Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 108 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ THỊ KHÁNH



GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành : Luật Dân Sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phùng Trung Tập


Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,


tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Vũ Thị Khánh

MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH DÂN
SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO
DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI 8
1.1. Khái niệm về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự 8
1.1.1.1. Khái niệm về giao dịch dân sự 8
1.1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự 14
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu 18
1.1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu 18
1.1.2.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu 21

1.2. Khái niệm về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối 30
1.2.1 . Khái niệm lừa dối 30
1.2.2 . Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối 31
1.2.3. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối 31
1.2.4 . Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối trong pháp luật dân sự
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 34
1.2.4.1. Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối dưới thời nhà Lê và nhà Nguyễn 34
1.2.4.2. Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối dưới thời Pháp thuộc 35
1.2.5. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối trong pháp luật một số
nước trên thế giới 39
1.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối 44
Chương 2: GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG 54
2.1. Thực trạng giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo các quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam 54
2.2. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối 59
2.3. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối 63
2.4. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự
bị tuyên bố là vô hiệu 64
2.4.1. Nhận thức chung về người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu do lừa dối 64
2.4.2. Điều kiện để xác định người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu 65
2.4.3. Giải quyết hậu quả pháp lý giao dịch vô hiệu do lừa dối, khi có người
thứ ba ngay tình cần được bảo vệ 66
2.5. Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối
tại TAND 68
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO

LỪA DỐI 87
3.1. Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao dịch dân sự vô hiệu nói
chung và giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối nói riêng là một tất yếu khách
quan, sự đòi hỏi của thực tiễn 87
3.2. Những kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy định pháp luật
về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối 89
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

BLDS : Bộ luật dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
Tr. : Trang

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT
SỐ LIỆU
BẢNG
TÊN BẢNG
TRANG
1
2.1
Số liệu các vụ án dân sự, giao dịch dân sự,
giao dịch dân sự vô hiệu giải quyết ở cấp sơ
thẩm và Tòa dân sự TAND tối cao
Số liệu về án hợp đồng dân sự được giải
quyết ở cấp tỉnh
70

2
2.2
Số liệu về án hợp đồng dân sự được giải
quyết ở cấp tỉnh
70

















1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của pháp luật khởi nguồn chính từ những nhu cầu thường
ngày của mỗi con người, là công cụ phục vụ, bảo vệ lợi ích mọi thành viên
trong xã hội của Nhà nước. Nảy sinh từ nhu cầu sản xuất, nhu cầu kinh
doanh cũng như các nhu cầu khác, Nhà nước thấy cần thiết phải có những

phương tiện pháp lý nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng đó của
con người. Giao dịch dân sự chính là một trong những phương tiện pháp lý
quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc chuyển dịch tài sản và
cung ứng dịch vụ, nghĩa là giao dịch dân sự tạo điều kiện cho các chủ thể
tham gia vào đời sống pháp lý nhằm đáp ứng những nhu cầu, đòi hỏi phục
vụ cho những mục đích nhất định từ cuộc sống con người. Trong điều kiện
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội, giao dịch dân
sự càng có ý nghĩa quan trọng.
Xuất phát từ tầm quan trọng cũng như ý nghĩa thiết thực của giao dịch
dân sự, BLDS nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết và tương đối hoàn thiện về
việc xác lập, thực hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự nói chung và từng loại giao dịch dân sự cụ thể. Việc này đã tạo một hành
lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể khi tham gia giao dịch
dân sự, tạo sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu vẫn còn
nhiều vướng mắc. Các quy định có phần còn cứng nhắc, chưa đầy đủ, có quy
định còn chồng chéo, gây nên cách hiểu không thống nhất.


2
Về phía các cơ quan nhà nước, do tính phức tạp của các giao dịch dân
sự, những quy định không rõ ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều khó
khăn, lúng túng trong công tác xét xử có liên quan tới giao dịch dân sự vô
hiệu. Nói cách khác, chính điều đó làm hạn chế năng lực của các cơ quan
chức năng trong việc giải quyết các tranh chấp về giao dịch dân sự.
Và trên thực tế, cũng không ít trường hợp giao dịch dân sự bị tuyên bố
vô hiệu do một bên giao kết hợp đồng lợi dụng các quy định của pháp luật để
"bội ước", nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình. Giao dịch dân sự vô

hiệu do lừa dối là một trong những loại giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm ý
chí chủ thể gây nhiều tranh cãi và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật
hiện nay.
Với tư cách là một người nghiên cứu pháp luật, chúng tôi thấy rằng cần
nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối
để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn
đề này. Việc xây dựng các quy định pháp lý về giao dịch dân sự vô hiệu do
lừa dối hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn không những là yêu cầu chính đáng
của người dân để họ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình mà còn là điều
kiện để cơ quan nhà nước hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước
giao.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tiến hành nghiên cứu một cách có
hệ thống về vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là việc làm hết sức cần
thiết. Do đó, tác giá đã lựa chọn đề tài “Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối
theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp cho chương trình đào tạo Cao
học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế định giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học pháp lý
quan tâm trong các thời kỳ dưới những góc độ khác nhau. Đã có nhiều công


