Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TL QLXH cơ cấu tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân huyện thủy nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.91 KB, 22 trang )

A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Đánh giá về thực trạng cơ quan tư pháp, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-062005 Bộ Chính trị nêu rõ “Tổ chức bộ máy, chức năng nhiêm vụ, cơ chế hoạt động
của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn
thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu,
thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề
nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ
sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết nêu trên Nhà nước ta đã có những phương
hướng và những biện pháp cụ thể, nhằm khắc phục những mặt còn hạn chế trong
cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp.
Tư pháp là cơ quan giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc chuyển tải quyền lực
nhà nước, trực tiếp đưa luật vào đời sống nhân dân. Thông qua việc áp dụng pháp
luật để giải quyết các vụ việc cụ thể. Trong các cơ quan tư pháp Tòa án nhân dân
giữ vị trí trung tâm, tất cả các cơ quan khác như: Điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp...
Đều phục vụ cho hoạt động xét xử của tòa án. Tòa án còn là nơi biểu hiện tập trung
tính dân chủ và công khai trong hoạt động bảo vệ pháp luật.
Bởi vậy, xuất phát từ tính thực tiễn của vấn đề và vai trò đặc biệt quan trọng của
Tòa án nhân dân nên tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu . Ở đây tôi chỉ đi sâu
nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện, mà cụ
thể là “cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên”. Để
qua đó thấy được những mặt phù hợp trong chiến lược đổi mới về hệ thống cơ
quan tư pháp mà Nhà nước đề ra trong: Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị


B"A G
"
0/0/# h
A


@
c dc
%
"
J
& $ !&6 J 6
,! J# "
P
] O
>
P &6! X! 6! 6

0

E

E

6

b

I

& P <^ "
`
@
c dc !&F
"Y
G !&

\<

!
"

:!

?

b
X c&# F
6 :!
9 :
? 4
!G
!
"
] _
g J$
"Y !
c! "b
KC ?
J J P ;
6! ; [! B ; 8$ 6 :! BI
'( 1j )kl
k-0//*#
MD m
# M> n
B!I

5G 5
"
# M=
@
! "
G U
; 8 9 ?
4
@
c dc # n < ,!C %
&
2+ /+0//2U ^ ; F # $
"Y
Y 8$ % !& '( )*+$,- .
34 5
%
B"A G
"
=< 0/0/U # J
@ !
a
?
F
]F ?
9 :
?
4
!
"

J
!
@
c dc
J 6
< _
6 :! 8 9 ?
4
@
c dc !&F
& $ !&6 U B
" J P ;
'c!
&
!& I&# _ N 6< [! ;
? ;G
c
? _
!4 9
k

k

( "A


<

( "A

( "A
dc !&F
k0n <

6

6

'c! ?
J <4
X
"Y

6 :!
_ ':

6

& $ \<
:! o ;R

?

:!

:!e


6 :!
& $ !&6
6

[!
J

:!e

B e

! 9

:

?

4

@

c


Đề tài được giới hạn trong nhiệm kì của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
( 2008-2012). Đặc biệt, khi có Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định
một cách đầy đủ rõ nét cơ cấu tổ chức, hoạt động và vai trò của Tòa án nhân dân
cấp địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài được đi đúng
hướng và có trọng tâm.

Đồng thời việc giới hạn đề tài như trên, sẽ giúp tôi có điều kiện đi sâu vào nghiên
cứu đề tài nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá sát đáng về những đổi mới trong
cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Đây chính là mục đích cuối
cùng mà đề tài cần đạt đến.

4. Phương pháp nghiên cứu.

Khi nghiên cứu về đề tài này phương pháp mà tôi lựa chọn gồm:
Phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng và Nhà
nước trong quá trình đổi mới.
Phương pháp cụ thể: phương pháp lôgic, phương pháp so sánh, phương pháp xác
minh, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá.
Dựa vào các nguồn tư liệu đã thu thập được, đặc biệt là tài liệu có liên quan đến
phạm vi của đề tài và việc áp dụng bài bản những phương pháp nghiên cứu nêu
trên, nên công việc mà tôi thực hiện đề tài này, không phải là việc lắp ghép một
cách máy móc, sao chép các nguồn tư liệu sẵn có mà là sự suy ngẫm, khái quát
hoá, phát hiện và tìm hiểu thêm những nét riêng, đặc biệt, biến nó thành sản phẩm
của riêng mình. Những nguồn tài liệu cùng những phương pháp nghiên cứu nêu
trên đó chính là cơ sở để tôi nghiên cứu đề tài này.

5. Bố cục đề tài.

Đề tài được chia gồm 4 phần:


Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Chương 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy
Nguyên

Phần 3: Kết luận
Phần 4: Tài liệu tham khảo

B. NỘI DUNG


Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân
1.1 Chức năng và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân.

