VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ LƯƠNG
ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số
: 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn là kết quả quá trình tìm tòi
nghiên cứu!
Người cam đoan
TRẦN THỊ LƯƠNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ...........................................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ...................7
1.2. Vai trò của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .........................................11
1.3. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.............13
Chương 2: THỰC TIỄN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................19
2.1. Thực trạng pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .....................19
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự tại
thành phố Hà Nội .................................................................................................33
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ ĐẤU
GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
.............................................................................51
3.1. Quan điểm đảm bảo hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân sự từ thực
tiễn thành phố Hà Nội
.............................................................................51
3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội .........................................................................................54
KẾT LUẬN ........................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................66
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu giá tài sản là một phương thức phổ biến được áp dụng ở nhiều
nước trên thế giới. Mục đích của đấu giá tài sản là bán tài sản một cách công
khai để thu được giá trị bán tài sản cao nhất cho người có quyền sở hữu, sử
dụng tài sản. Ở Việt Nam, đấu giá tài sản lần đầu tiên quy định trong Pháp
lệnh THADS năm 1989 (bán đấu giá tài sản kê biên để thi hành án) và ngày
càng được hoàn thiện với những dấu mốc lập pháp quan trọng như Nghị định
số 86/1996/NĐ-CP ngày 19/12/1996 về việc ban hành quy chế bán đấu giá tài
sản; Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu
giá tài sản; Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Luật Đấu
giá tài sản năm 2016. Vì vậy, có thể nói rằng quá trình hoàn thiện pháp luật về
đấu giá tài sản đã tạo cơ sở cho hoạt động bán đấu giá tài sản ngày càng đi
vào nề nếp, chuyên nghiệp hơn và giảm thiểu tiêu cực phát sinh, nhất là đấu
giá tài sản trong thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là THADS).
Trong THADS, đấu giá tài sản là việc tổ chức bán tài sản bị áp dụng
biện pháp cưỡng chế kê biên để đảm bảo thi hành án, khôi phục quyền và lợi
ích hợp pháp cho người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền; góp phần nâng cao hiệu quả THADS và giảm lượng án tồn đọng
phải thi hành. Trong năm công tác 2017 (từ 01/10/2016 đến 30/9/2017), tổng
số việc bán đấu giá thành tài sản để THADS trong toàn quốc là 2.145 việc,
tương ứng với số tiền là 3.350.176.350.000 đồng, chiếm tỷ lệ 61,9% về việc
và 51,74% về tiền [3]. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt
động bán đấu giá tài sản để THADS cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất
định. Chất lượng nhiều phiên đấu giá nhìn chung còn chưa có hiệu quả; còn
tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá; giá trị tài sản
1
bán vượt mức giá khởi điểm chưa cao; chưa có tiêu chí lựa chọn tổ chức bán
đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá; còn nhiều vụ việc đã kê biên, định
giá lại và đấu giá nhiều lần nhưng không bán được tài sản; việc bàn giao tài
sản cho người mua được tài sản bán đấu giá còn gặp nhiều khó khăn, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của người mua được tài sản ngay tình...(trong
năm 2017, tổng số vụ việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhưng không
thành là 7.535 việc, tương ứng với số tiền là 10.898 tỷ 734 triệu 293 nghìn
đồng, chiếm 1,09% số việc và 11,8% số tiền có điều kiện thi hành của toàn
quốc, trong đó số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 5.225 việc, tương ứng
với số tiền là 11.572 tỷ 942 triệu 820 nghìn đồng)[3].
Nguyên nhân của thực trạng trên là một số quy định pháp luật về đấu
giá tài sản để thi hành án còn vướng mắc, bất cập; các quy định về bán đấu
giá tài sản chưa có sự tách bạch rõ ràng giữa hoạt động bán đấu giá với các
hoạt động thi hành án khác, dẫn tới tình trạng các tổ chức bán đấu giá tài sản
can thiệp sâu vào hoạt động THADS, thao túng, vi phạm pháp luật trong hoạt
động bán đấu giá tài sản để thi hành án; một số tổ chức bán đấu giá hoạt động
không chuyên nghiệp...