3
trình nghiên cứu về giao dịch dân sự vô hiệu, trong đó có đề cập đến giao dịch
dân sự vô hiệu do lừa dối như các bài giảng trong giáo trình luật dân sự của
Trường Cao đẳng Kiểm sát, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học
Quốc gia, trong một số ấn phẩm như: Bình luận BLDS của Bộ Tư pháp và
trong một số bài viết của một số tác giả ở góc độ hẹp, đó là: TS. Bùi Đăng
Hiếu: Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt
đối. Trong bài viết này tác giả chủ yếu phân tích, so sánh và đưa ra sự khác
biệt chung thể hiện bản chất của khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tương đối

và vô hiệu tuyệt đối, theo đó, vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối được
tác giả đề cập dưới hình thức là một giao dịch vô hiệu tương đối. Lừa dối –
Yếu tố vô hiệu hợp đồng kinh tế của thạc sỹ Lê Thị Bích Thọ - Trong giới hạn
bài viết này tác giả đã lần lượt đề cập đến vấn đề cơ bản về yếu tố lừa dối
trong giao kết hợp đồng, Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
về hợp đồng kinh tế vô hiệu do lừa dối ở Việt Nam. “Xử lý hợp đồng vô hiệu
theo pháp luật dân sự Việt Nam” năm 2011 của thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh -
Ở bài viết này tác giả đã phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở lý luận cơ bản
về hợp đồng vô hiệu, cách thức xử lý hợp đồng vô hiệu trong pháp luật dân sự
Việt Nam. Lược sử quá trình điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hợp đồng
vô hiệu qua các thời kỳ và quy định của một số nước trên thế giới về vấn đề
này, làm nổi bật sự phát triển của các quy định pháp luật dân sự về vấn đề
này. Nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam quy định về hợp đồng vô hiệu,
hậu quả pháp lý khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Nghiên cứu thực tiễn xử lý
hợp đồng vô hiệu và đánh giá về hiệu quả của những quy định pháp luật hiện
hành thông qua việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước. Đề xuất
phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật và các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật. Theo đó, vấn đề hợp đồng vô hiệu do lừa dối
được tác giả đề cập dưới hình thức là một trường hợp của hợp đồng vô hiệu.


4
Và cũng có công trình nghiên cứu cụ thể hơn như luận án tiến sỹ Luật
học năm 2005 của tác giả Nguyễn Văn Cường: “Giao dịch dân sự vô hiệu và
việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” - ở tác phẩm
này tác giả đã nghiên cứu một cách hoàn chỉnh về giao dịch dân sự vô hiệu,
làm rõ các căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu, phân tích thực
tiễn giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu và đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, vấn đề giao dịch dân sự vô
hiệu do lừa dối được tác giả đề cập dưới hình thức là một trường hợp giao

dịch dân sự vô hiệu với hậu quả pháp lý đặc biệt. Luận văn thạc sỹ Luật học
của tác giả Bùi Thị Thu Huyền : “Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí
chủ thể” năm 2010 - ở công trình này tác giả chủ yếu nghiên cứu về các
trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí như hợp đồng vô hiệu
do giả tạo, do nhầm lẫn, do bị lừa dối, đe dọa…dựa trên các trường hợp giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí của chủ thể. Luận văn Thạc sỹ Luật học
năm 2008 của tác giả Nguyễn Thị Nhàn : “Ý chí của chủ thể trong giao dịch
dân sự” chủ yếu nghiên cứu khái niệm ý chí chủ thể, các trường hợp vi phạm
ý chí chủ thể trong giao dịch dân sự, nguyên nhân và thực trạng tranh chấp về
giao dịch dân sự có vi phạm ý chí, tác giả cũng đề cập đến giao dịch dân sự
vô hiệu do lừa dối dưới tính cách là một giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm
ý chí của Nhà nước.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây đã nêu và phân tích những
vấn đề có tính khái quát nhất về giao dịch dân sự trong Luật Dân sự, đưa ra
những điều kiện cơ bản về việc xác định giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, tất cả chỉ đề cập đến
vấn đề ở dạng khái quát và vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối chỉ là một
phần nhỏ trong các công trình này. Việc nghiên cứu hoàn chỉnh và cụ thể về giao
dịch dân sự vô hiệu do lừa dối chưa được khai thác một cách triệt để.