Chức năng của Tòa án nhân dân được quy định tại điều 127 Hiến pháp năm 1992
đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân
dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật quy định là những
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...’’. Nhiệm vụ của
Tòa án nhân dân được quy định tại (điều 1/ Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2002). Vậy Tòa án nhân dân có những nhiệm vụ và chức năng cơ bản sau:
Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự bao gồm: những tranh chấp về dân sự;
những tranh chấp về hôn nhân gia đình; những tranh chấp về kinh doanh, thương
mại, những tranh chấp về lao động, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, xem xét và kết luận cuộc đình công hợp pháp hay không hợp pháp và
những vụ án về hành chính.
Ngoài ra, Tòa án còn giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật:
quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết
tranh chấp thương mại, ra quyết định thi hành án hình sự, hoãn hoặc tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù, ra quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức
hình phạt đã tuyên, ra quyết định xóa án tích...
Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ nhất định. Đối với Tòa án có
nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính

mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Đặc biệt bằng hoạt động
của mình Tòa án còn góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý
thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.


Trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân có hiệu quả, Nhà nước ta cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật, có liên
quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

1.2 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân là yêu cầu bức thiết nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của Toà án. Có thể nói, trong nhiều giai đoạn lịch sử của
Nhà nước ta Toà án nhân dân đã trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ
chức cũng như phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề
của nền tư pháp, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
trong thời kỳ đổi mới thể hiện ngay từ các văn kiện ban hành sau Đại hội VII.
Quan điểm này được thể hiện ở nhiều văn kiện, trong đó có các văn kiện tiêu biểu
như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp
hành Trung ương khoá VII, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 8-11-1993 của Ban Bí thư
về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật”, Chỉ
thị số 34 - TC/TW ngày 18-3-1994 của Ban Bí thư về “Sự lãnh đạo của Đảng đối
với việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án
quân sự các cấp”, Chỉ thị số 53 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về “Một
số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000”.
Kết quả phát triển và lớn mạnh của Toà án nhân dân ngày nay, thể hiện đậm nét sự
vận dụng đường lối lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Toà án

nhân dân. Nghiên cứu những chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức,
hoạt động của Toà án nhân dân trong các văn kiện nêu trên, có thể nhận thấy,
đường lối lãnh đạo của Đảng đối với Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới là
hoàn toàn nhất quán, có sự kế thừa và phát triển từng bước. Đảng luôn quan tâm
chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ Toà án nhân dân. Đó là cho ý kiến về tổ
chức của Toà án nhân dân, giới thiệu những cán bộ có năng lực, trình độ chuyên
môn cao và phẩm chất chính trị vững vàng cho ngành Toà án, phát hiện và xử lý kỷ
luật nghiêm minh đối với những cán bộ, Đảng viên có sai phạm công tác trong


ngành Toà án. Đồng thời, Đảng lãnh đạo thực hiện chức năng xét xử theo quy định
của pháp luật. Thông qua việc thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình hình công
tác của Toà án nhân dân, Đảng có cơ sở để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp
với hoạt động xét xử của Toà án. Đảng luôn xác định cải cách Toà án nhân dân là
thể hiện tập trung của cải cách tư pháp. Trong đó, Đảng nhấn mạnh việc sắp xếp lại
hệ thống Toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp
huyện.
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân không chỉ tác động đến
ngành Toà án mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
khác, như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp luật hiện hành và có thể phải sửa đổi cả Hiến pháp, vì vậy cần phải
có bước đi thích hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của cả hệ thống
các cơ quan nhà nước. Điều rất đáng lưu ý, là để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với việc cải cách tư pháp, ngày 02-01-2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới”. Nghị quyết số 08 - NQ/TW đã đề cập một cách toàn diện vấn đề cải cách tư
pháp, trong đó đưa ra cả những quan điểm chung và chủ trương, giải pháp cụ thể
đối với từng cơ quan tư pháp. Đối với Toà án, Nghị quyết 08-NQ/TW nhấn mạnh:
Cần phân định thẩm quyền của các Toà án các cấp theo hướng Toà án nhân dân tối
cao làm nhiệm vụ tổng kết xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và giám đốc xem

xét các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật. Toà án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố chủ yếu thực hiện công tác xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân cấp
huyện, quận, thị xã xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động.
Đối với nước ta, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền
lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, trong việc
thực hiên ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong vấn đề đổi mới tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước chính là đổi mới trong cơ cấu và hoạt động của ba
cơ quan ấy. Vì vậy, ta thấy vai trò của cơ quan tư pháp là vô cùng quan trọng. Thực
hiện quyền tư pháp mà cụ thể là quyền xét xử một trong những chức năng chủ yếu
được giao cho Tòa án nhân dân. Do vậy trong quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước
thì Tòa án luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu “lực” được thể hiện đầy đủ
đúng đắn qua hoạt động lập pháp, nhưng hệ thống truyền “lực” qua hoạt động tư
pháp không tốt thì bộ máy Nhà nước sẽ kém hiệu lực, kém hiệu quả.


Sau khi Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được triển khai trên thực tế được
gần 4 năm, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đề ra phương hướng: “Tổ
chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học, hiện đại
về cơ cầu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc, trong đó xác định Toà án có
vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ
trợ tư pháp”. Nghị quyết xác định nhiệm vụ của Tòa án các cấp như sau: “Tổ chức
hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính,
gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính
cấp huyện, Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử
sơ thẩm một số vụ án, Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ
xét xử phúc thẩm, Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét
xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm”. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Việc thành lập Toà án
chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực.

Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn, với đội ngũ Thẩm
phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”.
Trong các cơ quan tư pháp, Tòa án giữ vị trí trung tâm. Tất cả các cơ quan tư pháp
khác như: điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp... đều phục vụ cho hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân. Khẳng định ấy đúng theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
đã khẳng định “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế đình bổ trợ tư pháp hợp lý,
khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc, trong
đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”, trong hệ
thống Toà án nhân dân các cấp đã thành lập thêm một Toà chuyên trách để kịp thời
giải quyết các loại tranh chấp mới phát sinh, đã bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm và
chung thẩm, chú ý đến chất lượng tranh tụng tại phiên toà. Đặc biệt Tòa án nhân
dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Không chỉ vậy Tòa án nhân dân còn là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ
công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loai tội phạm.


Những quan điểm và phương hướng nêu trên về cải cách tổ chức và hoạt động của
Toà án có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt động cải cách tư
pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân ở nước ta hiện nay. Với vị trí và vai trò quan trọng nêu trên thì Tòa án
có ảnh hưởng rất lớn trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, nó có đóng góp tích cực trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước

2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
2.1 Tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bên cạnh Tòa án nhân

dân tối cao còn có Tòa án nhân dân cấp địa phương. Trong đó Tòa án nhân dân
huyện thuộc chế định của Tòa án nhân dân cấp địa phương; theo Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2002, tại điều 32 quy định về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân
cấp huyện như sau:
“ 1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một
hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư kí Tòa án.
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có bộ máy giúp việc.
2. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ
thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” .
Vậy theo tinh thần trên ta thấy tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm: chánh
án một hoặc hai phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư kí, và có bổ sung
thành phần giúp việc.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (tại khoản 4, điều 40) thì chánh án, phó
chánh án các Tòa án nhân dân địa phương do chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với thường trực hội đồng nhân
dân địa phương.
Về chế độ Thẩm phán, là lực lượng chủ yếu của Tòa án nhân dân địa phương nói
riêng và Tòa án các cấp nói chung. Vì vậy, thẩm phán phải hội tụ được nhiều tiêu


chuẩn cần thiết quy định tại (khoản 1/ điều 5, điều 20, Pháp lệnh Thẩm phản và
Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002), thẩm phán phải trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung thành với lý tưởng xã hội
chủ nghĩa. Vì công tác xét xử của Tòa án cũng là một công tác chính trị, phục vụ
nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Đăc biệt, Nhà nước ta đang tiến hàng cải cách ngành tư pháp
theo hướng thâm phán độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo luật. Nếu thẩm phán
xét xử sai, thì chiu trách nhiệm trước pháp luật đó là hướng đi đúng đắn và tích
cực. Đồng thời thẩm phán phải thông qua Hội đồng tuyển chọn thẩm phán do Chủ

tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm chủ tịch hội đồng. Hội
đồng này có trách nhiệm tuyển chọn cả Thẩm phán cấp tỉnh và Thẩm phán cấp
huyện trong phạm vi tỉnh mình trước khi trình Chánh án toà án tối cao ký quyết
định bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định là năm năm, sau năm
năm, Thẩm phán được xem xét để tái bổ nhiệm.
Theo quy định tại Điều 41, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì Hội thẩm
nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo nhiệm kỳ của Hội đồng
nhân dân, và phải đáp ứng các điều kiện quy định (tại khoản 2/điều 5, điều 37,
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002). Hội thẩm nhân dân
huyện làm nhiệm vụ, theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân huyện đó.
Thư kí có số đông trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp nói
chung và Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng, thư kí được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp
vụ tốt, bằng cấp là Cử nhân Luật, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao...
2.2 Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trong vấn đề hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án lãnh đạo và
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân được quy định tại
Điều 135 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) “... Chánh án
Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng
nhân dân”, thể hiện nguyên tắc hoạt động của Toà án phải chịu sự giám sát của
nhân dân, thông qua cơ quan đại diện cho họ là Hội đồng nhân dân các cấp. Hiện
nay, Toà án được tổ chức theo các đơn vị hành chính, tương ứng với các cấp chính
quyền từ cấp huyện trở lên đều có một Toà án nhân dân. Các Toà án nhân dân ở


mỗi cấp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp đó.
Chánh án Tòa án nhân dân huyện, có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức công tác xét
xử và các công tác khác theo quy định của pháp luật, và có trách nhiệm báo cáo
công tác với Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp lãnh đạo và báo cáo với hội đồng
nhân cùng cấp.

Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án
hình sự mà Bộ luật hình sự quy định khung hình phạt từ 15 năm tù trở xuống, trừ
những tội sau:các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm đến an ninh chủ quyền quốc
gia, các tội quy định trong Bộ luật hình sự tại các điều: 89, 90, 91, 92, 93,
101(khoản 3), 102, 179, 231, 232. Tòa án nhân dân huyện còn có thẩm quyền và
hoạt động xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án
kinh tế, vụ án lao động, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật. Trừ một số
việc phức tạp hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngoài, các tranh chấp về sở hữu
công nghiệp ...những vấn đề nêu trên chính là hoạt động chủ yếu của Toà án nhân
dân huyện.