Thực trạng và nguyên nhân nêu trên đòi hỏi phải có những phương
hướng, giải pháp để khắc phục tồn tại, khó khăn và nâng cao hiệu quả đấu giá
tài sản để THADS. Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn thành phố Hà Nội là một
trong những địa bàn có số lượng việc THADS cũng như bán đấu giá tài sản để
thi hành án lớn nhất trong cả nước, tác giả chọn đề tài “Đấu giá tài sản để
THADS theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” nhằm
nhận diện, đánh giá thực trạng hoạt động đấu giá tài sản để THADS và đưa ra
các kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trên địa bàn thành
phố Hà Nội cũng như trên phạm vi toàn quốc.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đấu giá tài sản nói chung, đấu giá để THADS nói riêng
đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn như: "Những vướng
mắc cần tháo gỡ trong công tác bán đấu giá tài sản" của tác giả Phạm Văn
Chung đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10 năm 2006; “So sánh
đấu giá hàng hóa trong Luật Thương mại với đấu giá tài sản trong Luật Dân
sự" của tác giả Nguyễn Mạnh Cường đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 7 năm 2008; “Pháp luật về đấu giá tài sản trong thương mại ở Việt
Nam" của tác giả Nguyễn Mạnh Cường, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện
Khoa học xã hội, 2012; “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh" của tác giả Phạm Văn Sỹ, Luận văn
Thạc sĩ quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2006; "Bán đấu giá
tài sản - thực trạng và hướng hoàn thiện" của tác giả Đỗ Khắc Trung đăng
trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2007; “Bán đấu giá tài sản theo
pháp luật Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hoa, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
luật- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010; “Những khó khăn vướng mắc trong
công tác kiểm soát việc bán đấu giá tài sản thi hành án” của tác giả Nguyễn
Hồng Sinh đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 23, tháng 12/2011; “Một số vướng
mắc về bán đấu giá tài sản để thi hành án” của Đinh Duy Bằng đăng trên Tạp
chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 02/2012; “Một số bất cập trong
việc định giá, định giá lại tài sản kê biên" của tác giả Vũ Hòa đăng trên Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 12/2012; “Bán đấu giá tài sản
trong THADS vẫn còn là điểm nghẽn” của tác giả Nguyễn Quang Thái & Đào
Thị Thúy Lan đăng trên ; “Nâng cao hiệu quả bán
đấu giá tài sản trong THADS” của tác giả Bùi Thị Thu Hiền đăng trên Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề tháng 7/2015 về THADS.
3
Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí đề cập đến
đấu giá tài sản để THADS ở các góc độ khác nhau…Nhìn chung, các công
trình được công bố đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về đấu giá
tài sản nói chung, đấu giá tài sản để THADS nói riêng nhưng ít có công trình
nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến đấu giá tài sản để THADS từ thực tiễn
một địa bàn cụ thể là thành phố Hà Nội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này
nhằm phân tích, đánh giá tương đối toàn diện về đấu giá tài sản để THADS ở
thành phố Hà Nội và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trên
địa bàn thành phố Hà Nội và phạm vi toàn quốc nói chung có ý nghĩa cấp
thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về đấu giá tài sản để THADS ở góc độ thể chế và thực tiễn ở thành phố Hà
Nội, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật; bảo đảm thực hiện
pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS nói chung và ở thành
phố Hà Nội nói riêng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một một số vấn đề lý luận về đấu giá tài sản để THADS
như: xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm, vai trò, và các yếu tố ảnh hưởng
đến đấu giá tài sản để THADS.
- Đánh giá thực trạng đấu giá tài sản để THADS ở thành phố Hà Nội
(trong đó chú trọng những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân).
- Xác định mục tiêu, quan điểm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS đáp ứng yêu cầu công tác
4
THADS nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng hoạt động đấu giá tài
sản trong THADS ở thành phố Hà Nội để từ đó luận giải các giải pháp hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động THADS nói chung, đấu giá tài sản để THADS nói riêng có
thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu đấu giá tài sản để THADS ở
thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nước pháp quyền; cải cách tư pháp và cải cách nền hành chính
nhà nước ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác
- Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện và kết hợp sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như: phân tích, lịch sử, tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết
thực tiễn. Cụ thể là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu tại chương 1
để phân tích cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu, qua đó khái quát hóa
5
thành những quan điểm làm cơ sở cho việc nghiên cứu các nội dung khác
trong luận văn.
- Phương pháp phân tích, so sánh được áp dụng nhằm làm rõ những nội
dung của chương 2. Đây là chương đánh giá thực trạng đấu giá tài sản để
THADS ở thành phố Hà Nội, qua đó nhận diện những ưu điểm, hạn chế và đề
xuất các giải pháp ở chương 3.
- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu ở chương
3 nhằm làm rõ những yêu cầu, giải pháp về đấu giá tài sản để THADS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về
cơ sở lý luận, thực tiễn thực hiện pháp luật về đấu giá tài sản để THADS.
Luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực
trạng đấu giá tài sản để THADS ở thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật; nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS
nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng. Vì vậy luận văn có thể là tài liệu
tham khảo cho học viên, sinh viên tại các cơ sở đào tạo pháp luật và cá nhân,
tổ chức quan tâm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu giá tài sản để THADS.
Chương 2: Thực trạng đấu giá tài sản để THADS tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để
THADS từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
Đấu giá tài sản là một trong những cách thức bán tài sản, chuyển quyền
sở hữu, quyền sử dụng tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác nhằm góp
phần thúc đẩy hoạt động kinh tế trong đời sống xã hội. Đấu giá tài sản có thể
được nghiên cứu, tiếp cận theo các góc độ khác nhau. Có quan điểm cho rằng
"Đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản, theo
đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng
không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản" [25, tr.31]. Quan
điểm khác cho rằng “Đấu giá là quá trình mua và bán tài sản hoặc dịch vụ
bằng cách đưa món hàng cần đấu giá, ra giá và sau đó bán món hàng cho
người trả giá cao nhất” [Bách khoa toàn thư mở Wikipedia]. Cũng có quan
điểm cho rằng “Đấu giá là hình thức bán những tài sản hoặc tài sản thường
thuộc loại đắt tiền, hàng quý hiếm. Người bán đặt mức giá chuẩn, những
người mua trả giá từ thấp đến cao, tài sản được bán cho người mua trả cao
nhất” [13, tr.136]. Đấu giá tài sản còn được hiểu là hình thức bán tài sản có từ
hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được
quy định tại Luật này, trừ trường hợp đấu giá trong trường hợp chỉ có một
người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham gia đấu giá, một người trả
giá, một người chấp nhận giá [19]...
Như vậy, tuy có thể có nhiều quan điểm khác nhau về đấu giá tài sản,
nhưng về bản chất đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo
7
nguyên tắc và trình tự, thủ tục nhất định; có hai chủ thể trở lên tham gia đấu
giá và người mua được tài sản là người trả giá cao nhất.
Với bản chất đấu giá tài sản như trên, có thể thấy rằng tài sản đưa ra
đấu giá rất đa dạng, song có thể chia thành hai loại: tài sản thuộc quyền sở
hữu, quyền sử dụng của cá nhân (ví dụ quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng
đất) được người có tài sản tự nguyện đưa ra đấu giá và tài sản đưa ra bán đấu
giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ví dụ đấu giá tài
sản là tang vật vi phạm hành chính, đấu giá tài sản bị kê biên để đảm bảo thi
hành án...).
Trong hoạt động THADS- hoạt động thi hành các bản án, quyết định về
dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh [18, Điều 1] khi người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án nhưng không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên cơ quan THADS
sẽ xác minh, kê biên tài sản của người phải thi hành án (kể cả tài sản của
người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ) để đảm bảo thi hành án. Sau
khi kê biên tài sản, nếu người phải thi hành án và người được thi hành án
không thỏa thuận được về việc nhận tài sản kê biên để thi hành án thì Chấp
hành viên căn cứ vào quy định của pháp luật về loại tài sản, giá trị tài sản để
thực hiện trình tự, thủ tục thẩm định giá, bán đấu giá tài sản kê biên hoặc tự tổ
chức bán đấu giá tài sản để đảm bảo thi hành án. Bởi vậy, tài sản đưa ra đấu
giá để THADS phải là tài sản của người phải thi hành án bị hạn chế quyền sở
hữu, quyền sử dụng bởi quyết định cưỡng chế kê biên tài sản của Chấp hành
viên cơ quan THADS; trên cơ sở kết quả kê biên tài sản, Chấp hành viên đề
nghị tổ chức đấu giá tài sản thực hiện việc bán đấu giá tài sản kê biên hoặc tự
bán đấu giá tài sản theo quy định pháp luật. Từ đó, có thể khái niệm: Đấu giá
tài sản để THADS là bán công khai tài sản của người phải thi hành án đã bị
kê biên theo trình tự, thủ tục pháp luật về đấu giá tài sản.