5
Bởi vậy tác giả cho rằng việc nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống
chi tiết về giao dịch dân sự do lừa dối theo quy định của BLDS 2005 và các
văn bản liên quan là cần thiết và không bị trùng lặp với các công trình khác đã
công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và
thực tiễn, từ đó đề ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về

giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm
pháp lý chế định giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô
hiệu do lừa dối nói riêng, qua đó làm rõ hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự
vô hiệu do lừa dối, đồng thời phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng
pháp luật về giao dịch dân sự do lừa dối. Ngoài ra, khi nghiên cứu thực trạng,
đánh giá hiệu quả điều chỉnh của các quy định pháp luật về giao dịch dân sự
vô hiệu do lừa dối và thực tiễn việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu do lừa dối, trong luận văn có đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trong
thực tiễn giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện tại TAND làm cho pháp luật về
giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối thực sự là một trong những "công cụ pháp
lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước".
b. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ những vấn đề sau:
+ Phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở lý luận cơ bản về giao dịch
dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu và giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối trong
pháp luật dân sự Việt Nam.


6
+ Lược sử quá trình điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về giao dịch
dân sự vô hiệu do lừa dối qua các thời kỳ và quy định của một số nước trên
thế giới về vấn đề này, làm nổi bật sự phát triển của các quy định pháp luật
dân sự về vấn đề này.
+ Nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam quy định về giao dịch dân
sự vô hiệu do lừa dối, hậu quả pháp lý khi tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
do lừa dối.
+ Nghiên cứu thực tiễn về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối và đánh

giá về hiệu quả của những quy định pháp luật hiện hành thông qua việc áp
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước.
+ Đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật và các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tác giả tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử về giao dịch
dân sự vô hiệu do lừa dối. Vấn đề này được tiếp cận theo chiều sâu và toàn
diện trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam và đặc biệt là quy định của
BLDS 2005. Tác giả có sự so sánh với luật nước ngoài về vấn đề nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Tác giả còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, so sánh, điều tra, khảo sát …kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn làm rõ những vấn đề cơ bản của giao dịch dân sự vô hiệu do
lừa dối như khái niệm, đặc điểm giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối, thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án về giao dịch dân sự


7
vô hiệu do lừa dối theo quy định tại BLDS 2005, thông qua đó, đưa ra những
kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần hoàn thiện các quy
định pháp luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối, đặc biệt là trong
xu hướng đang sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLDS 2005. Kết quả
nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nhỏ vào việc nhận thức sâu sắc về giao
dịch dân sự vô hiệu do lừa dối.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối
và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối.
Chương 2: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo quy định của pháp
luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối





8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO
LỪA DỐI VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
VÔ HIỆU DO LỪA DỐI

1.1. Khái niệm về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự
1.1.1.1. Khái niệm về giao dịch dân sự
Theo từ điển Tiếng Việt thì giao dịch được hiểu là sự giao tiếp, tiếp xúc
giữa hai hay nhiều đối tác với nhau. Dưới góc độ xã hội học, giao dịch chính
là mối quan hệ giữa người với người, cũng là mối liên hệ phổ biến và lâu đời
nhất trong xã hội loài người. Ngay từ khi xã hội loài người có sự phân công
lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa thì giao dịch đã hình thành
và giữ vai trò điều tiết các mối quan hệ xã hội. Có một thời, giao dịch nếu
không đồng nghĩa với sự trao đổi tài sản nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày của các bên, thì giao dịch được hiểu là quan hệ trong đó ít nhất một

bên là thương nhân hoặc người giàu (người có nhiều của cải) và biện pháp
thông qua đó, thương nhân hoặc người có của tích lũy của cải cho mình [38,
tr. 5]. Trong cuộc sống hiện tại, giao dịch được xem là "công cụ" thông dụng
và có hiệu quả, bảo đảm cho các quan hệ dân sự được thực hiện trong hành
lang pháp lý an toàn nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự ngày càng phát triển.
Ngoài ra, giao dịch dân sự còn là phương tiện pháp lý quan trọng để
cho các công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất kinh
doanh cũng như sinh hoạt tiêu dùng. Do đó, vị trí, vai trò của giao dịch dân sự
ngày càng được khẳng định trong hệ thống pháp luật. Trong một xã hội phát
triển luôn luôn đặt ra nhu cầu phải hoàn thiện, phát triển chế định giao dịch.
Vì lẽ đó, mà ngay từ thế kỷ thứ XVIII, nhà triết học, xã hội học người Pháp


