VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN CẢNH
ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số
: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
HÀ NỘI, 2016
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ
NGUYỄN VĂN CẢNH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI..................................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư nước ngoài ................................................................... 9
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài............................................................................................. 13
1.3.Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam ........................................... 17
1.4. Các biện pháp ưu đãi đầu tư theo pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam................ 22
1.5. Ưu đãi đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 ........................................................................... 29
1.6. Một số kinh nghiệm ưu đãi đầu tư nước ngoài ................................................................. 39
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG
NINH ........................................................................................................................................ 44
2.1. Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư nước ngoài ........................................................... 44
2.2. Kết quả đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua............................................ 58
2.3. Kết quả thực hiện ưu đãi đầu tư nước ngoài ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian qua....................................................................................................................... 61
2.4. Đánh giá pháp luật Việt Nam về ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài từ thực tiễn áp
dụng trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ...................................................... 63
2.5. Phương hướng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đối với dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh .................................................................................................................................. 66
KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 77
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
: The Asian Development Bank
Ngân hàng Phát triển châu Á
: ASEAN Free Trade Area
AFTA
Khu vực thương mại tự do ASEAN
: Asia-Pacific Economic Cooperation
APEC
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
: Bộ Tài chính
BTC
: Chính phủ
CP
: Đầu tư nước ngoài
ĐTNN
: European Union
EU
Liên minh Châu âu
: Foreign Direct Investment
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
GCNĐKĐT : Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
: Gross Domestic Products
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội.
: Giá trị gia tăng
GTGT
: International Monetary Fund
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
: Japan Export Trade Research Organization
JETRO
Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản
: Nghị định
NĐ
: Non-governmental organization
NGO
Tổ chức phi chính phủ
: Ngân hàng nhà nước
NHNN
: Organization for Economic Co-operation and Development
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
: Official Development Assistance
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
ADB
QH
QĐ
TPP
TT
UBND
VAT
VCCI
WTO
: Quốc hội
: Quyết định
: Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement
Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
: Thông tư
: Uỷ ban nhân dân
: Value Added Tax
Thuế giá trị gia tăng
: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
: World Trade Organization
Tổ chức thương mại quốc tế
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn cho thấy rằng trong nhiều năm đổi mới của đất nước đã
khẳng định rằng khi nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật trong
quản lý thì tình hình kinh tế, chính trị xã hội ổn định, phát triển. Nếu nhà
nước buông lỏng vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến tình
trạng tùy tiện, lợi dụng những sai sót khuyết thiếu trong các quy định của nhà
nước để trục lợi, lũng đoạn nền kinh tế, tạo nguy hại cho cơ chế thị trường
nay đã phức tạp lại càng phức tạp hơn. Vì thế rất khó để quản lý, kiểm soát ở
một số lĩnh vực trong đó có lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực đầu tư nước
ngoài bộc lộ nhiều vấn đề và bất cập. Điều đó được thể hiện trên các mặt như
pháp luật về đầu tư còn có những bất cập cần sửa đổi, bổ sung. Cơ chế chính
sách chưa đồng bộ và chưa tạo được động lực phát triển mạnh, một số cơ chế,
chính sách, chưa sát với thực tế thiếu tính khả thi, chỉ có trên ý chí nhưng kết
quả lại không được như vậy. Nhiều cấp nhiều ngành chưa thay thế, sửa đổi
những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa bổ sung những
cơ chế, chính sách mới có tác dụng thực tế, thay đổi hoặc cải cách khai thác
triệt để nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Việc ban hành các văn bản pháp quy
hướng dẫn thi hành luật còn rất chậm. Thực tiễn quản lý vẫn còn trong tình
trạng chồng chéo hoặc phân tán, trong quá trình quản lý thực hiện chức năng
của nhà nước đối với các bộ ngành và các cơ quan có thẩm quyền như cục
đầu tư nước ngoài, ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế, sở
kế hoạch đầu tư của các địa phương trong vùng chưa thật gắn kết đồng đều.