Chương 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy
Nguyên
1. Khái quát về vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội huyện Thủy Nguyên
Thuỷ Nguyên là một huyện thuộc thành phố Hải Phòng, nằm bên dòng sông Bạch
Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Nam giáp
huyện An Dương và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa biển Nam Triệu.
Địa hình Thuỷ Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa
có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông hồ dày đặc. Đây chính là
những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện Thuỷ Nguyên phát triển một nền kinh
tế đa dạng về ngành nghề, bao gồm: cả nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thuỷ sản và du lịch.
Vị trí địa lý: Nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Hải Phòng Diện tích tự nhiên là:
242 km2, Dân số: 29 vạn người. Đơn vị hành chính gồm: 2 thị trấn: Thị trấn Núi
Đèo, Thị trấn Minh Đức và 34 xã, trong đó có 6 xã miền núi.


Nhờ có những điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng những chính sách phát triển kinh
tế của Nhà nước theo xu hướng mở, nên trong những năm gần đây huyện Thủy
Nguyên đã đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế như:

Nhiều công trình công nghiệp, dân dụng mọc lên san sát, ngành công nghiệp đóng
tàu phát triển mạnh, đường sá được nâng cấp, mở rộng, đời sống nhân dân ngày
một cải thiện, mở ra một hướng phát triển mới, một diện mạo mới với vị thế của
một trong những trung tâm đô thị hành chính của thành phố Cảng trong tương lai
không xa, theo quy hoạch điều chỉnh của thành phố Hải Phòng đến năm 2020, Tận
dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về
ngành nghề, Thuỷ Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng
sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư
phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp.
Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế; nông nghiệp cũng có những bước tiến nhất định.
Đặc biệt là trong giai đoạn 2008 việc chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp
để sang nuôi trồng thuỷ sản, thay đổi cơ cấu trà lúa theo hướng tăng diện tích cấy
lúa xuân muộn, mùa trung từ 28% lên 33%, đạt năng suất lúa 45,5 tạ/ha/vụ, đảm
bảo diện tích trên 2.000 ha rau màu, trong đó diện tích rau đạt 1.320 ha với sản
lượng 22.586 tấn. Công tác chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp bước đầu có những
kết quả đáng ghi nhận. Năm 2009, huyện chú trọng quy hoạch, xây dựng vùng cấy
trồng lúa cao sản, xây dựng trang trại chăn nuôi gắn với chế biến, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, đa dạng hoá dịch vụ phù hợp với quỹ đất sau khi các dự án triển khai
trên địa bàn, tổ chức đào tạo và chuyển đổi nghề cho lao động các vùng có dự án
lấy đất nông nghiệp
Ngoài ra, chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn, gia cầm tăng theo
hướng sản xuất hàng hoá, phát triển mạnh về số lượng và quy mô. Trong đó huyện
đã tiến hành quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản, lập các dự án nuôi tập trung
theo phương pháp bán thâm canh và công nghiệp, đã gặt hái được kết quả cao.
Những năm gần đây, Thuỷ Nguyên nhộn nhịp như đại công trường xây dựng với 3
khu công nghiệp Minh Đức- Bến Rừng, Nam Cầu Kiền; Lưu Kiếm- Gia Minh và
hàng trăm dự án ngoài các khu công nghiệp này. Hiện trên địa bàn Thuỷ Nguyên
có 39 dự án đã và đang triển khai, trong đó có 30 dự án mới với tổng diện tích đất



thu hồi 964,6 ha, khoản tiền bồi thường cho hơn 10 nghìn hộ dân lên tới 1323 tỷ
đồng. 32 dự án có quyết định thu hồi đất của UBND thành phố với 599 ha, 7611 hộ
dân liên quan phải di dời, trong đó có 317 hộ cần tái định cư và bố trí giãn dân.
Góp phần cùng thành phố cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp triển khai dự án. Các dự án mang lại hiệu quả thiết thực, đóng góp lớn cho
ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng GDP trên địa bàn, tạo việc làm cho số lượng lớn
lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế Thuỷ Nguyên theo hướng công
nghiệp-xây dựng chiếm chủ yếu (42,1%), dịch vụ 28,9%, nông nghiệp- thuỷ sản
29%.
Năm 2008, tổng giá trị sản xuất các ngành của Thuỷ Nguyên đạt hơn 2100 tỷ đồng
tăng 16,9% so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp thuỷ sản, công
nghiệp xây dựng, dịch vụ đạt khá. GDP đạt 980 tỷ đồng, tăng 16,6% so với năm
2007.
Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thuỷ Nguyên có điều
kiện phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ
Sông Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh... và nhiều công trình
kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng
cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xuất phát từ những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế, thì đời sống nhân
dân ngày được nâng cao về: văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, thể dục - thể thao... Đã
được chính quyền địa phương huyện Thủy Nguyên chú ý quan tâm, từ đó tạo nên
đời sống tinh thần ngày càng phong phú phục vụ tích cực vào công cuộc đổi mới
đất nước. Đặc biệt kinh tế phát triển đã góp phần không nhỏ vào việc củng cố và
hoàn thiện tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý huyện Thủy Nguyên.