8
1.1.2. Đặc điểm của đấu giá tài sản để THADS
Mục đích của đấu giá tài sản để THADS là thu hồi tiền thi hành án với
giá trị cao nhất có thể, vì vậy, đấu giá tài sản để THADS có những đặc điểm
chung của đấu giá tài sản, đó là: việc bán đấu giá tài sản công khai; có từ hai
chủ thể trở lên tham gia đấu giá và người mua tài sản là người trả giá cao
nhất. Ngoài ra, đấu giá tài sản để THADS có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, tài sản đưa ra đấu giá để THADS là tài sản đã bị kê biên theo
quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên cơ quan THADS.
Hoạt động THADS nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật và khi đương sự không tự nguyện thi hành án
thì cơ quan THADS sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế pháp luật quy định
để đảm bảo thi hành án, trong đó có biện pháp "Kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ" [18, Điều
71]. Vì vậy, điểm khác biệt quan trọng của đấu giá tài sản để THADS so với
đấu giá tài sản thông thường là tài sản đưa ra đấu giá là tài sản đã bị kê biên.
Điều này có nghĩa là người phải thi hành án mặc dù có quyền sở hữu, sử dụng
tài sản nhưng bị hạn chế quyền quyết định việc đưa tài sản ra bán đấu giá;
quyền đưa tài sản đã kê biên ra đấu giá thuộc về Chấp hành viên, trừ trường
hợp trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, người phải thi hành án
nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh
từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá để nhận lại tài sản [Luật
THADS, Điều 101]. Thực tế cho thấy rằng việc đấu giá tài sản kê biên để thi
hành nghĩa vụ về tiền thường gắn với các tài sản đảm bảo có giá trị lớn, có
tính đặc thù (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, tàu biển, nhà ở, quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu trí tuệ, cổ phần....) nên việc xử lý tài sản thông qua đấu giá
thường gặp nhiều khó khăn, kéo dài do không có người mua tài sản, do người
phải thi hành án trì hoãn, cản trở việc giao tài sản cho người trúng đấu giá.
9
Hai là, đấu giá tài sản để THADS được thực hiện theo phương thức trả
giá lên.
Theo quy định của pháp luật đấu giá tài sản hiện hành ở nước ta, đấu
giá tài sản có thể thực hiện theo hai phương thức: Phương thức đặt giá
xuống (theo đó đấu giá viên đặt giá từ cao xuống thấp cho đến khi xác định
được người chấp nhận mức giá do đấu giá viên đưa ra) và phương thức trả
giá lên (theo đó người tham gia đấu giá trả giá từ thấp lên cao cho đến khi xác
định được người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm). Tuy nhiên, do tài sản
kê biên để thi hành án được bán đấu giá trên cơ sở "giá khởi điểm" (do tổ
chức thẩm định giá đưa ra) nên việc đấu giá tài sản để THADS được thực
hiện một cách công khai, trực tiếp bằng lời nói theo phương thức trả giá lên.
Việc đấu giá tài sản để THADS theo phương thức này sẽ đảm bảo sự an toàn,
tránh được những khiếu nại, tố cáo phát sinh và đảm bảo tốt hơn các quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và tổ chức, cá nhân liên quan.
Ba là, có sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự phối
hợp của nhiều chủ thể trong đấu giá tài sản để THADS.
Đấu giá tài sản để THADS được thực hiện trên cơ sở kết quả kê biên tài
sản của cơ quan THADS, vì vậy khác với bán đấu giá thông thường đó là
người có tài sản có thể tự mình tổ chức bán đấu giá, nhưng cũng có thể bán
thông qua tổ chức trung gian làm dịch vụ bán đấu giá thì đấu giá tài sản để
THADS được thực hiện theo trình tự, thủ tục phức tạp hơn. Đối với đấu giá
tài sản để THADS, ngoài bên có tài sản bán đấu giá (người phải thi hành án)
và tổ chức làm dịch vụ đấu giá, thì cơ quan THADS và Chấp hành viên là
người có vai trò quan trọng. Sự tham gia của cơ quan THADS và Chấp hành
viên thể hiện ở việc quyết định lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản, ở việc ký
hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản...và trong một số trường hợp, Chấp hành
viên còn có thẩm quyền trực tiếp bán đấu giá tài sản để thi hành án nếu tại
10
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu
giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu
giá tài sản hoặc đối với tài sản là động sản có giá trị nhỏ. Bên cạnh đó, đấu giá
tài sản để THADS phải có sự tham gia, phối hợp của nhiều chủ thể để thực
hiện các trình tự, thủ tục pháp luật quy định (ví dụ như: phối hợp trong định
giá tài sản, thỏa thuận về lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản của các đương sự,
ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản giữa Chấp hành viên và tổ chức đấu
giá tài sản, phối hợp trong giao tài sản cho người mua được tài sản đấu
giá…Sự phối hợp này còn là cơ sở để kiểm tra, giám sát và đảm bảo cho việc
đấu giá tài sản được khách quan, minh bạch, đúng pháp luật.
