Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hợp đồng dân sự vô hiệu do lừa dối theo bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.6 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƢƠNG HOÀI TRANG

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỪA DỐI THEO
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Ngô Huy Cƣơng

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn là kết quả quá trình tìm tòi nghiên cứu!
Ngƣời cam đoan

Trƣơng Hoài Trang



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỪA DỐI5
1.1. Khái quát về hợp đồng và hợp đồng vô hiệu ...................................................... 5
1.2. Những nội dung pháp lý cơ bản của hợp đồng vô hiệu do lừa dối................... 23
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỪA DỐI…………………………………….30
2.1. Tổng quan các quy định của BLDS về hợp đồng ............................................. 31
2.2. Vấn đề áp dụng các quy định của BLDS 2015 đối với việc tuyên hợp đồng vô
hiệu do lừa dối ......................................................................................................... 42
2.3. Bất cập và nguyên nhân của BLDS 2015 về hợp đồng vô hiệu do lừa dối. ..... 60
Chƣơng 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
DO LỪA DỐI ĐƢỢC QUY ĐỊNH TRONG BLDS 2015 .................................. 64
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện chế định hợp đồng vô hiệu do lừa dối được quy
định trong BLDS 2015 ............................................................................................. 64
3.2. Các định hướng hoàn thiện ............................................................................... 66
3.3. Giải pháp ........................................................................................................... 67
KẾT LUẬN………………………………………………………………………70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 73


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự


Tr:

Trang


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội luôn vận động, phát triển và thay đổi không ngừng, để tồn tại và phát
triển con người phải thích ứng với đầy đủ sự thay đổi trên để phù hợp và thỏa mãn
những nhu cầu thiết yếu của bản thân. Các quan hệ xã hội chính là phương thức
giúp con người khi tham gia sẽ đáp ứng mọi nhu cầu. Khi tham gia các quan hệ xã
hội việc các bên trao đổi, bày tỏ ý chí của mình và cùng thống nhất ý chí để đạt
được mục đích đề ra được coi là Hợp đồng. Hợp đồng là một phương tiện quan
trọng để tạo lập nên đời sống của con người, giúp con người đáp ứng các nhu cầu
vật chất và tinh thần của mình thông qua việc trao đổi các tài sản, sản phẩm, dịch
vụ và các lợi ích vật chất khác. Hợp đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá
trình vận hành của nền kinh tế, nó là một phương thức quan trọng để tổ chức đời
sống chung và thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Ở Việt Nam, các bộ cổ luật đã
từng tồn tại trước đây như Luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long không có quy định
riêng về hợp đồng dân sự mặc dù trong thực tế hình thành rất nhiều quan hệ hợp
đồng giữa các chủ thể với nhau. Qua quá trình phát triển, cùng với sự phát triển
của pháp luật dân sự nói chung, chế định về hợp đồng dân sự ngày càng được xem
là một chế định cơ bản trong pháp luật dân sự, chiếm một vị trí trung tâm và được
chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế định khác do vai trò trung tâm
của nó đối với trật tự thị trường. Các quy định về hợp đồng luôn luôn chiếm đa
phần trong các đạo luật thuộc lĩnh vực luật tư.
Thực tế cho thấy, những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả
pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu có vai trò quan trọng trong điều chỉnh những
quan hệ giao lưu dân sự trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

hiện nay. Mặt khác, những quy định này không tồn tại độc lập mà có sự liên hệ
chặt chẽ với những quy định khác trong tổng thể nội dung BLDS năm 2005. Bởi
vậy những nghiên cứu về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp
đồng dân sự vô hiệu đã có những đóng góp đáng kể trong việc nâng cao nhận thức

1


của các bên chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng, góp phần làm sáng tỏ những
quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô
hiệu trong các văn bản pháp luật trong từng thời kỳ. Những nghiên cứu này là
những tài liệu tham khảo có giá trị trong công tác áp dụng, thực thi pháp luật cũng
như công tác phổ biến pháp luật. Chính vì vậy, em xin lựa chọn đề tài: “Hợp đồng
dân sự vô hiệu do lừa dối theo Bộ luật dân sự 2015” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học pháp lý ở nước ta đã quan tâm,
nghiên cứu về hợp đồng vô hiệu chung và hợp đồng vô hiệu do lừa dối nói riêng.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như Luận án tiến sỹ luật học của các
Tác giả :Lê Thị Bích Thọ: “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó”;
Nguyễn Văn Cường: “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý
của giao dịch dân sự vô hiệu”; Luận án thạc sỹ luật học của các tác giả: Nguyễn
Phương Thúy, “Giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu”; Phạm Ngọc Minh: “Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả
pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu”; Phạm Bá Đông: “Một số vấn đề về hợp
đồng dân sự vô hiệu - thực trạng và hướng hoàn thiện”. Tuy nhiên, các công trình
nói trên chỉ nghiên cứu chung về giao dịch dân sự; hợp đồng vô hiệu, điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng hoặc các trường hợp vô hiệu của hợp đồng mà chưa nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về trường
hợp cụ thể là Hợp đồng vô hiệu do lừa dối. Đặc biệt kể từ ngày 01/01/2017 là

ngày BLDS 2015 chính thức có hiệu lực với nhiều chế định được sửa đổi, bổ sung
quan trọng thì chưa có một công trình nào nghiên cứu các vấn đề trên theo hướng
tiếp cận của BLDS 2015. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu về hợp
đồng vô hiệu đã được công bố của giới khoa học pháp lý trong nước, Tác giả
quyết tâm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Hợp đồng vô
hiệu do lừa dối để có cái nhìn khách quan và toàn diện nhất, góp phần áp dụng
pháp luật được chính xác và hiệu quả..