2. Thực trạng tổ chức và hoạt động cuả Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
2.1 Thực trạng về tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
Tổ chức Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tuân thủ theo luật định (tại khoản 1,

điều 32, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002), thành phần cán bộ của Tòa án
nhân dân huyện Thủy Nguyên bao gồm: Chánh án, phó chánh án, thẩm phán, hội


thẩm nhân dân, Thư kí và bộ phận giúp việc. Tính đến thời điểm hiện tại thì đội
ngũ cán bộ của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên gồm có cán bộ công chức
biên chế chính quy, một nhân viên văn phòng. Để tìm hiểu cụ thể về tổ chức của
Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tôi xin giới thiệu về những cán bộ đương
nhiệm trong ban lãnh đạo như sau:
Giữ vai trò lãnh đạo, đứng đầu Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên là Chánh án
bà Lê Thị Cúc (kiêm thẩm phán), bà nhận nhiêm kì mới từ năm (2008-2012).
Trước khi được bổ nhiệm làm Chánh án, bà đã từng là phó chánh án Tòa án nhân
dân huyện Thủy Nguyên hai nhiệm kì (2000-2004) và (2004-2008). Với trình độ
nghề nghiệp cao, thời gian công tác lâu năm trong ngành đã đạt nhiều thành tích và
có đóng góp tích cực cho quá trình hoạt động, phát triển của Tòa án nhân dân
huyện Thủy nguyên… Bà đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định tại (khoản 1/ điều
5, điều 20, Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002), để đảm
nhiệm chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân huyện và trong nhiệm kì (2008-2012) bà
được chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiêm làm chánh án Tòa án nhân dân
huyện Thủy Nguyên (khoản 4, điều 40, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002) .
Với vị trí đứng đầu của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên bà Lê Thị Cúc có
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là người tổ chức công tác xét xử các vụ án trong địa
bàn huyện, báo cáo công tác của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên cho hội
đồng nhân dân cùng cấp và Chánh án Tòa án nhân dân trực tiếp lãnh đạonhân dân
tỉnh, gồm những công việc khác theo quy định của pháp luật.
Nhiệm kì (2004-2008) Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có hai phó chánh án,
nhưng đến thời điểm hiện, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có một phó chánh
án là ông Trịnh Khắc Thịnh, ông đã từng giữ chức vụ thẩm phán Toà án nhân dân
huyện Thủy Nguyên hai nhiệm kì (2000-2004) và (2004-2008), với việc đáp ứng
đầy đủ các điều kiện của một phó chánh án Toà án nhân dân huyện nên đến nhiệm

kì (2008-2012) ông đã được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm làm phó
chánh án Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên (kiêm thẩm phán).
Tiếp đến là cơ cấu thẩm phán, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên gồm có bảy
thẩm phán: bà Lê Thị Cúc (kiêm chánh án), ông Trịnh Khắc Thịnh (kiêm phó
chánh án); bà Nguyễn Thị Nhã, bà Nguyễn Thị Thủy, ông Lê Anh Sơn, ông Vũ
Đình Thi, ông Nguyễn Phong Thu. Tất cả đều đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy
định tại điều 37,38, 39 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, và những quy


định mới trong việc tuyển chọn thẩm phán đã góp phần lựa chọn đúng đắn hơn
những người đủ năng lực để đảm nhiệm công việc được giao.
Hội thẩm nhân dân, là bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân huyện Thủy Nguyên nói riêng, và Tòa án nhân dân các cấp nói chung,
cho đến thời điểm hiện tại thì Hội thẩm nhân dân của huyện Thủy Nguyên là hai
mươi cán bộ, với tiêu chuẩn đáp ứng đầy đủ theo quy định (tại khoản 2, điều 5,
Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002). Và hoạt động theo sự
chỉ đạo của Chánh án là bà Lê Thị Cúc.
Thư kí của Tòa án nhân dân (TAND) huyện Thủy Nguyên gồm 11 thư kí, có trình
độ cao đáp ứng tốt nhu cầu công việc: tốt nghiêp Cử nhân Luật, có phẩm chất đạo
đức tốt… trong đó có một nhân viên phụ trách công việc văn phòng: đánh máy,
văn thư…
Năng lực đội ngũ cán bộ của TAND huyện Thủy Nguyên đúng tiêu chuẩn luật
định, hầu hết đã tốt nghiệp và có bằng Cử nhân Luật hệ chính quy. Chỉ một vài cán
bộ tốt nghiệp hệ tại chức về ngành Luật, nhưng đã được cơ quan tạo điều kiện học
thêm nghiệp về nghiệp vụ. Với phẩm chất đạo đức tốt: 100% cán bộ là đối tượng
Đảng, luôn ý thức cao trách nhiệm nghề nghiệp .
Nhờ có chính sách đổi mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án, trong Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”,
nên trong những năm gần đây, cơ sở hạ tầng của TAND huyện Thủy Nguyên được
nâng cao, với hệ thống nhà cao tầng khang trang, trong đó mỗi cán bộ đã có một

máy tính, một máy in riêng, có mạng internet và phần mềm thống kê nội bộ ngành,
thuận lợi trong việc tổng kết hoạt động, báo cáo công tác, và tìm tài liệu phục vụ
công tác... Cùng đó là những tiêu chuẩn mới trong việc tuyển cán bộ, đã thực sự
nâng cao chất lượng trong bộ máy TAND huyện Thủy Nguyên, bởi vậy trong quá
trình hoạt động đã thu được kết quả cao, có thể nói là bước đầu đánh dấu sự thành
công trong chiến lược cải cách TAND huyên Thủy Nguyên mà Đảng và Nhà nước
đề ra.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tuân thủ theo những
nguyên tắc luật định, đảm bảo cho việc hoạt động có hiệu quả cao, đi theo đúng
hướng của Nhà nước trong việc đổi mới hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
và công cuộc cải cách nền tư pháp.