9
Plulur đã dự đoán: "Hợp đồng chiếm 9/10 dung lượng các bộ luật hiện hành,
và đến lúc nào đó tất cả các điều khoản của bộ luật, từ điều khoản thứ nhất
đến điều khoản cuối cùng đều quy định về hợp đồng".[42, tr.2]
Trên thế giới hiện nay, quá trình phát triển của chế định giao dịch ở
mỗi quốc gia tuy có những đặc thù riêng, nhưng cũng không nằm ngoài quỹ
đạo chung. Đó là: luôn nâng cao vị trí, vai trò của chế định giao dịch trong hệ
thống pháp luật, nhất là trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi dịch vụ và
tài sản, hàng hóa phải được tự do chuyển dịch theo ý chí của các chủ thể và
chỉ bị can thiệp trong các trường hợp mà ở đó có sự giới hạn của pháp luật
hoặc có sự tranh chấp giữa các chủ thể. Chính vì thế mà vai trò của giao dịch
nói chung và giao dịch dân sự nói riêng càng được thể hiện lớn hơn và giữ
một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, các nhà khoa học pháp lý
cũng như các nhà lập pháp tiếp cận giao dịch dưới những góc độ khác nhau
mà đưa ra các chế định khác nhau về giao dịch, về những quy định chung của
giao dịch dân sự. Ví dụ, BLDS của nước Cộng hòa Pháp không đưa ra chế

định giao dịch dân sự mà chỉ đưa ra chế định hợp đồng dân sự và chế định
thừa kế, còn đối với BLDS và thương mại Thái Lan, BLDS Nhật Bản đưa ra
chế định hành vi pháp lý bao trùm lên chế định hợp đồng và chế định thừa kế
theo di chúc. Nhìn chung, pháp luật của phần lớn các nước đều không có khái
niệm về giao dịch dân sự, mà khái niệm về giao dịch dân sự chỉ đề cập đến
dưới góc độ khoa học.[21, tr.8]
Dưới góc độ khoa học, các nhà khoa học Nhật Bản đề cập "giao dịch
dân sự là hành vi hợp pháp nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự" [1, tr. 114]. Với khái niệm này, các nhà khoa học
Nhật Bản không nêu ra loại giao dịch cụ thể nào mà nó là tất cả những hành vi tự
nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu được một


10
kết quả nhất định và các hành vi này không trái với pháp luật. Khi tham gia vào
các quan hệ dân sự sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể
và pháp luật thừa nhận các quan hệ này, đồng thời tạo điệu kiện bảo đảm cho
các quyền, nghĩa vụ đó trở thành hiện thực. Như vậy, phần lớn các quan hệ
trong cuộc sống được điều chỉnh bằng pháp luật và được coi là giao dịch pháp
luật dân sự; đối với quan hệ nhân thân, nhiều quan hệ nhân thân phi tài sản
(trừ sự kiện sinh ra và chết đi) phát sinh trên cơ sở giao dịch dân sự như kết
hôn, nhận con nuôi Đối với các quan hệ về tài sản (trừ quan hệ thừa kế theo
pháp luật) còn tất cả đều được chế định pháp luật về giao dịch dân sự điều
chỉnh [1, tr. 114].
Ở Việt Nam, chế định giao dịch dân sự được quy định trong chương 5,
Phần thứ nhất của BLDS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005. Điều
121 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý
đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Đối với giao dịch dân sự là hợp đồng, còn được quy định tại phần thứ ba –
Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự. Đối với giao dịch dân sự là hành vi pháp

lý đơn phương còn được quy định một phần trong phần hợp đồng dân sự như
hứa thưởng và thi có giải (mục 13) và một phần trong phần thứ tư (thừa kế) của
Bộ Luật.
Dưới góc độ khoa học, khái niệm giao dịch dân sự được các nhà
khoa học Việt Nam đề cập trong nhiều tài liệu với góc độ khác nhau. Theo
đó, “giao dịch dân sự là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết quả nhất
định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả trở thành hiện thực” hay “ giao
dịch dân sự là một sự kiện pháp lý, bao gồm hành vi pháp lý đơn phương
hoặc đa phương (hợp đồng) làm phát sinh hậu quả pháp lý” [2, tr. 226]. Theo
từ điển Tiếng Việt giao dịch là có quan hệ gặp gỡ, tiếp xúc nhau. Trong quan
hệ dân sự, việc gặp gỡ, tiếp xúc nhau được diễn ra để thể hiện ý chí của các