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý chế định hợp đồng vô hiệu nói
chung và Hợp đồng vô hiệu do lừa dối nói riêng, qua đó làm rõ hậu quả pháp lý
của Hợp đồng vô hiệu do lừa dối.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật hiện hành, thực tiễn áp dụng pháp
luật về Hợp đồng dân sự do lừa dối thông qua các vụ án cụ thể.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm
tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện tại
TAND góp phần nâng cao chất lượng, áp dụng thống nhất trong việc giải quyết
các loại tranh chấp về hợp đồng vô hiệu do lừa dối.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ những vấn đề sau:
- Phân tích và lý giải nhằm làm rõ Nhận thức chung về hợp đồng vô hiệu do
lừa dối và các vấn đề có liên quan.
- Nghiên cứu thực trạng quy định BLDS 2015 về hợp đồng vô hiệu do lừa
dối, hậu quả pháp lý khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối.
- Thực tiễn áp dụng quy định về hợp đồng vô hiệu do lừa dối và đánh giá về

hiệu quả của những quy định pháp luật hiện hành thông qua việc áp dụng pháp
luật của các cơ quan nhà nước.
- Đề xuất định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử về hợp đồng vô
hiệu do lừa dối. Vấn đề này được tiếp cận theo chiều sâu và toàn diện trong hệ
thống pháp luật dân sự Việt Nam và đặc biệt là quy định của BLDS 2015 về nội
dugn này từ đó tác giả có sự so sánh với luật nước ngoài về một số vấn đề nghiên
cứu có liên quan.

3


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là phương pháp luận triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đường lối, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền. Đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường và thực tiễn áp dụng.
Bên cạnh đó, Tác giả còn đặc biệt coi trọng sử dụng các phương pháp phân
tích quy phạm; điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội, tổng hợp, hệ thống,
điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, đánh giá để giải quyết
các vấn đề của đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học đã được công bố, Tác giả tiếp
tục nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn làm rõ quy
định về hợp đồng vô hiệu do lừa dối một cách thống nhất và thực sự khoa học.
Luận văn có những điểm mới sau đây:
- Là công trình nghiên cứu đầu tiên về chế định hợp đồng vô hiệu do lừa dối

theo quy định của BLDS 2015.
- Bổ sung vào cơ sở dữ liệu nghiên cứu về chế định hợp đồng vô hiệu.
- Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về hợp đồng
vô hiệu do lừa dối, góp phần giúp các cơ quan áp dụng pháp luật đặc biệt là Tòa
án, Viện Kiểm sát và nhân dân có cái nhìn một cách tổng quát và toàn diện chế
định này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Nhận thức chung về hợp đồng vô hiệu do lừa dối
Chương 2. Thực trạng các quy định của BLDS 2015 về hợp đồng vô hiệu
do lừa dối
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện chế định hợp đồng vô hiệu do lừa dối được
quy định trong BLDS 2015

4


Chƣơng 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỪA DỐI
1.1. Khái quát về hợp đồng và hợp đồng vô hiệu
1.1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm của hợp đồng
1.1.1.1. Khái niệm về hợp đồng
Hợp đồng là loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh
thường xuyên trong đời sống hàng ngày, trong các quan hệ, giao lưu, buôn bán của
chúng ta hàng ngày và giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan
hệ trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hợp đồng là một hình thức pháp lý ghi
nhận sự thỏa thuận của các chủ thể để bảo đảm quá trình vận động của hàng hóa
tiền tệ trong sự thống nhất rằng buộc chung, chính vì lẽ đó mà chế định hợp đồng
giữ vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật các quốc gia.
Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia các nhà nghiên cứu khoa học,

các nhà lập pháp tiếp cận khái niệm về hợp đồng dưới nhiều góc độ, khía cạnh
pháp lý khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy được pháp luật của các quốc gia trên thế
giới đều khẳng định sự thỏa thuận là yếu tố cốt lõi của hợp đồng, Cụ thể:
Bộ luật dân sự Québec (Canada) 1994 đưa ra khái niệm: “Hợp đồng là một
sự thỏa thuận của các ý chí mà bởi nó một hoặc một số người tự ràng buộc mình
với một hoặc một số người khác để thực hiện một cam kết” (Điều 1378).
Theo Bộ luật dân sự Pháp 1804: “Hợp đồng là sự thỏa thuận theo đó một
hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác chuyển giao một vật,
làm hoặc không làm một việc nào đó” (Điều 1101).
Bộ luật dân sự Liên bang Nga 1994 đưa ra khái niệm: “Hợp đồng được thừa
nhận như một thỏa thuận được giao kết bởi hai hay nhiều người về việc phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420, khoản 1).
Bộ luật dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Hơp đồng trong
luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ

5


dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, pháp nhân và các tổ chức khác”.
Như vậy, Bộ dân luật Bắc Kì nhìn nhận hợp
Ở Việt Nam, bắt đầu từ khái niệm khế ước được quy định tại Điều 644 đoạn
2 Bộ dân luật Bắc Kì 1931: “Khế ước là hợp ước của một người hay nhiều người
cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển hữu, tác động hay bất tác
động”. Như vậy, Bộ dân luật Bắc Kì nhìn nhận hợp đồng là một hợp ước giữa cá
nhân với cá nhân hoặc giữa một nhóm người với nhau nhằm mục đích chuyển giao
quyền sở hữu, thực hiện một công việc hay không được thực hiện một công việc
nào đó. Cho đến khái niệm pháp lí tổng quát về khế ước quy định ở Điều 680 Bộ
dân luật Trung Kì (1936): “khế ước là hiệp ước của một người hay nhiều người
cam đoan với một hay nhiều người khác để cam đoan với một hay nhiều người
khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì” thì khái niệm về hợp đồng

cũng chỉ là sự thay thế về ngôn từ sử dụng sao cho mang tính chất thuần việt hơn.
Tiếp đến là khái niệm “hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu
giao dịch giữa các bên kinh tế về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và các thoả thuận
khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch” (Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989)
thì khái niệm hợp đồng được xem xét dưới góc độ là hợp đồng kinh tế. Theo đó,
hợp đồng là sự thoả thuận nhưng phải được thể hiện dưới hình thức nhất định bằng
văn bản hay tài liệu giao dịch. Nội dung thoả thuận của hợp đồng về các lĩnh vực
đã được liệt kê một cách cụ thể trong điều luật và mục đích của hợp đồng là mục
đích kinh doanh. Sau đó là sự thay đổi bằng khái niệm “Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của
các bên trong mua, bán, thuê, vay mượn, tặng cho tài sản, làm hay không làm một
việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng” (Điều 1- Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991). Đây
là một khái niệm về hợp đồng rộng hơn so với khái niệm về hợp đồng kinh tế

6


được quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Hợp đồng dân sự theo đó
được hiểu là sự thoả thuận giữa các bên và từ sự thoả thuận đó sẽ làm phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán, hợp
đồng thuê tài sản, hợp đồng vay mượn tài sản, hợp đồng tặng cho,… đã được điều
luật liệt kê. Mục đích của hợp đồng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.
Hiện nay, chế định về hợp đồng được quy định tại mục 7, Chương XV, Phần thứ
ba của Bộ luật dân sự năm 2015. Theo đó, Điều 385 BLDS 2015 đưa ra khái niệm:
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”. Đã có sự thay đổi tư duy lập pháp so với Điều 394 Bộ
luật dân sự 1995 và Điều 388 BLDS 2005 khi quy định: “Hợp đồng dân sự là sự

thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Với định nghĩa này, dường như các nhà làm luật đã quá cẩn trọng khi sử
dụng thêm từ “dân sự” theo nghĩa rộng gắn vào phía trước thuật ngữ “Hợp đồng”
để chỉ tất cả các loại hợp đồng được điều chỉnh bởi luật tư Error! Reference source
not found.. Việc bổ sung từ “dân sự” dường như không cần thiết bởi chỉ riêng

thuật ngữ “hợp đồng” đã bao hàm và thể hiện rõ nội dung. BLDS 2015 đã loại bỏ
từ “dân sự” theo đó chỉ đưa ra khái niệm về hợp đồng, thiết nghĩ việc thay đổi này
là phù hợp và không ảnh hưởng đến bản chất nội hàm của hợp đồng. Như vậy,
Hợp đồng theo BLDS 2015 được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc mua
bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, cho thuê, mượn tài sản hoặc về việc thực hiện
một công việc theo đó làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng.
1.1.1.2. Bản chất của hợp đồng
Theo Điều 385 BLDS 2015 có thể thấy được bản chất của hợp đồng là sự
thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với ít nhất hai bên chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng. Như vậy, hợp đồng là loại quan hệ pháp luật dân sự hình thành
trên cơ sở sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên tham gia trong quan hệ đó
nhằm thỏa mãn nhu cầu của nhau; điều đó giúp chúng ta nhận định được hợp đồng

7


dân sự là một bộ phận cấu thành giao dịch dân sự hay nói cách khác hợp đồng dân
sự là một tập hợp con của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, một giao dịch dân sự có
thể không phải là hợp đồng mà là một hành vi pháp lý đơn phương. Ví dụ: Di chúc
là sự thể hiện ý chí của một bên chủ thể giao kết giao dịch (bên để lại di sản)
nhưng tại thời điểm lập di chúc chưa thể hiện được ý chí của một bên còn lại trong
giao dịch (bên được hưởng di sản), bên được hưởng di sản này có thể đồng ý hoặc
không đồng ý đối với ý chí của người để lại di sản nên đây không thể là hợp đồng

mà là hành vi pháp lý đơn phương. Mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận, tuy nhiên
không phải bất kỳ sự thỏa thuận nào cũng là hợp đồng Error! Reference source not
found.. Chỉ những thỏa thuận được xác lập, thực hiện trên cơ sở đồng thuận, nhất