2.2: Thực trạng về hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
Tòa án nhân dân huyện có hoạt động chủ yếu là xét xử và Tòa án nhân dân huyện
Thủy nguyên cũng không ngoại lệ. Trong đó bao gồm các vụ án: hình sự (với
khung hình phạt dưới 15 năm tù), sơ thẩm các vụ án dân sự, án kinh tế, án lao
động, án hành chính…theo quy định của pháp luật.
Trong năm 2008, lượng án mà TAND huyện Thủy Nguyên giải quyết là tương đối
nhiều. Trong đó, những vụ án phải giải quyết nhiều nhất là án hình sự với 289 vụ
và 525 bị cáo, có những vụ án nghiêm trọng như: vụ “mua bán trái phép chất ma
túy” của bị cáo Vũ Ngọc Điện, xã Kênh Giang, trong vụ này TAND huyện Thủy
Nguyên đã thống nhất xử lưu động, tại Ủy ban nhân dân xã Kênh Giang là 10 năm
tù nhằm mục đích, tuyên chuyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của người
dân.
Đặc biệt trong đầu năm 2009 (09-1-2009) TAND huyện Thủy Nguyên đã xét xử
“vụ 3 vụ tàng chữ, buôn bán pháo nổ”. Vụ thứ nhất với bị cáo Nguyễn Thị Đông,
sinh 1957, ở thôn Phù Lưu, xã Phù Ninh, huyện Thuỷ Nguyên về tội buôn bán
hàng cấm và Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Nguyễn Thị Đông 36 tháng tù giam về
tội buôn bán hàng cấm và nộp phạt 3.000.000 đồng.

Tiếp đó, ngày 12-1, TAND huyện Thuỷ Nguyên tiến hành xét xử lưu động tại xã
An Lư, huyện Thuỷ Nguyên 2 vụ án về pháo khác. Vụ thứ nhất xét xử bị cáo Phạm
Hồng Quân, sinh 1979, ở xã Yên Bình, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định tội buôn bán
hàng cấm. 22h30' ngày 14-12-2008, tại quốc lộ 10 qua xã Thuỷ Sơn, huyện Thuỷ
Nguyên. Tại phiên toà, xét thấy hoàn cảnh khó khăn của gia đình cũng như thái độ
thành khẩn khai báo của Quân nên Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Phạm
Hồng Quân 18 tháng tù giam về tội buôn bán hàng cấm.
Vụ án tiếp theo xử Lê Thị Chính, sinh 1975, ở thôn Cây Đa, xã An Lư, huyện Thuỷ
Nguyên về tội tàng trữ hàng cấm, Tại phiên toà, Lê Thị Chính đã nhận thức được
hành vi tàng trữ pháo nổ của mình là sai trái và thành khẩn khai báo toàn bộ sự
việc. Tòa đã tuyên bị cáo án phạt 18 tháng tù giam và nộp phạt 3.000.000 đồng.
Qua số liệu tổng kết và một số vụ án nêu trên, cho thấy hoạt động của TAND
huyện Thủy Nguyên là hiệu quả, trong việc áp dụng hình thức xử lưu động, đã trực


tiếp đưa luật đến với đời sống nhân dân, mang tính chất giáo dục, tuyên truyền
pháp luật để nhân dân hiểu luật và tuân thủ luật. Không chỉ trong án hình sự mà
các vụ án dân sự cũng xảy ra tương đối nhiều (năm 2008 có 79 vụ). Chủ yếu là liên
quan đến : thừa kế, đất đai… có nhiều vụ rắc rối gây khó khăn trong công tác xét
xử, tuy nhiên hầu hết đã được giải quyết song, chỉ còn một số vụ đang trong thời
gian giải quyết.
Trong các vụ án về hôn nhân gia đình chủ yếu là giải quyết vấn đề: ly hôn, chia tài
sản khi ly hôn… (trong năm 2008 có 215 vụ án) về lĩnh vực này, nhìn chung các
vụ án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ, không phức tạp nên quá trình giải quyết
nhanh và hiệu quả, đảm bảo tính khách quan, công bằng của pháp luật.
Về các vụ án lao động, thì tương đối ít và nhỏ nên quá trình giải quyết nhanh (năm
2008 có 12 vụ về lĩnh vực này). Còn những vụ về kinh doanh, thương mại có số
lượng rất ít, gồm 4 vụ nhưng đều là những vụ nhỏ, không ảnh hưởng đến Nhà nước
bởi vậy được Tòa giải quyết nhanh và hiệu quả. Những vụ án về hành chính thì hầu
như không có.