11
bên trực tiếp và công khai. Cũng có quan điểm cho rằng giao dịch dân sự là
hành vi pháp lý hợp pháp biểu hiện ý chí của một hoặc nhiều người nhằm làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Như vậy, giao dịch
dân sự dù được nhìn nhận dưới góc độ nào cũng đều bao gồm hợp đồng dân
sự và hành vi pháp lý đơn phương.
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất
nó phát sinh thường xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí
vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Hợp đồng là hình thức pháp lý thích hợp bảo đảm
cho việc vận động của hàng hóa và tiền tệ, chính vì lẽ đó mà pháp luật về hợp
đồng giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
"Pháp luật về hợp đồng được coi như hộ chiếu cho phép đi vào tất cả các lĩnh
vực. Về phương diện chính trị và pháp lý, hợp đồng là phương tiện pháp lý
cho phép các bên có thể phát triển trong xã hội, thậm chí không phụ thuộc vào
xã hội" [81, tr. 5]. Hợp đồng có thể diễn ra giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân với pháp nhân hay giữa các pháp nhân, tổ chức với nhau, các bên tự do

thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đạt mục đích nhất định về
vật chất hoặc tinh thần nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội của
Quốc gia và của thế giới, mà các chủ thể tham gia hợp đồng chịu sự điều chỉnh.
Sự tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong giao dịch dân sự thường là sự
bàn bạc, đi đến thống nhất ý chí của các bên trong việc làm phát sinh thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Việc thỏa thuận này không
bị cản trở bởi bất cứ yếu tố chủ quan và khách quan nào, trừ trường hợp trái với
pháp luật và đạo đức xã hội. Ví dụ, các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán
một chiếc xe máy, chủ sở hữu và người mua chiếc xe này có quyền tự do, bàn
bạc thỏa thuận giá cả, phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm giao
xe Trên thực tế thì sự tự do, thỏa thuận mới chỉ là điều kiện cần nhưng vẫn


12
chưa phải là điều kiện đủ. Bởi lẽ, sự thỏa thuận phải làm phát sinh, thay đổi
hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên mới đủ điều kiện hình
thành hợp đồng. Ví dụ, lời hứa của cha mẹ với con cái hoặc giữa bạn bè với
nhau không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Thậm chí trong một số trường hợp
hành vi thỏa thuận giữa các bên, có ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý
nhưng sau đó nếu các bên không mong muốn xảy ra thì hậu quả cũng không
xảy ra. Đây là yếu tố quan trọng để xác định sự khác nhau giữa hợp đồng với
các quan hệ xã hội khác. Sự thỏa thuận phải dựa trên cơ sở pháp luật cho
phép, nếu trái với các quy định của pháp luật thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ, các
bên giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật hoặc tự thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong thực tiễn cũng có loại hợp đồng không có sự bàn bạc,
thỏa thuận trước giữa các bên, một bên đơn phương ấn định các điều khoản
của hợp đồng còn bên kia có quyền chấp nhận hay không chấp nhận. Thực tế,
loại hợp đồng này thường diễn ra rất phong phú, đa dạng. Ví dụ như hợp đồng
lao động giữa nhà tuyển dụng lao động và người lao động thường do nhà
tuyển dụng lao động soạn sẵn, người lao động chỉ việc chấp nhận hay không

chấp nhận các điều khoản này trong hợp đồng, theo đó, nếu người lao động
chấp nhận các điều khoản này thì hợp đồng được giao kết, còn nếu không
chấp nhận thì không phát sinh hợp đồng. Hay như loại hợp đồng dịch vụ, các
Công ty cung cấp dịch vụ đã soạn thảo sẵn hợp đồng, trong đó có đầy đủ các
dữ kiện, như giá cả, loại dịch vụ cung cấp, thời gian địa điểm, chất lượng
còn người tiêu dùng nếu đồng ý ký vào, như vậy là hợp đồng đã được ký kết
mà không cần hai bên bàn bạc, thỏa thuận. Đối với các loại hợp đồng dân sự
theo mẫu này hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho
rằng, loại hợp đồng dịch vụ là phù hợp với thực tế, vì thông thường đối tượng
của hợp đồng là những dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của con
người, do Nhà nước quản lý, giao cho Công ty độc quyền đối với loại dịch vụ


13
này, có quyền ấn định giá cả, loại dịch vụ cung cấp, thời gian địa điểm, chất
lượng Ví dụ như: hợp đồng cung cấp điện, nước ở Việt Nam và đã được
Chính phủ xem xét và quyết định theo điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước,
có thể phải bán theo giá thấp hơn với giá trị thực của nó. Nhưng cũng có thể
bán theo giá cao hơn rất nhiều và bên sử dụng dịch vụ buộc phải chấp nhận
ký, vì đây là mặt hàng độc quyền. Có như vậy mới đảm bảo ổn định nền kinh
tế - xã hội của quốc gia và chấp nhận sự bất bình đẳng trong giao dịch. Quan
điểm này đã được sự đồng tình của phần lớn các nhà khoa học trên thế giới.
Tuy nhiên, có quan điểm khác lại cho rằng, để bảo vệ quyền lợi cho người sử
dụng dịch vụ, tránh hiện tượng gây bất bình đẳng trong giao dịch và độc
quyền, cần phải hạn chế sử dụng các loại hợp đồng này.
Một số quốc gia trên thế giới cho rằng pháp luật về hợp đồng dân sự là
bao gồm quy định mang tính nguyên tắc chung để điều chỉnh các loại hợp
đồng, còn luật thương mại được coi là luật chuyên biệt để điều chỉnh hợp
đồng thương mại. Ví dụ, ở Nhật Bản thì giao dịch dân sự có tính chất thương
mại giữa các thương gia sẽ do luật chuyên biệt điều chỉnh mặc dù về lý luận