trí đích thực, thống nhất ý chí của các bên phù hợp với nguyện vọng, mục đích
giao kết hợp đồng của các bên mới được coi là hợp đồng. Đây cũng chính là một
trong những đặc điểm để phân biệt về giá trị pháp lý của nội dung hợp đồng so với
quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định được hình thành dựa trên ý chí của nhà
cầm quyền chứ không phải do ý chí của các bên tham gia quan hệ.
Như vậy, về bản chất pháp lý của hợp đồng là việc tự do, tự nguyện, thỏa
thuận và cam kết thực hiện thỏa thuận của các bên, tạo giá trị pháp lý ràng buộc
các bên, buộc các bên phải thực hiện nếu không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật quy định.
1.1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng
Hợp đồng có các đặc điểm sau:
* Chủ thể của hợp đồng: Khái niệm hợp đồng trong BLDS 2015 đã xác
định đặc trưng chủ thể trong hợp đồng, theo đó hợp đồng phải gồm ít nhất hai chủ
thể trở lên. Mỗi bên trong quan hệ hợp đồng dân sự có thể có hai hay nhiều chủ
thể tham gia. Chủ thể của hợp đồng có thể là một trong các chủ thể được quy định
trong Phần thứ nhất của BLDS 2015, bên cạnh đó ngoài việc đáp ứng yêu cầu là
chủ thể được quy định trong BLDS 2015 thì tùy từng chủ thể riêng biệt sẽ phải

8


đáp ứng các yêu cầu luật định khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng và quan hệ
dân sự nói chung (sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau) bao gồm:
- Cá nhân.
- Pháp nhân:


+ Pháp nhân thương mại;
+ Pháp nhân phi thương mại.

- Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung
ương và địa phương.
- Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
* Hợp đồng thể hiện sự tự do ý chí của các chủ thể trong hợp đồng: Thuật
ngữ “tự do ý chí” được viết bằng tiếng Anh là “will autonomy” mà trong đó từ
“autonomy” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại bao gồm từ “nomos” có nghĩa là
luật (một người định ra luật cho bản thân anh ta). Vì vậy “autonomy” thường được
hiểu là quyền của một người tự điều chỉnh bản thân mình Error! Reference source
not found.. Tự do ý chí là đặc điểm quan trọng, đặc trưng, có vai trò cực kỳ quan

trọng đối với hợp đồng. Nó được xem là cực kỳ quan trọng bởi nó là yếu tố cơ
bản, không thể thiếu được để hình thành hợp đồng từ đó làm phát sinh ra các nghĩa
vụ pháp lý. Trong giao dịch dân sự nếu thiếu yếu tố này thì không thể coi là hợp
đồng được. Bởi lẽ khi tham gia quan hệ hợp đồng các bên chủ thể hướng tới một
mục đích nhất định có thể là lợi ích về vật chất hoặc lợi ích về tinh thần. Nếu vì lý
do nào đó do giả tạo, do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng bức….. mà hợp
đồng được giao kết nhưng không thể hiện được ý chí đích thực của một hoặc các
chủ thể giao kết thì hợp đồng đó không được pháp luật thừa nhận và không có giá
trị pháp lý rằng buộc các bên tham gia. Ngày nay ý chí được hiểu là sự tự do và ý
chí của các bên là yếu tố duy nhất hình thành hợp đồng và phát sinh các hậu quả
pháp lý. Ở Việt Nam nguyên tắc này được ghi nhận ở hầu hết các văn bản quy
phạm pháp luật như: Khoản 2 Điều 3 BLDS quy định nguyên tắc cơ bản: “Cá
nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình
trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi

9



phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với
các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”; khoản 1 Điều 11 Luật Thương mại
2005 quy định nguyên tắc: “1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với
các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng
và bảo hộ các quyền đó”; Khoản 2 Điều 17 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định
nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động: “Tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng
không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội”….. Qua
các quy định này, có thể nhận thấy tự do ý chí trong giao kết hợp đồng là một đặc
điểm, nguyên tắc hết sức quan trọng tuy nhiên nguyên tắc tự do ý chí bị hạn chế
dưới một số phương diện như:
Hạn chế tự do giao kết hợp đồng: Sự hạn chế thường được nghiên cứu trong
phạm vi của các hành vi pháp lý (hay còn gọi là giao dịch dân sự) bao gồm hợp
đồng và hành vi pháp lý đơn phương. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
nay hạn chế này thể hiện rõ nét nhất qua giao dịch dân sự vô hiệu được quy định
tập trung tại Chương VIII Bộ luật dân sự năm 2015 bao gồm các trường hợp: Giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123
BLDS); Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 BLDS); Giao dịch dân sự
vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự xác lập, thực hiện (Điều 125 BLDS); Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
(Điều 126 BLDS); Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều
127 BLDS); Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình (Điều 128 BLDS); Giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129 BLDS). Ngoài ra, việc hạn chế này còn
nằm ở rải rác trong các chương khác của BLDS và các văn bản pháp luật khác có
liên quan.