Những thiếu sót bất cập nói trên đã ảnh hưởng không tốt đến mọi mặt tình
hình kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đòi hỏi các cơ quan thực hiện chức năng
1
quản lý nhà nước phải lưu tâm giải quyết. Chẳng hạn như tình trạng chảy máu
chất xám, lộ bí mật nhà nước, vấn đề về môi trường sinh thái, thiết bị công
nghệ lạc hậu, quản lý xuất nhập cảnh của người nước ngoài, các hoạt động
của các thương nhân, hiệp hội thương nhân nước ngoài bị buông lỏng, một số
chủ đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam. Cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư, thu hút đầu tư bằng mọi
giá, chạy theo số lượng dự án đầu tư, dự án ảo, thiếu sự tính toán bền vững
cho lâu dài, thiếu tính thực tế, các dự án chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển, thiếu sự đồng bộ, liên kết giữa nhà nước và các địa phương. Vì vậy mà
nguồn vốn thu hút đầu tư nước ngoài và sự phát triển của địa phương chưa
thật tương xứng với tiềm năng hoặc đánh giá tiềm năng chưa đúng, chưa
phù hợp. Đây cũng chính là những khuyết thiếu của hoạt động đầu tư nước
ngoài tại các vùng kinh tế, làm hạn chế sự phát triển bền vững của từng địa
phương có dự án đầu tư và ảnh hưởng đến sự phát triển chung của cả nước.
Trong giai đoạn hiện nay đầu tư là một lĩnh vực quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vấn đề để thu hút đầu tư, đặc biệt là
đầu tư nước ngoài để phát huy mọi tiềm lực trong và ngoài nước rất quan
trọng nếu không phát triển thì sẽ thụt lùi. Việt Nam là một quốc gia có vị trí
địa lý thuận lợi cả về tự nhiên và giao thông, thuận lợi trong việc thông
thương, giao lưu buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sau gần ba thập niên đổi mới và mở cửa kinh tế, nền kinh tế nước ta
đang hội nhập ngày càng cao vào nền kinh tế toàn cầu. Sau thời kỳ cải cách
và mở cửa cũng như những đổi mới căn bản trong nhận thức đường lối, chính
sách ĐTNN nhất là FDI đã đạt được nhiều thành tích vào công cuộc phát triển
nền kinh tế nước nhà. Mới đây nhất Luật đầu tư 2014 ra đời thay thế luật đầu
tư 2005 với những quy định đổi mới tiến bộ hơn. Những quy định về đầu tư
nước ngoài hấp dẫn cùng một thị trường giàu tiềm năng đã đẩy nhanh tốc độ
2
phát triển của đất nước, đồng thời với đường lối đối ngoại của nhà nước ta
trong các quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ
quyền và phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực để hỗ trợ phát huy các ưu thế
trong nước. Ngoài việc phải có các biện pháp bảo đảm đầu tư nước ngoài, nhà
nước cũng cần phải dành cho đầu tư nước ngoài những ưu đãi, tận dụng mọi
nguồn lực bên ngoài góp phần phát triển kinh tế xã hội vì sự nghiệp dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. . .
Tuy vậy trên thực tế, nguồn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu xây dựng hội nhập quốc tế cũng như chưa tương
xứng với tiềm lực về thu hút FDI của Việt Nam. Do những biện pháp ưu đãi
chưa thật sự hấp dẫn, do đường lối chính sách chưa thật thỏa đáng, chưa lôi
kéo được các nhà ĐTNN, chưa tạo ra một sân chơi bình đẳng hay vẫn còn sự
phân biệt kì thị áp đặt đối xử đầu tư trong nước và ngoài nước....
Đầu tư nước ngoài đang đặt ra nhiều vấn đề như: chất lượng đầu tư,
công nghệ, giá trị gia tăng, sự bất bình đẳng giữa các vùng miền, thuế, doanh
nghiệp, pháp luật, chính sách của Việt Nam đối với ĐTNN, văn bản chính
sách của các vùng miền địa phương, cách thực thi các văn bản pháp luật, hệ
thống pháp luật của Việt Nam về ưu đãi đầu tư nước ngoài có được thực hiện
công bằng hay không, có thực sự có ưu đãi đối với ĐTNN không, Việt Nam
có thực hiện tốt các điều ước, chính sách hội nhập quốc tế hay không ? . . .