Qua việc tìm hiểu hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên, ta thấy được diễn
biến phức tạp của các tội về hình sự, với số lượng án nhiều, bao gồm cả những vụ
án nguy hiểm, có ảnh hưởng lớn, đặc biệt gây ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân
dân. Không chỉ trong các vụ án hình sự, mà các vụ án dân sự cũng xuất hiện với số
lượng nhiều, phức tạp, nhưng nhờ có sự đổi mới về cơ cấu cũng như hoạt động,
TAND huyện Thủy Nguyên đã từng bước giải quyết các vụ án đúng người, đúng
tội. Đặc biêt, việc nhà nước tăng thẩm quyền cho TAND huyện, cùng đội ngũ cán
bộ có chất lượng, nên trong năm 2008 huyện Thủy Nguyên đã không có vụ án nào
phải xử lý vượt cấp. Điều đó đã thực sự tạo được lòng tin trong nhân dân. Góp
phần quan trọng, trong việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong quần chúng
nhân dân, và đánh dấu bước đầu sự thành công trong chiến lược đổi mới nền tư
pháp nước nhà.
Trong quá trình hoạt động, TAND huyện Thủy Nguyên đã đạt được những thành
tựu nhất định. Trong thời gian qua TAND huyện Thủy Nguyên, đã được Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao cấp bằng khen “tập thể lao động xuất sắc”. Năm 2008 có
hai đồng chí được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phong tặng “chiến sĩ thi đua”
là đồng chí: Trịnh Khắc Thịnh (hiện là phó chánh án,kiêm Thẩm phán) và Nguyễn


Đình Cử (hiện đã về hưu); và 100% các cán bộ đạt tiêu chuẩn “cá nhân lao động
tiên tiến”. Tuy đã đạt được những thành tích nhất định, cùng việc hoạt động hiêu
quả, nhưng TAND huyện Thủy Nguyên cũng không tránh khỏi những điểm chưa
phù hợp.
3. Những điểm hạn chế cơ bản trong quá trình hoạt động của TAND huyện Thủy
Nguyên
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã có những chính sách cụ thể nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của TAND cấp huyện như: Bộ tư pháp đưa ra chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, và Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/2/2006 của Ban
Chỉ đạo cải cách tư pháp thực hiện triển khai Nghị quyết số 49-NQ/TW trong giai
đoạn 2006-2010. TAND huyện Thủy Nguyên là một trong những huyện đi đầu

trong công cuộc đổi mới, về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện. Tuy đã
đạt được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá trình hoạt động không tránh
khỏi những hạn chế nhất định.
Trong chính sách đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, thì yêu cầu đối với
các cán bộ Tòa án không chỉ cần kiến thức chuyên ngành vững vàng, mà yêu cầu
về trình độ tin học, và ngoại ngữ đang là vấn đề được đặt ra . Về vấn đề này, thì đội
ngũ cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND cấp huyện nói chung
vẫn chưa đáp ứng được theo yêu cầu. Việc bồi dưỡng thêm về tin học và ngoại
ngữ, giúp các cán bộ có thể áp dụng một cách tối đa những tiến bộ khoa học kĩ
thuật, mà Nhà nước đầu tư cho ngành như: internet…,đồng thời hiện đại hóa trong
phương phương thức làm việc. Khi làm được điều đó, sẽ đem lại hiệu quả tích cực,
phục vụ tốt cho yêu cầu công việc, nhất là đối với nước ta đang trong thời kì hội
nhập
Trong đó, vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta phải quan tâm là chế độ “lương” của
các cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng, và TAND các cấp nói chung, còn
chưa thực sự phù hợp với công việc phải đảm nhiệm. Đời sống cán bộ còn chưa
thực sự được đáp ứng. Đặc biệt, đây là nơi có nhiều những vụ án phức tạp, và số
lượng án phải giải quyết là tương đối nhiều, với hàng trăm các vụ án, dẫn đến tình
trạng cán bộ chịu nhiều áp lực công việc. Bởi vậy còn có những vụ án phức tạp vẫn
chưa được thụ lý, đồng thời áp lực công việc, chính là một trong những nguyên
nhân làm cho hoạt động của TAND phần nào khó khăn.


Không chỉ vậy, vấn đề nhân dân hiểu biết pháp luật còn hạn chế dẫn đến việc, gây
nhiều khó khăn cho TAND huyện Thủy Nguyên trong quá trình xét xử, đây cũng
chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng giải quyết các vụ việc
khó khăn, mất nhiều thời gian, các cán bộ giải quyết công việc bị căng thẳng... hiệu
quả công việc bị hạn chế.
Đặc biệt, trong các vụ án dân sự có rất nhiều những vụ án phức tạp, xảy ra thường
xuyên, chiếm phần lớn thời gian hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên.