1.2. Vai trò của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
Từ thực tiễn THADS nói chung, đấu giá tài sản để THADS nói riêng có
thể khái quát một số vai trò của đấu giá tài sản để THADS như sau:
Thứ nhất, đấu giá tài sản trong THADS đảm bảo hiệu quả thi hành các
bản án, pháp luật có hiệu lực pháp luật.
Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là kết quả xét xử, giải quyết
tranh chấp trong đời sống xã hội, vì vậy đòi hỏi đương sự và cơ quan, tổ chức,
cá nhân phải tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành theo đúng quy định tại Điều
106 Hiến pháp năm 2013. Thực tế cho thấy rằng, trong các bản án, quyết định
về dân sự được đưa ra thi hành theo trình tự, thủ tục THADS thì nghĩa vụ thi
hành án về tiền chiếm tỷ lệ rất lớn (trả tiền, bồi thường thiệt hại về tiền, tiền
phạt...), vì vậy oạt động kê biên tài sản để thi hành án; trách nhiệm của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản đưa ra đấu giá, yêu cầu xem xét
hủy kết quả đấu giá; trách nhiệm của cơ quan Công an trong việc bảo đảm
cho cuộc đấu giá được công khai, minh bạch hay khi bảo vệ cưỡng chế giao
tài sản cho người mua trúng đấu giá...
Đặc biệt là, để đảm bảo sự phối hợp trong THADS và đấu giá tài sản,
cần phải phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp. Bởi vì,
thực tế cho thấy rằng tài sản kê biên để đưa ra đấu giá thường là tài sản có giá
trị lớn, liên quan đến các việc thi hành án phức tạp, do đó hiệu quả đấu giá tài
sản phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp, ủng hộ của các cơ quan, tổ chức liên
58
quan tại địa phương, nhất là khi phải hoàn tất các thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản và giao tài sản cho người mua được tài
sản đấu giá. Việc tăng cường vai trò của Ban chỉ đạo THADS các cấp sẽ đảm
bảo sự chỉ đạo, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức liên quan nhằm
đẩy nhanh tiến độ giải quyết việc thi hành án cũng như đấu giá tài sản để thi
hành án. Từ đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS thì
các cơ quan, tổ chức là thành viên Ban Chỉ đạo THADS cần nâng cao trách
nhiệm của mình đối với hoạt động của Ban chỉ đạo, tránh tình trạng hoạt động
hình thức, hoạt động theo kiểu định kỳ trong các dịp sơ kết, tổng kết THADS
tại địa phương. Về phía cơ quan THADS cần làm tốt công tác tham mưu cho
Ban chỉ đạo THADS các biện pháp, kế hoạch thi hành các vụ việc khó khăn,
phức tạp và có giá trị lớn.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi
hành án dân sự và đấu giá tài sản
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về
THADS và đấu giá tài sản nói riêng có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hiệu
quả THADS. Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được thể hiện
qua kỹ năng vận động, thuyết phục của Chấp hành viên, Đấu giá viên để qua
đó không chỉ đương sự và những cá nhân, tổ chức liên quan nhận thức đúng
về trách nhiệm, nghĩa vụ thi hành án, tự nguyện thi hành án, giảm thiểu sự
chống đối, cản trở việc kê biên, đấu giá tài sản mà còn tạo sự ủng hộ của cộng
đồng đối với công tác thi hành án.
Để đảm bảo hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi
hành án dân sự và đấu giá tài sản, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cần đa
dạng hóa về hình thức và phong phú về nội dung trong công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, nhất là thông qua các kênh thông tin có tính phổ quát, qua
các hoạt động THADS cũng như các cuộc đấu giá tài sản để nâng cao nhận
59
thức pháp luật cho nhân dân, qua đó góp phần đảm bảo chấp hành nghiêm
chỉnh các quy định pháp luật về THADS và đấu giá tài sản. Ngoài ra, trong
từng tác nghiệp, trình tự, thủ tục THADS cũng như đấu giá tài sản để thi hành
án, đòi hỏi Chấp hành viên và Đấu giá viên phải chủ động, linh hoạt trong
việc lựa chọn, giải thích các quy định pháp luật được áp dụng để không chỉ
đương sự nhận thức đúng mà trong nhiều trường hợp các cá nhân, tổ chức liên
quan cũng nhận thức rõ trách nhiệm phối hợp để giải quyết những vướng mắc
phát sinh (ví dụ như: tạo điều kiện cho người phải thi hành án có chỗ ở khi
phải giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá). Từ đó, để làm tốt tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS và đấu giá tài sản, đòi hỏi
Chấp hành viên và Đấu giá viên phải nghiên cứu, đánh giá cụ thể từng trường
hợp tài sản đưa ra đấu giá, điều kiện thi hành án, khả năng chống đối của
đương sự....để có sự phối hợp đúng với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên
quan (như Mặt trận Tổ quốc, HĐND, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội) để vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện, phối hợp trong công
tác THADS.