Để hiểu rõ một cách cụ thể, lý giải những vấn đề còn vướng mắc, tác
giả chọn đề tài: “Ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh” để làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. Trong luận văn này, tác giả
hướng tới nghiên cứu cơ bản về sự hình thành, phát triển các biện pháp ưu đãi
đầu tư và thực trạng đầu tư nước ngoài, đặc biệt là ưu đãi đối với dự án đầu tư
3
trực tiếp nước ngoài theo pháp luật Việt Nam tại Việt Nam nói chung, thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ưu đãi đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của chiến lược
phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, được thể hiện trong các văn kiện Đại hội
Đảng. Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học, hội nghị
chuyên đề, hội thảo được tổ chức, nhiều đề tài cấp nhà nước, cấp bộ và một số
công trình nghiên cứu đã được công bố trong thời gian qua như:
- TS. Nguyễn Trọng Xuân (2002), Đầu tư nước ngoài với công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. NXB Khoa học xã hội.
- TS. Vũ Trường Sơn (2001), Đầu tư nước ngoài với tăng trưởng kinh
tế Việt Nam, NXB Thống kê.
- TS. Mai Ngọc Cường (2001), Hoàn thiện chính sách và thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.
- TS. Phùng Xuân Nhạ (2000), Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ
CNH Malaysia, kinh nghiệm đối với Việt Nam, NXB Nghiên cứu kinh tế và
xã hội.
- Vũ Thúy Anh (2006), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Nhật Bản tại Việt
Nam, luận văn thạc sĩ kinh tế, Khoa kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tìm hiểu các luận văn trong phạm vi Học viện Khoa học Xã Hội về đề
tài này cho thấy, chưa có luận văn nào viết về đề tài ưu đãi đầu tư nước ngoài
theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Tuy vậy, vấn đề này đã được đề cập đến trong một số luận văn:
- Luận văn “Pháp luật về thành lập và đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Hồng Thanh Bạch năm 2013.
Trong luận văn, tác giả đã có sự phân tích và đánh giá cụ thể, nêu ra những
điểm vướng mắc và kiến nghị, tuy nhiên vẫn ở mức độ là một vấn đề nằm
4
trong đề tài của luận văn.
- “Thực trạng đầu tư thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
của nhà đầu tư nước ngoài”, luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật năm 2007 của
tác giả Phạm Thị Kim Phượng. Luận văn nghiên cứu và phân tích, trình bày
khá chi tiết các vấn đề liên quan đến thủ tục thành lập doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài nhưng luận văn được thực hiện vào thời gian Luật Doanh
nghiệp 2005 mới được áp dụng, khác hẳn với bối cảnh hiện nay khi mà Luật
Đầu tư 2014 và Luật Doanh nghiệp 2014 đã có hiệu lực. Hơn nữa, mục đích
chủ yếu của luận văn là nghiên cứu đánh giá thực trạng đầu tư thành lập
doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài theo Luật Doanh nghiệp.
- Luận văn “Quyền thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2009 của tác giả Bùi Thị Thúy
Triều[33]. Luận văn đã nghiên cứu quy định của pháp luật cũng như thực
trạng về quyền thành lập doanh nghiệp FDI, bao gồm: quyền lựa chọn lĩnh
vực đầu tư và địa bàn thành lập doanh nghiệp FDI, quyền lựa chọn loại hình
doanh nghiệp, hình thức và tỷ lệ góp vốn, quyền lựa chọn đối tác để thành lập
doanh nghiệp FDI.
Luận văn “Pháp luật Việt Nam về ưu đãi đầu tư nước ngoài”; luận văn
thạc sỹ luật học năm 2012 của tác giả Đào Thu Hương[22]. Theo tìm hiểu của
tác giả, đây là luận văn có những nội dung nghiên cứu gần nhất, liên quan
nhất với đề tài “Ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” của
tác giả. Tuy nhiên, luận văn của tác giả Đào Thu Hương hướng đến mục đích:
“trình bày sự quan trọng và cần thiết của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, so sánh đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam với các nước khác, các số liệu kết quả đầu tư qua các năm từ đó tìm
ra phương hướng giải pháp ”. Điều này khác với mục đích đề tài mà tác giả
5
nghiên cứu, vì thế cách thức nghiên cứu, cách thức trình bày cũng như ý
nghĩa khoa học, giá trị ứng dụng mà hai đề tài mang lại là khác nhau.