Qua việc nghiên cứu những hạn chế trên, ta thấy đó gần như là những hạn chế
chung của ngành Tòa án, và những hạn chế đó Nhà nước ta hoàn toàn có thể khắc
phục được trong thời gian tới, và để khắc phục Nhà nước ta đã đưa ra những biện
pháp cụ thể.
4. Một số giải pháp nhằm đổi tổ chức và hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên
Công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW trong TAND huyện Thủy
Nguyên nói riêng và TAND các cấp nói chung, những năm qua đã tạo được những
chuyển biến tích cực về nhận thức, đạt được yêu cầu, nội dung của Nghị quyết đề
ra đối với hoạt động của ngành, như tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức
của ngành được kiện toàn và củng cố, đã có chuyển biến về tinh thần trách nhiệm
trong rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức theo tiêu chuẩn hoá cán bộ.
Tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế căn bản nêu trên. Tôi xin nêu một số giải
pháp nhằm tiếp tục tăng cường hiệu quả hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên
và TAND cấp huyện nói chung :
Tòa án là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống bộ máy Nhà nước
ta: trực tiếp bảo vệ pháp luật và đưa pháp luật vào đời sống nhân dân, bảo vệ quyền
lợi của nhân dân… Bởi vậy, xuất phát từ tính chất đặc thù của ngành, Nhà nước ta
cần có những điều chỉnh về “lương” hợp lý hơn đối với đội ngũ cán bộ TAND
huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND các cấp nói chung và đặc biệt cần chỉ đạo
tăng cường, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tổ chức học tập, quán triệt
nội dung Nghị quyết số 49-NQ/TW đến các cơ quan, ban, ngành, các cán bộ, công
chức làm công tác tư pháp cũng như đến đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa
bàn huyện Thủy Nguyên và nhân dân cả nước, đây là vấn đề ngày càng trở nên cần
thiết và vô cùng cấp bách trong giai đoạn hiện nay, nhằm thu hút sự quan tâm và


tham gia của xã hội và nhân dân đối với công tác tư pháp, mà cụ thể là hoạt động
xét xử. Giúp cho hoạt động của TAND được thực hiện nhanh chóng và có hiệu
quả, đồng thời hạn chế việc nhân dân vi pham pháp luật.
Cần tiếp tục quan tâm, tăng cường chỉ đạo đối với công tác thi hành án dân sự; bởi

trong lĩnh vực này không chỉ trên địa bàn huyện Thủy Nguyên mà hầu hết cả nước
ta, đều xảy ra những vụ án nghiêm trọng phức tạp, bởi vậy cần chú trọng việc giải
quyết những vụ việc thi hành án phức tạp, kéo dài, liên quan đến nhiều ngành, cơ
quan, đơn vị; giải quyết cơ bản tình trạng tồn đọng tránh tình trạng nhân dân khiếu
kiện nhiều lần.
Và vấn đề mà Nhà nước ta cần phải hết sức quan tâm, là đẩy mạnh công tác đào
tạo độ ngũ cán bộ, tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ cập tin học, ngoại ngữ và
các tiến bộ khoa học liên quan, cho không chỉ đội ngũ cán bộ của TAND huyện
Thủy Nguyên, mà còn là yêu cầu đặt ra đối với ngành tư pháp nói chung, nhằm đáp
ứng yêu cầu trong cải cách tư pháp hiện nay. Tiếp tục phát triển đội ngũ luật sư,
giám định viên, công chứng viên, chấp hành viên có đủ năng lực, phẩm chất đạo
đức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Và việc tổ chức phiên toà xét
xử cần đổi mới theo hướng xác định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của cả
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng công khai, dân chủ và nghiêm minh trong xét xử.
Đặc biệt, phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của Toà án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, cần tăng
cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, không ngừng nâng cao
phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kết hợp với hoạt động giám sát của nhân dân đối
với hoạt động xét xử của Toà án; đồng thời, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán,
của Hội thẩm nhân dân trước nhân dân và trước Đảng.


C. KẾT LUẬN

Trên đây là một vài trình bày của tôi về vấn đề “cải cách tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên” qua đó tôi đưa ra những vấn đề hạn chế
chung trong cơ quan Tòa án nước nhà. Từ đó có những phương hướng bước đầu,
để cải cách tổ chức và hoat động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên nói
riêng và TAND các cấp nói chung. Tất nhiên, những gì tôi đã trình bày còn hạn

chế, chưa bao quát được các mặt trong tổ chức và hoạt động TAND huyện Thủy
Nguyên. Hơn nữa, với kiến thức còn hạn hẹp thì việc nghiên cứu của tôi cũng chưa
thực sự sâu sắc. Tuy nhiên, những gì đã bàn đã giúp tôi hiểu thêm phần nào về tổ
chức Tòa án nhân dân cấp huyện.
Dù tôi đã rất cố gắng, nỗ lực nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, còn có nhiều
vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm và trao đổi nhiều hơn. Tôi sẽ cố gắng khắc
phục những hạn chế ấy, và nếu có điều kiện tôi sẽ nghiên cứu sâu hơn, vấn đề này
nhằm góp một phần công sức nhỏ vào công cuộc đổi mới đất nước.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi
năm 2001 - NXB Thống Kê - 2007)
2. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam (NXB Công An nhân dân - 2007)


3. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (số 33/2002/QH ngày 02-04-2002)
4. Pháp lệnh 02/2002/PL-UBTVQH về thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày (04/10/2002)
5. Giáo trình “Lý luận Nhà nước và pháp luật” của trường Đại học luật Hà Nội
(NXB Công an nhân dân -2008)
6. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”
7. Chỉ thị số 53 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về "Một số công việc
cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000".
8. Nghị quyết số 1036/2006/NQ-UBTVQH11 (ngày 27-7-2006)
9. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (NXB Đại học
Kinh tế quốc dân-2008)
10. Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002
11. Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” (ngày 02 - 01-2002)