3.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên,
Đấu giá viên và công chức, nhân viên của các cơ quan thi hành án dân sự
và tổ chức đấu giá tài sản
Thực tế công tác THADS cho thấy rằng trong điều kiện phát triển và
hội nhập kinh tế hiện nay bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng làm phát
sinh nhiều vi phạm pháp luật, tranh chấp phải được giải quyết bởi các cơ quan
có thẩm quyền. Vì vậy, hiệu quả công tác THADS nói chung, đấu giá tài sản
để THADS nói riêng phụ thuộc nhiều vào trình độ, năng lực của chủ thể trực
tiếp thực hiện các nhiệm vụ về thi hành án và đấu giá tài sản. Do đó, để đảm
bảo hiệu quả THADS nói chung, đấu giá tài sản để thi hành án nói riêng đòi
hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Chấp hành
60
viên, Đấu giá viên trong các cơ quan THADS và các tổ chức đấu giá tài sản.
Từ đó, để nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Chấp hành viên, công chức
trong các cơ quan THADS và Đấu giá viên, nhân viên của các tổ chức đấu giá
tài sản đòi hỏi đội ngũa Chấp hành viên, Đấu giá viên trong thời gian tới cần
phải được chuẩn hóa với những điều kiện, tiêu chuẩn cao hơn và tăng cường
mở các lớp đào tạo nghiệp vụ để trang bị kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho
Chấp hành viên và Đấu giá viên phù hợp với yêu cầu của công tác THADS và
đấu giá tài sản trong tình hình mới (ví dụ cần thiết kế chương trình đào tạo,
bồi dưỡng chung cho cả Chấp hành viên và Đấu giá viên liên quan đến kê
biên, đấu giá tài sản để thi hành án).
3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
thi hành án dân sự và đấu giá tài sản
Thực tiễn công tác THADS cho thấy rằng khiếu nại, tố cáo thường phát
sinh khi cơ quan THADS áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS, nhất là khi
cưỡng chế tài sản và đấu giá tài sản để thi hành án. Bởi vì, khi áp dụng biện
pháp kê biên tài sản để đưa ra đấu giá thì các đương sự, đặc biệt là người phải
thi hành án thấy rõ được nguy cơ mất tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của
mình và có tâm lý cản trở, trì hoãn, chống đối để bảo vệ tài sản của mình
thông qua việc khiếu nại, tố cáo. Do đó, nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu
nại, tố cáo về THADS nói chung, về đấu giá tài sản nói riêng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với việc bảo đảm hiệu quả kê biên, đấu giá tài sản để thi
hành án và giảm thiểu việc lợi dụng các quy định pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo để trốn tránh thi hành án, kéo dài thời gian đấu giá tài sản và
giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá. Để nâng cao hiệu quả công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án và đấu giá tài sản, các cơ quan
có thẩm quyền, đặc biệt là Tổng cục THADS, Cục Bổ trợ Tư pháp, Thanh tra
Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, Cục THADS thành phố Hà Nội
61
và các Chi cục THADS, cần quan tâm bố trí công chức có đủ năng lực, trình
độ, năng lực và phẩm chất đảm nhiệm chức năng tiếp dân và tham mưu giải
quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo liên quan phát sinh.