Như vậy, đến thời điểm này, chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể,
chi tiết và riêng biệt về ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của các biện pháp ưu đãi, áp dụng pháp luật và chính sách đối với
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh nói riêng. Qua đó thấy được thực trạng thu hút và sử dụng FDI của đất
nước, khu vực, địa phương đặc biệt qua nghiên cứu áp dụng tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh. Qua đó có cái nhìn tổng thể về tình hình kinh tế xã
hội đề ra chiến lược thích hợp FDI trong thời gian tới. Luận văn còn nêu lên
một số vấn đề đặt ra, mối liên hệ giữa nhà nước và địa phương trong việc áp
dụng chính sách pháp luật về ưu đãi đầu tư, mối liên hệ tác động của các biện
pháp ưu đãi với thực trạng FDI ở Việt Nam nói chung, các khu vực, địa
phương nói riêng. Sau đó đưa ra đề xuất những việc cần làm trong thời gian
tới nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật,
chính sách của Việt Nam về ưu đãi đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đầu tư nước ngoài, ưu đãi dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Làm rõ thực trạng chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
nói chung, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
+ Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật về ưu đãi đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Văn bản pháp luật, chính sách ưu đãi đầu tư
nước ngoài của Việt Nam, Văn bản chính sách pháp luật của thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Các chính sách pháp luật về ưu đãi đầu tư nước
ngoài theo quy định của pháp luật việt Nam, văn bản chính sách pháp luật của
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Văn bản tổng kết, kết quả số liệu đánh giá tình trạng ưu đãi đầu tư qua
các năm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài đồng
thời so sánh đối chiếu với các chính sách ưu đãi của thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh. Qua đó thấy được khuyết điểm, bất cập trong chính sách ưu đãi đầu
tư nước ngoài của Việt Nam và sự liên kết đối với địa phương, khu vực.
- Ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu kinh
tế, luận văn sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu chủ yếu như sau:
+ Phân tích, so sánh: các nội dung của chính sách ưu đãi của Việt Nam
được phân tích so sánh, xem xét. Các nội dung chính sách ưu đãi dự án của
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh có điểm giống và khác nhau ra sao.
+ Hệ thống và liên ngành: các chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp nước
ngoài thường xuyên có liên quan, tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực trong
nền kinh tế và các hoạt động của đời sống chính trị - xã hội, nên cần được
phân tích hệ thống và liên ngành mới thấy được hiệu quả của chính sách.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp cơ bản sau đây :
- Tổng hợp, bổ sung và phát triển hệ thống lý luận và luận điểm khoa
học về ưu đãi đầu tư.
7
- Đưa ra đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về ưu đãi đầu tư tại
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, một địa phương có tiềm năng phát triển
lớn mạnh nhưng chưa được đánh giá đúng.
- Chỉ ra định hướng phát triển, giải pháp cho các vấn đề còn hạn chế từ
đó bổ sung, hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn được chia làm 2 chương với nội dung sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật ưu đãi đầu tư
nước ngoài.
- Chương 2 : Thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng và hoàn thiện pháp
luật về ưu đãi dự án đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài qua thực tiễn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là một trong những vấn đề chiến lược quan trọng để
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, việc tranh thủ nguồn vốn từ các nhà đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam mang ý nghĩa vô cùng to lớn khi đất nước đang
tiến hành công cuộc hiện đại hóa công nghiệp hóa, do đó việc tranh thủ nguồn
vốn, chuyển giao vốn từ quốc gia phát triển sẽ tạo bước đà cho việc phát triển
đất nước.
Theo nghĩa thông thường thì đầu tư chính là việc hi sinh các nguồn lực
hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu hút về cho nhà đầu tư các
kết quả nhất định, trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra trước đó.
Theo từ điển bách khoa toàn thư thì “Đầu tư là việc bỏ ra nguồn lực,
nhân lực, tài lực nào đó sao cho có hiệu quả kinh tế xã hội”.