10


Hạn chế tự do không giao kết hợp đồng: Tự do hợp đồng được xem xét ở
hai khía cạnh khác nhau là chủ thể có quyền lựa chọn, quyết định việc giao kết hợp
đồng hoặc từ chối, không giao kết hợp đồng. Việc từ chối giao kết hợp đồng bị hạn
chế trong nhiều trường hợp. Ví dụ trong trường hợp chuyển nhượng phần vốn góp
của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, theo Điều 52, 53
Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo đó khi thành viên công ty khi có ý định chuyển
nhượng phần vốn góp mà công ty có yêu cầu mua lại thì thành viên không được từ
chối lời đề nghị giao kết hợp đồng này mà phải giao kết hợp đồng này.
Hạn chế tự do ấn định nội dung của hợp đồng: Một khía cạnh thể hiện
quyền tự do ý chí trong việc tự do soạn thảo, ấn định, xây dựng nội dung của hợp
đồng và tự do thay đổi các điều kiện của hợp đồng. Muốn có được sự thỏa thuận,
các chủ thể tham gia phải bày tỏ ý chí của mình dưới một hình thức nhất định, qua
đó các bên có thể nhận biết được ý chí của nhau để cùng ngồi lại bàn bạc thống
nhất nhằm cân bằng, hài hòa lợi ích giữa các bên nhằm đi đến tiếng nói chung
trong việc giao kết. Thực tiễn hiện nay nội dung này bị hạn chế rõ rệt. Thể hiện
trong các hợp đồng dịch vụ khi các giao dịch được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều
lần giữa một bên chủ thể nhất định (bên cung ứng dịch vụ) và nhiều chủ thể thay
đổi (bên nhận dịch vụ) với đối tượng dịch vụ như nhau khi đó để giảm thiểu thời
gian công sức bên cung ứng dịch vụ thường soạn thảo sẵn hợp đồng (gọi là hợp
đồng theo mẫu) bên nhận dịch vụ chỉ có quyền chấp nhận hay không chấp nhận
giao kết hợp đồng mà không thể trình bày, bổ sung, nêu ý kiến của mình trong hợp
đồng. Có ý kiến cho rằng việc đồng thuận giao kết vào hợp đồng theo mẫu này đã
thể hiện được quyền tự do ý chí của chủ thể còn lại, bởi chỉ có đồng thuận thì chủ
thể này mới thực hiện giao kết. Thực tế chứng minh quan điểm trên là hoàn toàn
sai lầm, khi việc xây dựng nội dung hợp đồng chỉ được thực hiện đơn phương giữa
một bên chủ thể thì không thể đảm bảo rằng nội dung này được bình đẳng, bên
xây dựng chắc chắn sẽ xây dựng những nội dung có lơi cho mình đồng nghĩa với

việc gây bất lợi cho bên còn lại. Bên chủ thể còn lại vì những lý do nhất định mà

11


bắt buộc phải giao kết hợp đồng. Điều này còn được thể hiện rất rõ trong hợp đồng
lao động giữa người sử dụng lao động với người lao động khi hợp đồng được bên
chủ sử dụng lao động soạn thảo sẵn và người lao động chỉ có thể ký hoặc không
ký kết hợp đồng.
* Phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia giao kết: Hợp
đồng luôn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia giao kết.
Không phải mọi thỏa thuận nào thể hiện ý chí của các chủ thể giao kết đều là hợp
đồng; Một thỏa thuận, giao kết chỉ được coi là hợp đồng khi làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia giao kết. Ví dụ: A nhờ bạn mình là B ngày
mai qua đèo mình đi học, B đồng ý; Trường hợp này không thể nói giữa A và B đã
phát sinh một hợp đồng vận chuyển hành khách và người bạn là B kia có quyền
qua đón hay không hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ, sự nhiệt tình, chữ tín
của B. Trong trường hợp vì quên hay vì lý do khác mà B không qua đón được thì
A cũng không thể yêu cầu B bồi thường thiệt hại. Do vậy, nếu như sự tự do thể
hiện ý chí là điều kiện cần thì yếu tố phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể
tham gia giao dịch là điều kiện đủ để coi một giao dịch là hợp đồng.
1.1.2. Nền tảng triết học về hợp đồng
Lịch sử cổ đại loài người đã từng trải qua giai đoạn không cần đến hợp
đồng, đó là giai đoạn chưa có sự phân công của lao động, chưa có sự trao đổi của
sản phẩm lao động hay nói cách khác các quan hệ xã hội chưa hình thành. Khi có
sự phân công lao động xã hội tạo nên sự trao đổi sản phẩm của lao động, như Cácmác đã viết: “Tự chúng không thể đi đến thị trường mà trao đổi với nhau được”
mà đòi hỏi có sự thỏa thuận thống nhất về ý chí của những người có sản phẩm
hàng hóa về việc trao đổi sản phảm của hàng hóa đó. Đó là mối quan hệ ý chí
phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa những người có sản phẩm hàng hóa được thiết
lập trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên mà hình thức thể hiện của nó là bản

giao kèo. Bản giao kèo này chính là hợp đồng. Hợp đồng được ra đời và hình
thành dựa trên nhu cầu vận động, quy luật tất yếu của xã hội để đáp ứng các yêu