3.2.6. Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện đảm bảo hiệu
quả cưỡng chế thi hành án dân sự
Hiệu quả cưỡng chế THADS nói chung, cưỡng chế kê biên tài sản để
thi hành án nói riêng có vai trò quyết định đến hiệu quả đấu giá tài sản để thi
hành án. Từ đó, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế THADS, tăng cường sự tích
cực áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS thì phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời
kinh phí hoạt động cho cơ quan THADS, tăng cường cơ sở vật chất, phương
tiện hoạt động, đặc biệt là xây dựng trụ sở, hệ thống kho tang vật, tài sản của
các cơ quan THADS, nhất là trong điều kiện kinh phí, cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc của cơ quan THADS ở thành phố Hà Nội hiện nay còn rất hạn
chế, dẫn đến Chấp hành viên rất dễ bị dao động, dè dặt trong việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản hoặc có sai sót trong thực hiện việc
cưỡng chế kê biên tài sản. Đây cũng là giải pháp phù hợp với yêu cầu cải cách
tư pháp trong THADS được xác định trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
theo đó xác định "từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư
pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi". Vì vậy, trong thời gian tới, các
cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm bố trí tăng mức tạm ứng chi phí cưỡng
chế THADS và kịp thời bổ sung tạm ứng chi phí cưỡng chế THADS đã được
quyết toán khoản do Ngân sách Nhà nước chịu. Đồng thời, trang bị đầy đủ
công cụ hỗ trợ để cấp cho Chấp hành viên sử dụng theo quy định của pháp
luật (như dùi cui điện, dùi cui cao su, găng tay điện; phương tiện xịt hơi cay,
chất gây mê; các loại súng dùng để bắn đạn nhựa, đạn cao su, hơi cay, chất
gây mê và các loại đạn sử dụng cho các loại súng này) để góp phần bảo vệ an
62
toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của Chấp hành viên và những người khác
tham gia cưỡng chế THADS cũng như phối hợp trong việc cưỡng chế giao tài
sản cho người mua trung đấu giá.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng đấu giá tài sản để THADS từ thực tiễn
thành phố Hà Nội cho thấy rằng để bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để
THADS nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng, các cơ quan có thẩm
quyền, cơ quan THADS và tổ chức đấu giá tài sản cần bám sát các quan điểm
cơ bản là: đấu giá tài sản để thi hành án dân sự phải đáp ứng yêu cầu về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam; đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và đấu giá tài sản để thi hành
án dân sự phải đảm bảo sự tham gia, phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan.
Một số giải pháp bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân
sự trên địa bàn thành phố Hà Nội là: tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án
dân sự và pháp luật về đấu giá tài sản; tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan
thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong đấu giá
tài sản để thi hành án dân sự; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về thi hành án dân sự và đấu giá tài sản; nâng cao trình độ, năng lực của
đội ngũ Chấp hành viên, Đấu giá viên và công chức, nhân viên của các cơ
quan thi hành án dân sự và tổ chức đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS và đấu giá tài sản và bảo đảm kinh
phí, cơ sở vật chất, phương tiện đảm bảo hiệu quả cưỡng chế THADS
63
KẾT LUẬN
Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận về đấu giá tài sản để
THADS và đánh giá thực trạng công tác này từ thực tiễn thành phố Hà Nội,
luận văn rút ra một số kết luận sau đây:
1. Đấu giá tài sản để THADS là bán công khai tài sản của người phải
thi hành án đã bị kê biên theo trình tự, thủ tục pháp luật về đấu giá tài sản.
Đấu giá tài sản để THADS có một số đặc điểm cơ bản là: tài sản đưa ra đấu
giá để THADS là tài sản đã bị kê biên theo quyết định cưỡng chế của Chấp
hành viên cơ quan THADS; việc đấu giá tài sản để THADS được thực hiện
theo phương thức trả giá lên và quá trình đấu giá có sự tham gia của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và sự phối hợp của nhiều chủ thể.
2. Theo quy định pháp luật hiện hành, đấu giá tài sản để THADS do
Chấp hành viên và tổ chức đấu giá tài sản thực hiện. Việc bán đấu giá tài sản
để THADS do tổ chức đấu giá thực hiện được thực hiện theo các bước cơ bản
là: Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài
sản -> Tổ chức đấu giá tài sản thực hiện việc niêm yết, thông báo công khai
về việc đấu giá tài sản -> Tổ chức cho người tham gia đấu giá xem tài sản,
đăng ký tham gia đấu giá, nộp tiền đặt trước -> Tổ chức cuộc đấu giá -> Ký
hợp đồng mua bán tài sản đấu giá -> Giao tài sản đấu giá.