người ta vẫn thừa nhận đó là một dạng cụ thể của giao dịch dân sự. Trong khi đó
ở Việt Nam khái niệm về hợp đồng được phân biệt rạch ròi giữa luật dân sự, luật
kinh tế, luật thương mại, nhưng ba loại hợp đồng này lại không có nguyên tắc
chung để phân loại, do đó gây khó khăn khi áp dụng [21, tr. 11-12].
Hành vi pháp lý đơn phương là hoạt động thể hiện ý chí của một bên
nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà
không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Ví dụ, một người trước khi chết lập di
chúc hợp pháp để lại cho người khác di sản của mình. Bằng hành vi lập di
chúc này, người đó đã thể hiện ý chí cá nhân của mình để định đoạt tài sản mà
họ có, không phụ thuộc vào ý chí của bên nhận di sản (trừ trường hợp người
nhận di sản từ chối nhận di sản), người nhận di sản có quyền được sở hữu tài


14
sản chuyển giao theo di chúc. Như vậy, ý chí của người để lại di chúc không
phụ thuộc vào ý chí của người khác nhưng bằng hành vi lập di chúc theo đúng
quy định của pháp luật làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật thuộc giao
dịch dân sự.
Trên thực tế, thông thường hành vi pháp lý đơn phương do một chủ thể
thực hiện, nhưng cũng có thể do nhiều chủ thể thực hiện (nhiều cá nhân hay
một tổ chức cùng hứa thưởng ). Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý đơn
phương chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự theo các điều kiện. Nếu
không đáp ứng điều kiện đó thì không thể coi đó là giao dịch dân sự được.
Trong mọi trường hợp, mọi giao dịch dân sự đều có sự thể hiện ý chí của chủ
thể: “ Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý có ý thức thể hiện ý chí của các chủ
thể quan hệ pháp luật dân sự nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ dân sự.
Khái niệm giao dịch dân sự được quy định tại Điều 121 BLDS 2005
được đề cập dưới dạng liệt kê, theo đó giao dịch dân sự có thể là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, dù là hợp đồng hay hành vi pháp lý

đơn phương cũng đều nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định, mà ở đây
là làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
1.1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý hợp pháp thể hiện ý chí của một
hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự. Do đó, giao dịch dân sự có đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất: Phải thể hiện được ý chí của của các bên tham gia giao dịch.
Giao dịch dân sự đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi chủ
thể, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ không ngừng chi phối hoạt động của họ để
đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Khi tham gia vào giao dịch, các chủ thể
đều có đạt được mục đích nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh


15
doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó các chủ thể phải thể
hiện được ý chí của mình, "sự thể hiện ý chí là hành vi có ý chí nhằm thu một
kết quả nhất định và là yếu tố bắt buộc của giao dịch pháp lý" [1, tr. 131]. Như
vậy, tuy hành vi có ý chí nhưng không làm phát sinh hậu quả pháp lý hoặc
thậm chí trong trường hợp có làm phát sinh hậu quả pháp lý nhưng các bên lại
không mong muốn xảy ra thì hậu quả cũng không xảy ra. Cho nên muốn làm
phát sinh hậu quả pháp lý, thì sự thể hiện ý chí phải được diễn ra theo hình
thức nhất định, phù hợp với quy định của pháp luật.
Quan niệm về tự do ý chí trong giao dịch được hình thành và phát triển
mạnh mẽ trong khoa học pháp lý của Pháp từ thế kỷ thứ XVIII. Lúc đầu nó
được coi là nguyên tắc độc tôn ý chí. Nguyên tắc này cho phép các chủ thể
tham gia giao dịch (chủ yếu là hợp đồng), tự do thể hiện ý chí của mình
không bị phụ thuộc hoặc cản trở bởi bất kỳ một yếu tố nào khác, kể cả pháp
luật. Quy định này xuất phát từ những lợi ích cá nhân và cho rằng nếu để các
chủ thể tham gia vào giao dịch thì sẽ bảo đảm sự công bằng và bình đẳng của
các chủ thể. Khi giao dịch đã được xác lập thì không ai có quyền thay đổi,