12


cầu đòi hỏi của con người, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Quan hệ trao đổi sản
phẩm hàng hóa trở thành quan hệ Pháp Luật khi được Pháp Luật điều chỉnh và
hợp đồng trở thành hình thức pháp lý của nó. sự ra đời của hợp đồng đòi hỏi khách
quan của nền sản xuất hàng hóa. Đã có sản xuất hàng hóa thì đến một giai đoạn
nào đó dẫn đến sự dưa thừa tất yếu phải có hợp đồng để trao đổi sản phẩm hàng
hóa, bán đi những thứ mình có nhiều, dư thừa để đổi lại những hàng hóa, sản
phẩm mà mình thiếu, cần. Sau đó, cùng với sự phát triển của xã hội. Hợp đồng
phát triển cả ngoài phạm vi trao đổi sản phẩm hàng hóa, người ta có thể thỏa thuận
thống nhất ý chí với nhau về việc làm một việc gì và không làm việc gì thì đó
chính là hợp đồng.
Triết học và phương pháp luận khoa học góp phần giúp các ngành khoa học
cụ thể giải quyết các vấn đề của chúng, qua đó triết học thúc đẩy tiến bộ khoa học
trong đó có khoa học pháp lý phát triển Triết học xã hội tham gia và giải quyết
những vấn đề chính trị, kinh tế xã hội..... đóng góp đáng kể vào mọi thành tựu của
loài người. Pháp luật về hợp đồng là một trong những thành tựu đáng được nhắc
đến, nó ghi nhận nguyên tắc tự do ý chí của con người. Vũ Văn Mẫu cho rằng: “về
phương diện triết học, các lý thuyết tự do sở dĩ coi ý chí là căn bản của các nghĩa
vụ, là vì tin tưởng rằng khi các cá nhân được tự do thương thuyết không vướng
mắc một trở ngại nào thì sự quyết định của họ phản chiếu sự công bằng”.
Về phương diện triết học, hợp đồng luôn tồn tại hiện hữu ở hai dạng là hợp
đồng có hiệu lực và hợp đồng vô hiệu. Hợp đồng có hiệu lực được hiểu là hợp
đồng được xác lập trên cơ sở tự nguyện – tự do ý chí, không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không chống lại lợi ích công cộng. Hợp đồng vô hiệu là thỏa thuận
không có hiệu lực pháp luật kể từ khi giao kết hoặc không phát sinh quyền và

nghĩa vụ của các bên từ thời điểm giao kết, do một hoặc các bên chủ thể không có
thẩm quyền xác lập hoặc các bên chủ thể không có sự thống nhất về mặt ý chí đích
thực hoặc hành vi giao kết và thực hiện thỏa thuận bị pháp luật cấm hoặc xâm
phạm trật tự công hoặc thỏa thuận không được pháp luật thừa nhận do vi phạm

13


điều kiện về hình thức hợp đồng. Như vậy pháp luật hợp đồng phải luôn tồn tại
dưới dạng có hiệu lực và vô hiệu.
1.1.3. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ý nghĩa
1.1.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Theo Điều 116 BLDS 2015 quy định Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành
vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Như vậy, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự nên chịu sự điều chỉnh của quy định
chung về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Theo đó, các điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng khi có đủ các điều kiện sau (Điều 117 BLDS 2015):
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập: Như đã nêu bên trên, Chủ thể của hợp đồng là
một trong các chủ thể được quy định trong Phần thứ nhất của BLDS 2015, bên
cạnh đó ngoài việc đáp ứng yêu cầu là chủ thể được quy định trong BLDS 2015
thì tùy từng chủ thể riêng biệt sẽ phải đáp ứng các yêu cầu luật định khi tham gia
giao kết hợp đồng phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Cụ thể:
Một là Cá nhân: Đây là chủ thể chủ yếu tham gia vào quan hệ hợp đồng và
tham gia thường xuyên bao gồm: công dân Việt Nam, người nước ngoài, người
không có quốc tịch sống ở Việt Nam được quy định tại Chương III BLDS. Để có
tư cách chủ thể thì cá nhân phải có các điều kiện đầy đủ năng lực pháp luật dân sự
(Điều 16 BLDS) “1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá
nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.

3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết.”. và năng lực hành vi dân sự (Điều 19 BLDS) “Năng
lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
chỉ có được khi đạt độ tuổi nhất định:

14


Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Theo quy định tại Điều 20 BLDS người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người thành niên (người đủ 18 tuổi trở lên) và
không thuộc trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự và không bị khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi.
Năng lực hành vi một phần: Điều 21 BLDS quy định Năng lực hành vi dân
sự của người chưa thành niên (người chưa đủ 18 tuổi) cụ thể: Giao dịch dân sự của
người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập,
thực hiện; Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân
sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi; Người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự,
trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao
dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật
đồng ý.
Mất năng lực hành vi dân sự là một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi và bị Tòa án quyết định
tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự
phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Hạn chế năng lực hành vi dân sự là một người nghiện ma túy, nghiện các
chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình bị Tòa án ra quyết định

tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Việc xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn
chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật,
trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có
quy định khác.
Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là Người thành niên
do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ

15


hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự và bị Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần và chỉ định người giám hộ, xác định
quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Hai là, pháp nhân: Để được công nhận và tham gia giao dịch thì pháp nhân
phải có đủ các điều kiện sau:
+ Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
+ Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
+ Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Pháp nhân tham gia giao dịch có thể là pháp nhân thương mại (Pháp nhân
thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận
được chia cho các thành viên) hoặc pháp nhân phi thương mại (Pháp nhân phi
thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có
lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên).
Ba là, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam, cơ quan nhà nước ở
trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự: BLDS 2005 không hề đề cập đến
nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở

địa phương trong các chủ thể trong quan hệ dân sự. Đây là một chủ thể đặc biệt
trong quan hệ dân sự được BLDS 2015 đề cập đến. Theo quy định tại Điều 2 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,

16


tư pháp”. Mặc dù là chủ thể đặc biệt, nhưng trong một số quan hệ pháp luật dân sự
nhất định vẫn có sự tham gia của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương với tư cách là chủ thể trong quan hệ
dân sự có thể kể đến các quan hệ phổ biến như: Trong quan hệ bồi thường thiệt hại
của nhà nước theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước
năm 2009; Trong quan hệ hợp đồng về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất của các cơ quan nhà nước theo quy định tại Luật đất đai năm 2013;
Trong quan hệ Nhà nước là đại diện chủ sở hữu tài sản là đất đai theo quy định tại
Hiến pháp 2013 và Luật đất đai năm 2013; Trong quan hệ là chủ sở hữu của một
số tài sản không xac định được chủ sở hữu theo quy định của BLDS 2015…..
Từ phân tích trên, có thể thấy thực tiễn Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương cũng là chủ thể trong
quan hệ dân sự.
Bốn là, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
trong quan hệ dân sự: Chủ thể trong pháp luật dân sự ngoài Hộ gia đình và tổ hợp tác
như theo quy định của BLDS 2005; BLDS 2015 đã mở rộng thêm chủ thể là tổ chức
khác không có tư các pháp nhân trong quan hệ dân sự; đây là chủ thể mở nhằm hạn

chế những lỗ hổng trong pháp luật dân sự khi không có các quy định pháp luật điều
chỉnh các chủ thể này tham gia trong quan hệ dân sự, các tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân trong quan hệ dân sự được kể đến ở đây có thể kể đến như: thôn,
làng, bản; khu nhà chung cư..... Khi tham gia quan hệ dân sự thì các chủ thể này phải
ủy quyền bằng văn bản cho một cá nhân đại diện hoặc Ban lãnh đạo thôn hay Ban
quản trị nhà chung cư làm đại diện để tham gia quan hệ dân sự.
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện: Chủ thể tham
gia giao dịch dân sự nhằm với mục đích hướng tới những lợi ích vật chất hoặc tinh
thần nhất định, do đó việc lựa chọn một giao dịch dân sự nào đó để tham gia cũng
như xác định nội dung thỏa thuận quyền và lợi ích hợp pháp trong giao dịch dân
sự là hoàn toàn phụ thuộc vào chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí là nguyện vọng

17


mong muốn chủ quan bên trong của chủ thể và phải được thể hiện ra bên ngoài
dưới một hình thức nhất định, việc thể hiện này phải đúng như ý chí, mong muốn
thực sự của chủ thể tham gia giao kết không bị tác động bởi bất kỳ yếu tố chủ
quan hay khách quan nào dẫn đến việc không thể hiện được ý chí hoặc việc thể
hiện ý chí không đúng như mong muốn. Hay nói cách khác, giữa ý chí đích thực
của chủ thể (bên trong với sự biểu hiện ý chí (sự biểu hiện ra bên ngoài) phải có sự
thống nhất, nếu không có sự thống nhất ý chí thì chủ thể không có sự tự nguyện
Error! Reference source not found. và giao dịch dân sự không phát sinh hiệu lực.

Những trường hợp sau đây, chủ thể không có sự tự nguyện khi tham gia giao dịch
dân sự:
+ Sự giả tạo: Điều 124 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do
giả tạo: “1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu
một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân
sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy

định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”.
Sự thể hiện ý chí của mỗi cá nhân được ghi nhận và nhận biết dưới một hình
thức nhất định; tuy nhiên có những trường hợp chủ thể hoàn toàn mong muốn thể
hiện được ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định nhưng mặc dù hoàn
toàn kiểm soát được ý chí, hành vi của bản thân, không bị tác động bởi bất kỳ yếu
tố nào nhưng việc thể hiện đó vẫn không phải là ý chí đích thực đó được coi là sự
giả tạo. Điều 124 BLDS 2015 dựa trên mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự
giả tạo để chia thành hai trường hợp là Giao dịch dân sự được xác lập nhằm mục
đích che giấu một giao dịch khác và Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Hậu quả pháp lý của các giao dịch dân
sự này đều bị vô hiệu.