3. Trong những năm qua, với sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật,
hoạt động đấu giá tài sản để THADS nói chung, đấu giá tài sản để THADS
trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng đã dần đi vào nề nếp, cơ bản đảm bảo
đúng trình tự, thủ tục luật định; góp phần rút ngắn thời gian tổ chức thi hành
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đảm bảo được quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Kết quả đấu giá
tài sản để THADS đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao kết quả THADS
64
của các cơ quan THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Công tác đấu giá tài sản để THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội
cũng còn những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc cả về thể chế và
thực tiễn. Cụ thể như: các quy định pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án
còn có sự chồng chéo, không đồng bộ với các quy định pháp luật có liên
quan; pháp luật chưa xác định rõ vị trí, vai trò của hoạt động bán đấu giá
trong quá trình tổ chức thi hành án; còn nhiều việc đấu giá không thành, định
giá lại và qua nhiều lần giảm giá vẫn chưa bán được tài sản; việc giao tài sản
đấu giá thành trong nhiều vụ việc còn kéo dài; ý thức chấp hành pháp luật về
thi hành án và đấu giá tài sản của người phải thi hành án và một số cá nhân, tổ
chức còn hạn chế.
5. Để bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để THADS nói chung, ở thành
phố Hà Nội nói riêng, các cơ quan có thẩm quyền, cơ quan THADS và tổ
chức đấu giá tài sản cần bám sát các quan điểm cơ bản là: đấu giá tài sản để
THADS phải đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam;
đấu giá tài sản để THADS phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và
đấu giá tài sản để THADS phải đảm bảo sự tham gia, phối hợp của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan.
6. Một số giải pháp bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để THADS trên
địa bàn thành phố Hà Nội là: tiếp tục hoàn thiện pháp luật về THADS và pháp
luật về đấu giá tài sản; tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan THADS với các
cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong đấu giá tài sản để THADS; đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về THADS và đấu giá tài sản;
nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên, Đấu giá viên và công
chức, nhân viên của các cơ quan THADS và tổ chức đấu giá tài sản; nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS và đấu giá tài sản
và bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cưỡng chế THADS.
65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đinh Duy Bằng (2012), Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản để thi
hành án, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề tháng 02), tr.4549.
2.
Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, Hà Nội.
3.
Chính phủ (2017), Báo cáo công tác thi hành án năm 2017, Hà nội
4.
Phạm Văn Chung (2006), Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác
bán đấu giá tài sản, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số 10), tr.19-23
5.
Nguyễn Mạnh Cường (2008), So sánh đấu giá hàng hóa trong Luật
Thương mại với đấu giá tài sản trong Luật Dân sự, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, (số 7), tr.29-35.
6.
Lê Hùng Cường (2017), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án dân sự hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số
chuyên đề), tr. 51-57.
7.
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo kết quả công
tác thi hành dân sự năm 2013, phương hướng nhiệm vụ công tác năm
2014, Hà Nội
8.
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo kết quả công
tác thi hành dân sự năm 2014, phương hướng nhiệm vụ công tác năm
2015, Hà Nội
9.
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội (2015), Báo cáo kết quả công
tác thi hành dân sự năm 2015, phương hướng nhiệm vụ công tác năm
2016, Hà Nội
66
10. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo tổng kết công
tác thi hành dân sự năm 2016, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp
công tác năm 2017, Hà Nội
11. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội (2017), Báo cáo tổng kết công
tác thi hành dân sự năm 2017, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp
công tác năm 2018, Hà Nội
12. Lê Thị Lệ Duyên (2013), "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi
hành án với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự", Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, (số 01), tr.33-39.
13. Đại Từ điển bách khoa Việt Nam
14. Bùi Thị Thu Hiền (2015), Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong
THADS, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề tháng 7), tr.4852.
15. Đỗ Thị Hoa (2010),“Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
16. Quốc hội (2014), Luật Nhà ở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
17. Quốc hội (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
18. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
19. Quốc hội (2016), Luật Đấu giá tài sản, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
20. Nguyễn Hồng Sinh (2011), Những khó khăn vướng mắc trong công tác
kiểm soát việc bán đấu giá tài sản thi hành án, Tạp chí Kiểm sát, (số
23), tr.31-35.
21. Phạm Văn Sỹ (2006), “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài
sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh", Luận văn Thạc sĩ quản lý
công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
67
22. Nguyễn Quang Thái & Đào Thị Thúy Lan, Bán đấu giá tài sản trong
THADS vẫn còn là điểm nghẽn, .
23. Đỗ Khắc Trung (2007), Bán đấu giá tài sản - thực trạng và hướng hoàn
thiện, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số 11), tr.15-19
24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thi hành án dân sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất
bản Từ điển Bách Khoa- Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
68