Như vậy, đầu tư phải mang lại một giá trị nhất định, giá trị sau phải lớn
hơn giá trị ban đầu của các nguồn lực đầu tư. Mục đích không thể phủ nhận từ
các nhà đầu tư nhằm tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động
đầu tư đều đem lại lợi nhuận mà nó phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố theo
quy luật phát triển của nền kinh tế trị trường.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic
Cooperation and Development – OECD), FDI được hiểu theo nghĩa rộng hơn:
“FDI là các hoạt động kinh tế của các cá nhân và pháp nhân kể cả việc cho
vay dài hạn hoặc sử dụng nguồn lợi nhuận tại nước sở tại nhằm tạo dựng các
9
quan hệ kinh tế lâu dài và mang lại khả năng gây ảnh hưởng thực sự về quản
lý”[35].
Theo Luật Đầu tư năm 2005 thì “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng
các loại toài sản hữu hình và vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
có liên quan”. Tài sản đầu tư ở đây bao gồm: tiền, vật, giấy tờ có giá và
quyền tài sản được quy định trong pháp luật dân sự.
Lênin cho rằng: Đầu tư là yếu tố cần thiết để tạo ra một lượng của cải
lớn trong xã hội, đầu tư không chỉ đem lại nguồn lực cho bản thân doanh
nghiệp mà còn là hình thức tư sản tất yếu của xã hội. Nếu không có hoạt động
đầu tư thì có thể xem xã hội đang rơi vào trạng thái đứng yên, thụt lùi vì nó sẽ
không tạo ra giá trị thặng dư trong xã hội” [36, tr.60].
Từ những vấn đề trên, chứng minh rằng đầu tư phải có tính sinh lời,
mỗi nhà đầu tư đều mong muốn mang lại lợi nhuận tốt nhất, không một nhà
đầu tư nào chỉ mong muốn nhận được một khoản giá trị chỉ bẳng đúng hoặc
thấp hơn so với vốn ban đầu.
Đối với đầu tư nước ngoài, theo cách hiểu thông thường đó là sự dịch
chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý từ nước này sang nước
khác để kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu. Thông
thường đầu tư nước ngoài được chuyển nguồn vốn từ nước phát triển sang
những nước đang phát triển, nước chậm phát triển rất ít có các trường hợp
ngược lại.
Tại khoản 12 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005: “Đầu tư nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản
hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam”[28].
Tuy nhiên khi Luật đầu tư năm 2014 ra đời thay thế cho Luật đầu tư
năm 2005 lại không đưa ra một định nghĩa về đầu tư nước ngoài, mà chỉ tập
10
trung làm rõ bản chất của đầu tư nước ngoài thông qua các khái niệm: đầu tư
kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài. Tại khoản 4 Điều 3 Luật đầu tư 2014 quy
định “đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện các
hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp
vốn; mua cổ phần; phần vốn góp; của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức
hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”. Còn tại khoản 13 Điều 3 Luật đầu tư
năm 2014 quy định “nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân có quốc tịch
nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động
đầu tư tại Việt Nam”. Như vậy dù luật đầu tư năm 2014 không đưa ra định
nghĩa thế nào là đầu tư nước ngoài nhưng về cơ bản chung vẫn là việc dịch
chuyển nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thông qua các
hình thức đầu tư.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể định nghĩa về đầu tư nước ngoài như
sau: “Đầu tư nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa tiền và các
tài sản hợp pháp khác vào Việt Nam thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế;
đầu tư góp vốn; mua cổ phần; phần vốn góp; của tổ chức kinh tế; đầu tư theo
hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư để tiến hành các hoạt động
kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận”.
1.1.2.Đặc điểm của đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài là một hiện tượng luân chuyển dòng vốn
từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, các
quốc gia luôn tìm cách để phát triển không chỉ bằng nguồn lực trong nước mà
bằng các nguồn lực của các quốc gia khác, điều này đã tạo ra sự hợp tác đầu
tư toàn diện hơn đối với các quốc gia về vấn đề kinh tế. Tổ chức thương mại
quốc tế (WTO) đã trở thành cầu nối đối với các quốc gia lại với nhau trong
lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên xét về tổng thể thì đa phần các nước phát triển tiếp
11
nhận nguồn vốn từ các nước khác thấp hơn so với các quốc gia đang và kém
phát triển điều này phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế, tài chính của mỗi quốc gia
trên thế giới.
Thứ hai, chủ thể đầu tư nước ngoài là các nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật về đầu tư bao gồm:
các tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài và cá nhân mang quốc tịch
nước ngoài.
