diễn ra hai
xu hướng: Vừa phát triển nền kinh tế hàng hóa, vừa phân cực thành nông hộ giàu
và nông hộ nghèo. Nông hộ giàu từng bước phát triển thành những trang trại sản
xuất hàng hóa, có qui mô kinh doanh hợp lý.
Ngoài ra, sự phát triển hình thức kinh tế trang trại là tất yếu khách quan của
quá trình phát triển, vì những lý do sau:
- Thứ nhất, tích tụ và tập trung sản xuất là quy luật của quá trình chuyển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn, từ hàng hóa giản đơn lên sản xuất hàng hóa trình độ cao.
- Thứ hai, xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất công nghiệp là
nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa.
- Thứ tư, xuất phát từ nội dung vận hành của cơ chế thị trường. Qui mô
dung lượng của thị trường được quyết định bởi số lượng, chủng loại hàng hóa.
1.2.4 Doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt Nam với hội
nhập kinh tế quốc tế
Trong hai mươi năm đổi mới kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta đã
18
giành được thành tựu to lớn. Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp đã chuyển
sang sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế; Tăng trưởng kinh tế, sản
lượng hàng hóa, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế ngày một cao. Sản xuất
nông nghiệp không những đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà tỷ trọng xuất
khẩu ngày một tăng. Cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động trong nông nghiệp nông
thôn đã chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Doanh nghiệp và trang trại nông dân nông thôn Việt Nam đã góp phần quan
trọng vào nền kinh tế của đất nước nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nói riêng. Hiện nay nước ta có khoảng gần 10 vạn trang trại với quy mô, cấp độ
khác nhau, tập trung ở các tỉnh phía Nam chiếm 51%, miền Trung Tây Nguyên
21%, miền núi phía Bắc 10%... so với tổng số trang trại. Nước ta có khoảng
70.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm 58,76%,
công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68%, công ty cổ phần hơn 1.700 doanh
nghiệp... đã thu hút hơn 4,6 triệu lao động có việc làm thường xuyên và ổn định.
Sự phát triển kinh tế doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt
Nam ngày càng có vị trí quan trọng; cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
kinh tế doanh nghiệp và trang trại là một trong những động lực của nền kinh tế
quốc dân; nơi huy động được nguồn lực trí tuệ, kinh nghiệm, nguồn vốn, sức lao
động, khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế của địa phương để phát triển hàng
hóa, gải quyết lao động việc làm, tạo ra sự phân công lao động mới trong nông
nghiệp nông thôn; góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên do xuất phát điểm thấp nên cơ sở vật chất còn nghèo nàn. Quy
mô nhỏ bé, manh mún. Nguồn tài chính để đầu tư phát triển hạn hẹp và còn khó
khăn. Phương hướng sản xuất, chuyển đổi kinh tế chưa ổn định. Thiếu thông tin
phục vụ sản xuất kinh tế và thị trường. Khoa học công nghệ bất cập, thậm chí còn
lạc hậu chưa theo kịp với yêu cầu hiện nay.
Thực trạng nêu trên của doanh nghiệp và trang trại Việt Nam đang đứng
trước những khó khăn thách thức lớn và rất dễ bị tổn thương khi phải đối mặt với
sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Muốn vậy doanh nghiệp và trang trại
19