18


+ Sự nhầm lẫn: Việc nhận thức hay đánh giá về đối tượng, mục đích, nội
dung..... của giao dịch dân sự hoàn toàn chủ động thuộc về chủ thể tham gia giao
dịch. Việc nhìn nhận đánh giá không đúng về đối tượng, mục đích, nội dung.....
của giao dịch mà mình hướng tới xác lập cũng là căn cứ dẫn tới việc hủy bỏ hợp
đồng. Điều 236 BLDS 2015 quy định: “1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác
lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của
việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong
trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các
bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập
giao dịch dân sự vẫn đạt được”. Bộ luật dân sự 2015 không định nghĩa cụ thể về
nhầm lẫn mà chỉ xác định một trường hợp nhầm lẫn dẫn đến hợp đồng vô hiệu là

trường hợp một bên hoặc các bên nhầm lẫn về nội dung của giao dịch do lỗi vô ý
của bên kia dẫn đến không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị
nhầm lẫn có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.
+ Sự lừa dối: Trong giao kết hợp đồng, lừa dối nhiều khi được xem như
nhầm lẫn của một bên do bị bên kia hoặc người thứ ba cố ý gây ra Error!
Reference source not found.. Vậy nên Điều 127 BLDS 2015 giải thích: “Lừa dối

trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Như vậy theo nội hàm điều
luật thì phạm vi lừa dối được xác định rộng hơn nhầm lẫn bao gồm cả sự nhầm lẫn
của một bên trong trong giao dịch nhưng có thể được thực hiện bởi cả người thứ
ba nhằm tạo ra sự nhầm lẫn về chủ thể, đối tượng và nội dung của hợp đồng với
lỗi cố ý. Khi có yêu cầu của bên chủ thể bị lừa dối thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch
dân sự này vô hiệu.

19


+ Sự đe dọa, cưỡng bức: Khác biệt so với sự nhầm lẫn và lừa dối bởi nếu
như nhầm lẫn và lừa dối thì chủ thể thực hiện việc ý chí ra bên ngoài một phần nào
đó đúng với mong muốn nhưng ý chí này bị tác động hoặc do nhận thức của bản
thân dẫn đến không phù hợp với ý nguyện của chủ thể, tuy nhiên trong trường
hợp đe dọa, cưỡng bước việc thể hiện ý chí ra bên ngoài của chủ thể tham gia bị
ép buộc, chống lại ý chí của bản thân mình, sự biểu hiện ý chí này là khác biệt so
với ý chí. Điều 127 BLDS 2015 quy định: “Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân
sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực
hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình”. Sự đe dọa,
cưỡng bức được thực hiện với lỗi cố ý, với mục đích là tác động vào ý chí của chủ

thể còn lại, ép buộc chủ thể này phải xác định giao dịch dân sự trái với ý muốn của
họ. Hành vi này phải đạt đến mức độ khiến chủ thể bên kia “sợ hãi” không còn sự
lựa chọn nào khác nếu không sẽ bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
nhân phẩm, tài sản của mình hoặc người thân thích của mình. Một điểm cần lưu ý là
chủ thể thực hiện hành vi đe dọa hay cưỡng bước là bất kể ai có thể là chủ thể tham
giao giao kết hợp đồng hoặc bất cứ cá nhân nào khác. Khi có yêu cầu của bên chủ
thể bị đe dọa, cưỡng bức thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch dân sự này vô hiệu.
+ Sự thiệt thòi, bất lợi: Pháp luật Việt Nam nói chung và BLDS 2015 nói
riêng không xem xét tới vấn đề thiệt thòi, bất lợi của các chủ thể khi tham gia giao
kết hợp đồng, tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định pháp luật vẫn đề cập và
điều chỉnh. Ví dụ: Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự Điều 201 Bộ luật Hình
sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Thiệt thòi có thể được hiểu là việc
một bên trong giao kết hợp đồng không nhận được những lợi ích tương đương với
những gì mà bên này phải thực hiện cho bên kia Error! Reference source not
found..

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội: Nếu như điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS

20


2005 quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là “Mục đích và nội
dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội”; thì tại điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 đã thu hẹp phạm vi, giới hạn
ràng buộc của điều kiện này theo đó “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” Quy định này thể
hiện nguyên tắc cơ bản của BLDS đó là công dân có quyền thực hiện, làm những
gì mà luật không cấm được ghi nhận tại khoản 2 Điều 3 BLDS 2015: “Cá nhân,
pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ

sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên
và phải được chủ thể khác tôn trọng”.
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được
khi xác lập giao dịch đó (Điều 118 BLDS). Nội dung của giao dịch dân sự là tổng
hợp các điều khoản, các cam kết xác định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể,
có tính chất rằng buộc các chủ thể khi tham gia giao kết Error! Reference source
not found..

Trong giao dịch dân sự thì yếu tố tự do ý chí là một trong những nguyên tắc
cơ bản, đặc trưng của giao dịch dân sự. Tuy nhiên sự tự do này không mang tính
tuyệt đối mà bị ràng buộc trong khuôn khổ luật định. Nếu chủ thể tham gia giao
dịch không thực hiện, tuân theo sự ràng buộc này thì giao dịch dân sự không được
pháp luật công nhận và không có giá trị ràng buộc các bên, khuôn khổ này được
thể hiện:
+ Thỏa thuận không được vi phạm điều cấm của luật:
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định (Điều 123 BLDS 2015). Nội dung này xuất phát từ lợi
ích công cộng mà pháp luật sẽ có các quy định cụ thể liên quan đến việc cấm chủ thể
không được thực hiện những hành vi nhất định. Trong khoa học pháp lý trên thế giới
coi đây là sự hạn chế tự do của chủ thể, bởi lẽ về bản chất pháp luật là công cụ bảo vệ

21


×