Nhìn chung vì đầu tư nước ngoài bản chất chính là dịch chuyển nguồn
vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác, do đó, chủ thể thực hiện việc chuyển
vốn đó có thể là cá nhân, tổ chức mang yếu tố nước ngoài, nghĩa là không
được thành lập tại nước sở tại hoặc có quốc tịch tại nước sở tại. Tuy nhiên đối
với các tổ chức kinh tế dù có vốn 100% đầu tư nước ngoài nhưng được thành
lập tại Việt Nam thì không thể xem đó là nhà đầu tư nước ngoài. Đối với cá
nhân thì vấn đề xác định quốc tịch còn phù thuộc vào quy định của mỗi nước
có thể là nơi sinh ra, cư trú, làm việc... tuy nhiên theo pháp luật Việt Nam về
quốc tịch thì cá nhân (bao gồm cả pháp nhân) có quốc tịch nước ngoài là cá
nhân, pháp nhân không mang quốc tịch Việt Nam.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài được tiến hành thông qua các hình thức đầu
tư. Muốn đầu tư thì các nhà đầu tư nước ngoài phải có những hình thức đầu tư
theo quy định của nước tiếp nhận vốn đầu tư. Trước khi Luật đầu tư 2014 ra
đời, luật đầu tư 2005 quy định hình thức đầu tư bao gồm: đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên theo quy định của Luật đầu tư 2014 thì không còn
đề cập, phân biệt giữa hai hình thức đầu tư, mà theo đó nhà đầu tư nước ngoài
muốn đầu tư vào Việt Nam phải tiến hành một trong các hình thức đầu tư như:
thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn; mua cổ phần; phần vốn góp; của tổ
chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.
12
Thứ tư, hoạt động đầu tư nước ngoài phải mang tính tìm kiếm lợi nhuận.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam đều mong muốn
tìm kiếm lợi nhuận, điều này được phản ánh trong bản chất của đầu tư là
mang lại giá trị thặng dư lúc sau sẽ lớn hơn so với vốn đầu tư ban đầu. Thông
qua các hình thức đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tìm kiếm cho mình
những cơ hội, thị trường để có thể tìm kiếm lợi nhuận một cách tốt nhất. Theo
thống kê, các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư tại Việt
Nam đa phần tập trung nhiều nhất ở các khu công nghiệp, với nguồn lao động
trẻ, dồi dào và giá thành hợp lý đã tạo ra một khoản lợi nhuận khổng lồ cho
nhà đầu tư nước ngoài, điều này còn thể hiện qua ngân sách đóng góp của nhà
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, có thể thấy rằng, đầu tư nước ngoài
phải mang tính lợi nhuận thông qua các dự án đầu tư, tuy nhiên bên cạnh tính
lợi nhuận thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải đảm bảo các nghĩa vụ,
trách nhiệm xã hội. Đây là vấn đề nhà nước luôn quan tâm và xem là một sự
cam kết giữa quốc gia Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài.
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI)
là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước
ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt
FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư
lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong
13
những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các
tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". Cụ thể hơn: FDI là
một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư của một nền kinh tế đóng
góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để sở hữu hoặc
điều hành, kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận
hoặc các lợi ích kinh tế khác. FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ
hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành
lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi.
1.2.2. Nội dung đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hình thức truyền thống và phổ biến của FDI là thành lập tổ chức kinh
tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Với hình thức này, các nhà đầu tư,
cùng với việc chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã
nỗ lực tìm cách áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý
trong hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình thức này phổ biến
ở quy mô đầu tư nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối với các
dự án quy mô lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo
hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một
công ty con thuộc công ty mẹ xuyên quốc gia.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước
nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp được
đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh. Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có ưu điểm là
nước chủ nhà không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh,
thu ngay được tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động.
14
Mặt khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ
động đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện
kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình
độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà
khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được
đối tác đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận.