thậm chí cả Nhà nước cũng không có quyền can thiệp và có giá trị bắt buộc
thực hiện đối với các bên tham gia. Nếu có sự thay đổi thì chỉ có thể là do sự
thỏa thuận của chính các bên đã xác lập giao dịch đó.
Tuy nhiên, trên thực tế khi tham gia vào giao dịch các bên không ngang
bằng nhau trên mọi lĩnh vực, có bên mạnh bên yếu về kinh tế, cho nên dẫn tới
sự bất bình đẳng giữa các bên và bên yếu hơn sẽ phải phụ thuộc vào ý chí của
bên mạnh hơn. Do đó, nguyên tắc độc tôn về ý chí chỉ mang tính chất hình
thức. Chính vì lẽ đó mà giao dịch không còn ý nghĩa để các chủ thể tham gia
với mục đích thỏa mãn nhu cầu của mình nữa. Mặt khác, khi các chủ thể tham
gia vào giao dịch để thỏa mãn nhu cầu của mình nhiều khi đã bất chấp cả sự
thiệt hại của người khác cũng như lợi ích công cộng. Do vậy, sự cần thiết phải


16
có sự can thiệp của Nhà nước vào các giao dịch này, nên nguyên tắc này đã
không tồn tại được lâu. Nhà nước ban hành ra pháp luật để điều chỉnh sao cho
các chủ thể tham gia vào giao dịch không bị ép buộc và đồng thời không ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của người khác cũng như lợi ích công cộng. Do
đó, sự thể hiện ý chí của các chủ thể phải được đạt trong giới hạn của quy
định pháp luật.
Thứ hai: Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Cơ sở để hình
thành giao dịch dân sự là ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Đây là sự phản
ánh tính thống nhất ý chí của các bên, cho nên nó là một yếu tố quan trọng để
thiết lập nên giao dịch. Trong các giao dịch dân sự nếu thiếu các yếu tố này
không thể coi là giao dịch được. Bởi lẽ, trong giao dịch dân sự các chủ thể
tham gia vào giao dịch là nhằm một mục đích nhất định phục vụ cho nhu cầu
về vật chất hay tinh thần của họ. Để có được mục đích đó người tham gia giao
dịch phải có năng lực hành vi dân sự, còn đối với những người bị hạn chế
năng lực hành vi hoặc bị mất năng lực hành vi thì chỉ được tham gia một số
giao dịch nhất định hoặc phải có người đại diện, người tham gia giao dịch trên

cơ sở tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng trong nhiều
trường hợp có nhiều chủ thể cùng tham gia khó có thể đạt được điểm trùng
nhau về ý chí và mục đích. Vì thế mà các bên tham gia giao dịch phải tự dàn
xếp với nhau để tiến tới các bên đều đạt được mục đích của mình và đi tới
cam kết để cùng nhau thực hiện. Nếu sự cam kết, thỏa thuận mà không phù
hợp với ý chí của các bên thì giao dịch dân sự không có giá trị pháp lý.
Nguyên tắc này đã tồn tại ở pháp luật của tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt
Nam nguyên lý trên được ghi nhận hầu hết trong các văn bản pháp luật như:
BLDS, Luật kinh tế, Luật lao động
Mặc dù, trong giao dịch nguyên tắc cam kết, thỏa thuận phù hợp với ý
chí là một nguyên tắc bất biến, nhưng trong thực tiễn không phải hoàn toàn


17
lúc nào cũng như vậy. Vì trong nhiều lĩnh vực hoạt động nhất là lĩnh vực dịch
vụ các giao dịch được lặp đi, lặp lại giữa một chủ thể (bên cung cấp dịch vụ)
với nhiều chủ thể khác (bên nhận dịch vụ) với đối tượng phục vụ như nhau,
bên cung cấp dịch vụ thảo sẵn hợp đồng (gọi là hợp đồng theo mẫu) trong đó
quy định sẵn các điều khoản, còn bên nhận dịch vụ chỉ có quyền tự do chấp
nhận hợp đồng đó hay không, mà không có sự thỏa thuận để bày tỏ ý chí của
mình trong hợp đồng. Khi đã chấp nhận ký kết vào hợp đồng thì đương nhiên
buộc họ phải tuân theo toàn bộ các điều khoản trong hợp đồng. Ví dụ, như
hợp đồng tín dụng; hợp đồng vận chuyển hành khách; hợp đồng cung cấp
thông tin, điện, nước; các dịch vụ cung cấp hàng tiêu dùng
Như vậy, xét về mặt khách quan thì ý chí chung của giao dịch được thể
hiện, vì cả bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ đều mong muốn tham
gia vào quan hệ giao dịch, ở đây không có sự cưỡng ép, họ đều hoàn toàn tự
nguyện. Tuy nhiên, thực tế nhiều khi bên nhận dịch vụ gia nhập vào giao dịch
này là hoàn toàn miễn cưỡng vì không còn sự lựa chọn nào khác buộc phải
chấp nhận, không hề biết các điều khoản quy định sẵn đó bất lợi cho họ phải