Hình thức cũng rất phổ biến ở Việt Nam là thành lập doanh nghiệp liên
doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, doanh
nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa
các bên hoặc các bên nước chủ nhà với các Bên nước ngoài để đầu tư kinh
doanh tại nước sở tại. Như vậy, hình thức doanh nghiệp liên doanh tạo nên
pháp nhân đồng sở hữu nhưng địa điểm đầu tư phải ở nước sở tại. Hình thức
doanh nghiệp liên doanh có những ưu điểm là góp phần giải quyết tình trạng
thiếu vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế
nhưng lại được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng hóa
sản phẩm; tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm
quản lý của nước ngoài. Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc
kiểm soát được đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công
cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả,
tạo thị trường mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ
xuất hiện mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể
có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn
hóa, ngôn ngữ, pháp luật. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp
vốn thấp, năng lực, trình độ quản lý yếu.
15
Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà
đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà
không thành lập pháp nhân. Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải
quyết tình trạng thiếu vốn, công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được
quyền điều hành dự án của nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy
nhiên, nó có nhược điểm là nước sở tại không tiếp nhận được kinh nghiệm
quản lý; công nghệ thường lạc hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh
vực dễ sinh lời như thăm dò dầu khí. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
không thành lập pháp nhân riêng và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp
nhân của nước sở tại. Do đó, về phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả
các hoạt động BCC. Tuy nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi
thủ tục pháp lý rườm rà nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các
nước đang phát triển bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức
100% vốn hoặc liên doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh.
Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT: BOT là hình thức đầu tư được
thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong
một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. BTO và BT là các hình thức phát sinh
của BOT, theo đó quy trình đầu tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự.
Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết phải
là Nhà nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá,
cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc đến
thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước. Ưu điểm của hình
thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết cấu hạ tầng, đòi hỏi lượng
vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm áp lực vốn cho ngân sách
16
nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển giao có được những công
trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn lực khác để phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có nhược điểm là độ rủi ro cao, đặc biệt là rủi
ro chính sách; nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ.
Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp: Khi thị trường
chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được khai thông, nhà
đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh nghiệp ở nước
sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này.
Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu
tư nước ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư
nước ngoài tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán
nước sở tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi
tỷ lệ sở hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham
gia quản lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Hình thức mua cổ
phần hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm cơ bản là để thu hút vốn
và có thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động của những doanh
nghiệp bên bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây tác động đến sự ổn
định của thị trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây là hình thức giúp họ đa
dạng hoá hoạt động đầu tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng cũng là hình thức đòi
hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và thường bị ràng buộc, hạn chế từ phía nước
chủ nhà.
1.3.Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam
Mỗi hiện tượng, sự vật đều có hai mặt. Vì vậy, hoạt động đầu tư nước
ngoài cũng có những tác động tích cực và tiêu cực đối với quốc gia nhận đầu tư.
1.3.1. Tác động tích cực
Đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả các nguồn lực
trong nước.
17
Đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chủ trương xây dựng nền kinh
tế thông qua nội lực trong nước luôn được quan tâm. Theo thống kê, các
doanh nghiệp Việt Nam đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự hội nhập
kinh tế toàn cầu, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là một quy lực tất yếu do
đó các doanh nghiệp trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn và thách thức
không hề nhỏ. Sự tranh thủ về nguồn vốn các nhà đầu tư nước ngoài không
chỉ tạo ra động lực cho các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh mà còn thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam luôn được Ngân hàng thế giới
(WB) đánh giá cao. Năm 2015 với nền kinh tế thế giới không mới khả quan,
thì GDP Việt Nam tăng 6,3% trong sáu tháng đầu năm 2015. Với sự tăng
trưởng đáng kinh ngạc đó, cần phải kể đến sự đóng góp của lĩnh vực đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. [37, tr.2]
Một là, bổ sung nguồn cho tổng vốn đầu tư xã hội
Đầu tư nước ngoài của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không
chỉ phát triển mạnh mẽ về tổng số dự án đầu tư qua các thời kì, mà nó còn thể
hiện qua số lượng vốn tăng trưởng qua các năm. Vốn đầu tư nước ngoài thực
hiện tăng nhanh qua các thời kỳ, từ khoảng 20,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng
vốn đầu tư xã hội (1991 – 2000) lên 69,47tỷ USD, chiếm 22,75% tổng vốn
đầu tư xã hội (2001 – 2011). Tỷ trọng khu vực đầu tư nước ngoài trong cơ cấu
kinh tế giai đoạn 2000 – 2011 tăng 5,4% [38, tr.9].Tuy nhiên chỉ trong vòng
một năm 2015 tổng số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lên đến 25,984 tỷ
USD [37, tr.4].
Hai là, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu
Sự phát triển của đầu tư nước ngoài đã tạo ra một hệ thống các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển đáng kể. Nhà nước với chức năng
phát triển kinh tế luôn tạo điều kiện để hoạt động đầu tư nước ngoài phát
18
triển, trong các biện pháp điều kiện đó, là sự ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu,
ưu đãi đối với các dự án đầu tư tại các nơi khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
kinh tế điều này làm cho hoạt động xuất nhập khẩu với Việt Nam phát triển.
Theo báo cáo kỷ yếu 25 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trước
năm 2001, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài chỉ đạt 45,2% tổng kim
ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt
khu vực trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm
khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. Không chỉ vậy, đầu tư
nước ngoài còn thay đổi cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ
trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng tỷ trọng mặt hàng chế tạo.
Một trong các thị trường đáng kể đó là thông qua kênh đầu tư nước ngoài,
Việt Nam tích cực mở rộng thị trường xuất khẩu như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,
Hàn Quốc....
Ba là, đầu tư nước ngoài còn góp phần tăng ngân sách nhà nước
Thông qua các hoạt động đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước
ngoài tiến hành các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam phải chịu các loại
thuế, điều này sẽ góp phần bổ sung vào ngân sách nhà nước, tạo ra một nguồn
thu chủ yếu và thường xuyên đối với ngân sách nhà nước.
Bốn là, đầu tư nước ngoài kéo theo việc chuyển giao công nghệ.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc
dạng nhỏ và vừa. Do đó, việc tranh thủ ngồn vốn để nâng cao hiệu quả kinh
doanh các doanh nghiệp trong nước luôn được quan tâm. Đầu tư nước ngoài
đa phần đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt là
khu công nghệ cao nơi mà được ưu tiên áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản
xuất kinh doanh là rất cao. Do đó, thông qua đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ
tiếp nhận các dây chuyền, công nghệ mới từ các nước phát triển.
19
Thông qua việc liên doanh giữa các nhà đầu tư Việt Nam với nhà đầu
tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Việt Nam học hỏi được các
kinh nghiệm quản lý, đào tạo, hơn nữa là sự tiếp thu các công thức, dây
chuyển sản xuất của các nước đầu tư vào Việt Nam.
Năm là, đầu tư nước ngoài tạo việc làm, nâng cao chất lượng lao động.
Vấn đề giải quyết lao động trong nước luôn được nhà nước quan tâm,
nó không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của người lao động và còn ảnh hưởng
đến kinh tế về lâu dài. Tuy nhiên với tình trạng chung về người lao động
không có việc làm, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một đầu mối quan
trọng để giải quyết. Một trong những lý do để các nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam một phần cũng nhờ nguồn lao động Việt Nam dồi dào và rẻ.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế đa phần là các lao động Việt
Nam, do đó việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ giải quyết một số vấn đề về
việc làm của Việt Nam.
Bên cạnh đó, khi người lao động Việt Nam được làm việc ở một môi
trường công nghiệp, với kinh nghiệm quản lý, điều hành của nhà đầu tư nước
ngoài, các lao động Việt Nam sẽ càng ngày vững tay nghề, nâng cao chất
lượng lao động tại Việt Nam, xóa dần cách làm việc nông nghiệp. Điều này sẽ
tạo ra một nguồn lao động vững tay nghề, góp phần đẩy mạnh các mặt hàng
của Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước trên thế giới.
Sáu là, đầu tư nước ngoài góp phần hội nhập kinh tế.
Điều lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1977 là một văn bản luật đầu
tiên điều chỉnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tuy nhiên đối tượng đầu tư
vào Việt Nam chỉ dừng lại ở một số nước xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển kinh tế toàn cầu đã làm cho các quốc gia hợp tác ngày
càng nhiều, nhiều vùng kinh tế được thành lập và phát triển. Trong bối cảnh
đó, Việt Nam không thể tự nhốt mình, do đó sự hợp tác, hội nhập là điều tất
20