gánh chịu những tổn thất từ các điều khoản này. Để khắc phục vấn đề này có
nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng, cần công nhận loại giao
dịch này nhưng tạo điều kiện bên nhận dịch vụ bác bỏ các điều khoản không
phù hợp đối với họ. Có quan điểm lại cho rằng, cần phải công nhận toàn bộ
các điều khoản như hiện nay và chỉ không công nhận trong trường hợp người
tham gia vào giao dịch không được cung cấp thông tin đầy đủ hoặc thông tin
sai sự thật, thông tin vượt quá tầm hiểu biết chung. Quan điểm này vẫn được
phần lớn các nhà khoa học đồng tình, vì cho rằng khi ký họ đã thể hiện ý chí
của mình [40, tr. 55-57].
Thứ ba: Giao dịch dân sự luôn làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao dịch. Không phải bất cứ sự thỏa thuận hay


18
hành vi pháp lý đơn phương nào cũng được coi là giao dịch dân sự. Nó chỉ được
coi là giao dịch dân sự khi hành vi đó làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự của các chủ thể theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư: Nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong giao dịch dân sự, khi tham gia
giao dịch các chủ thể đều phải nhằm đạt được một mục đích nhất định và
mong muốn mục đích của mình trở thành hiện thực. Vì vậy, để đạt được mục
đích đó các chủ thể có quyền tự do đặt ra những yêu cầu, cam kết phù hợp với
ý chí của mình. Tuy nhiên, các cam kết đó không được trái với pháp luật và
đạo đức xã hội. Bởi lẽ, pháp luật của các nước, ngoài việc tạo điều kiện để
cho các giao kết trở thành hiện thực, còn phải đặt ra những quy phạm pháp
luật bảo vệ lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi ích của chính các chủ thể
tham gia giao dịch.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1.1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Trong khoa học pháp lý thuật ngữ “ giao dịch dân sự vô hiệu” được sử

dụng rất rộng rãi, tuy nhiên chưa có một tài liệu chính thống nào định nghĩa
cụ thể về thuật ngữ này. Ở Việt Nam để xác định giao dịch vô hiệu phải căn
cứ vào quy định tại Điều 122 BLDS 2005 và Điều 127 BLDS (giao dịch dân
sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của BLDS là
vô hiệu). Các điều kiện theo quy định tại Điều 122 là: người tham gia giao
dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao
dịch hoàn toàn tự nguyện; hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
Giao dịch dân sự vô hiệu không phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên
mong muốn. Đây là nguyên lý chung mà pháp luật các nước đều ghi nhận.


19
Trên thế giới hiện nay, phần lớn các nhà nhà lập pháp không đưa ra các khái
niệm chung về giao dịch vô hiệu mà chủ yếu đi sâu quy định các tiêu chí để
xác định một giao dịch vô hiệu. Ví dụ, tại Điều 113 BLDS và thương mại
Thái Lan quy định một hành vi pháp lý bị vô hiệu nếu mục tiêu của nó rõ ràng
bị pháp luật ngăn cấm hoặc không thể thực hiện được, hoặc trái với trật tự
công cộng hoặc trái với đạo đức.
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, mặc dù thuật ngữ giao dịch dân sự
vô hiệu được sử dụng rộng rãi, nhưng chưa thấy tài liệu nào nêu ra khái niệm
khoa học cụ thể. Để tìm đến một khái niệm hoàn chỉnh về giao dịch dân sự vô
hiệu, trước hết cần làm rõ vấn đề vô hiệu nói chung.
Vô hiệu theo nghĩa thông thường là "không có hiệu lực, không có hiệu
quả" [36, tr. 1083]. Như vậy, có thể suy ra là giao dịch dân sự vô hiệu là giao
dịch không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý. Mặc
dù một giao dịch dân sự nào đó được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện,
đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong các quyền, nghĩa vụ như cam kết ,
nhưng khi xác định đó là giao dịch dân sự vô hiệu thì mọi cam kết (đang, đã thực

hiện ) đều không phải là các quyền, nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ và bảo vệ.
Thông thường các nước trên thế giới đều căn cứ vào các điều khoản chủ yếu,
mang tính chất quyết định của giao dịch để xác định một giao dịch dân sự vô
hiệu. Các điều khoản chủ yếu này dựa vào đặc điểm, tính chất của giao dịch,
đồng thời phải căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong từng
giai đoạn.
Khi xem xét giao dịch dân sự vô hiệu, thông thường, các nhà khoa học
căn cứ vào tính trái pháp luật dẫn đến giao dịch vô hiệu để phân ra thành giao
dịch vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối. Giao dịch dân sự
vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự không có hiệu lực ngay từ khi giao kết,
không có giá trị về mặt pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa

×