Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.8 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH NGỌC THỦY

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
DƯỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI .............................................. 8
1.1 Khái quát về người phạm tội dưới 18 tuổi ...................................................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, mục đích và ý nghĩa áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội dưới 18 tuổi ........................................................................... 15
1.3 Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới ........................................................ 19
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI
NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI ............................................................. 27


2.1 Quy định pháp luật hình sự Việt Nam đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ..................................................... 27
2.2 Quy định pháp luật hình sự Việt Nam đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
theo Bộ luật Hình sự năm 2015........................................................................... 38
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18
TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ ...................................................... 54
3.1 Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ ................................................................................................. 54
3.2 Giải pháp đảm bảo nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ................................................ 67
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự với chế tài hình phạt nghiêm khắc là công cụ cơ bản, hữu
hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, giáo dục ý
thức chấp hành và tuân theo pháp luật cho các chủ thể trong xã hội.
Cùng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Phú Thọ đã có sự tác động tích cực đến đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa
bàn tỉnh. Những năm gần đây, đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh không ngừng
được cải thiện, tình hình chính trị - xã hội được ổn định, quốc phòng, an ninh được
tăng cường, hiệu lực quản lý Nhà nước được nâng lên. Điều này làm cho lòng tin
trong nhân dân với Đảng, với Nhà nước ngày càng được nâng cao, nhân dân phấn
khởi, đoàn kết xây dựng tỉnh ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển luôn đi kèm, tình hình tội phạm diễn

biến ngày càng phức tạp, trong đó, tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày
càng có xu hướng gia tăng nhanh cả về số vụ lẫn tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội như tội phạm về ma túy, tội giết người, tội cố ý gây thương tích, tội cướp tài
sản, tội hiếp dâm, tội chống người thi hành công vụ, tội gây rối trật tự công cộng...
Năm 2013, Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã thụ lý giải quyết
44 vụ án hình sự với 64 bị cáo là người chưa thành niên; năm 2014 thụ lý giải quyết
52 vụ án hình sự với 68 bị cáo là người chưa thành niên; năm 2015 thụ lý giải quyết
16 vụ án hình sự với 19 bị cáo là người chưa thành niên; năm 2016 đã thụ lý giải
quyết 27 vụ án hình sự với 31 bị cáo là người chưa thành niên; năm 2017 đã thụ lý
giải quyết 24 vụ án hình sự với 31 bị cáo là người chưa thành niên.
Chính sách hình sự của Nhà nước ta thể hiện rõ bản chất nhân đạo và dân chủ
của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trước ki Bộ luật Hình sự năm
2015 ra đời, Nhà nước sử dụng khái niệm người chưa thành niên phạm tội để chỉ
những người dưới 18 tuổi phạm tội và quy định hình phạt áp dụng đối với chủ thể của
tội phạm này. Bộ luật Hình sự năm 2015 là bước phát triển mới so với các quy định
của pháp luật hình sự trước đây về quy định trách nhiệm hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội, trong đó cụ thể hóa các hình phạt và áp dụng triệt để nguyên tắc

1


nhân đạo của pháp luật hình sự phù hợp với đặc thù của chủ thể phạm tội này. Đặc
biệt, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội (người phạm tội dưới 18 tuổi) là khái
niệm mới, thay thế cho khái niệm người chưa thành niên phạm tội trước đây. Do đó,
rất cần được nghiên cứu về khái niệm cũng như các quy định của Bộ luật Hình sự
năm 2015 áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Về mặt thực tiễn, Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018,
nhưng các quy định về cơ bản trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 nên rất cần đánh giá, tổng kết từ thực tiễn để có những giải pháp phù hợp góp
phần áp dụng có hiệu quả các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Mặt khác, để nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cần phải tổng kết thực tiễn thi hành các quy
định có liên quan để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm do người
dưới 18 tuổi gây ra trên địa bàn tỉnh. Hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu về nội dung này.
Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ “Áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Phú Thọ” bảo đảm đầy đủ tính lý luận, khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Người chưa thành niên, nay là người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng
nghiên cứu chính của nhiều công trình khoa học đã được thực hiện dưới các hình
thức nghiên cứu khác nhau: sách chuyên khảo, giáo trình, bài viết trên tạp chí, khóa
luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, công trình nghiên cứu khoa học cấp
bộ, cấp nhà nước….
Các công trình đã được nghiên cứu được thực hiện dưới các góc độ khác
nhau, phạm vi nghiên cứu khác nhau (có thể là ở một địa phương, một vùng hoặc
trong cả nước), có công trình của các nhà khoa học trong nước, có công trình lại
được tiến hành bởi các nhà khoa học nước ngoài như: A.I. Đôn-gô-va, Những khía
cạnh tâm lý - xã hội về tình trạng phạm tội của người chưa thành niên, Nxb. Sách
pháp lý, Matxcơva, 1981, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1987 (sách dịch); Võ Khánh Vinh
(1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản (chủ biên), Tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an

2


nhân dân, Hà Nội, 2007; Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000 (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ
biên); Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội,

Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; Trần Văn Dũng,
Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Nguyễn Minh
Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc
sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; Trịnh Thị Yến, Quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Đỗ Ngọc Thùy (2011), Hình phạt tù
đối với người chưa thành niên phạm tội – Lý luận và thực tiễn áp dụng, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thu Huyền
(2012), Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội…
Ngoài ra, còn có các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học luật uy tín
như: Lương Ngọc Trâm (2014), “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân (19); TS.
Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm
tội, Tạp chí Luật học, số 5/2000; PGS. TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; TS. Trương
Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; PGS. TS. Trần Văn Luyện, Những điểm mới
về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 12/2000; ThS. Đặng Thanh Sơn, Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa
thành niên, Số chuyên đề của Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tháng 12/2008; ThS. Đinh
Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 6/2007; ThS. Đoàn Tấn Minh, Bàn về phạm vi sử dụng thuật ngữ
“người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9(5)/2008; ThS.
Trương Hồng Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề
quyền của người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí điện tử ngày 20/8/2009
(Http://hvcsnd.edu.vn/); TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về các


3


hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 7, 8/2010…
Các công trình trên phần lớn đã xây dựng được nền tảng lý luận và pháp lý đối
với trách nhiệm hình sự, quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới
18 tuổi - người chưa thành niên phạm tội như khái niệm, đặc điểm người chưa thành
niên phạm tội; các quy định của pháp luật về người chưa thành niên phạm tội, một số
vấn đề phát sinh trên thực tiễn về người chưa thành niên phạm tội cần phải hoàn thiện
về mặt pháp luật để điều chỉnh….
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên về cơ bản chưa nghiên cứu, cập
nhật các quy định mới trong Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội dưới 18 tuổi. Hơn nữa, không có công trình nào nghiên cứu về
thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ. Vì vậy, công trình nghiên cứu “Áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” của
luận văn này đảm bảo tính mới của luận văn thạc sĩ và không bị trùng với bất kỳ
công trình nào đã nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn “Áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” nhằm
lãm sáng tỏ hơn về mặt lý luận về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18
tuổi; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi, từ đó
rút ra những kết quả đạt được và chỉ ra những hạn chế cần phải khắc phục về mặt
pháp luật cũng như tổ chức thực hiện pháp luật. Từ đó, để xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi để đạt kết quả cao.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ phân tích, làm rõ các khái niệm, đặc điểm của người
phạm tội dưới 18 tuổi; khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự, hình phạt và
áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Luận văn khái quát quá trình hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt đối

4


với người phạm tội dưới 18 tuổi ở Việt Nam, tập trung làm rõ và đánh giá các quy
định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi.
Luận văn phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế , chỉ ra những
nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18
tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả tổ chức thực hiện pháp luật về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới
18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về hình phạt áp
dụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi và các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam, pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội dưới 18 tuổi. Đồng thời, luận văn nghiên cứu tình hình áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trong những năm gần đây từ năm 2013
đến năm 2017 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Từ đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau:
Nghiên cứu về một số vấn đề lý luận liên quan đến áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội dưới 18 tuổi (như: khái niệm và đặc điểm của người phạm tội dưới

18 tuổi; trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi; áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội dưới 18 tuổi; áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chưa
thành niên tại một số quốc gia trên thế giới).
Nghiên cứu, đánh giá về các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam qua
các thời kỳ và Bộ luật Hình sự năm 2015 về các quy định liên quan đến áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Nghiên cứu, đánh giá về tình hình tội phạm và việc áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 đến năm
2017, chỉ ra những bất cập, hạn chế cần được khắc phục để nâng cao hiệu quả áp
dụng hình phạt đối với nhóm chủ thể này.
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện về mặt pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ

5


chức thực hiện pháp luật liên quan đến áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là hệ thống các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hình phạt và cải tạo
con người; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật nói chung,
chính sách hình sự nói riêng, đặc biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo
dục, phòng ngừa tội phạm đối với tội phạm dưới 18 tuổi, cũng như việc áp dụng
hình phạt đối với chủ thể tội phạm này.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như:
phân tích, tổng hợp và thống kê, phương pháp so sánh… để nghiên cứu nhằm đạt
được mục đích nghiên cứu. Cụ thể:
Chương 1 tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp

so sánh luật để làm rõ các vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội dưới 18 tuổi.
Chương 2 tác giả sử dụng phương pháp phân tích và phương pháp so sánh
luật để làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ
luật Hình sự năm 2015 và các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi, đánh giá những thành tựu, những
hạn chế của các quy định.
Chương 3 tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và
phương pháp so sánh kết hợp với việc sử dụng hệ thống bảng thống kê, dẫn chứng
cụ thể để đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nhằm làm rõ những thành tựu đã đạt được và những hạn
chế cần khắc phục. Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể về hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả thi hành quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới
18 tuổi của Bộ luật Hình sự năm 2015 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ góp phần làm rõ và hoàn thiện lý luận về áp dụng hình phạt đối

6


với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam. Đây sẽ làm tài
liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học nghiên cứu về các vấn đề liên
quan đến luận văn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn sẽ góp phần nâng cao nhận thức của xã hội, của những người áp
dụng pháp luật về vấn đề người phạm tội dưới 18 tuổi và hình phạt áp dụng đối với
họ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng
như công tác giáo dục, cải tạo chủ thể tội phạm là người dưới 18 tuổi hiện nay trên
địa bàn tỉnh nói riêng và trong cả nước nói chung.

Đồng thời, luận văn cũng sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật, để người có
thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên nghiên cứu để áp dụng
trong thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống tội
phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo chủ thể tội phạm là người dưới 18 tuổi
hiện nay trên địa bàn tỉnh nói riêng và trong cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội dưới 18 tuổi
Chương 2: Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp
luật hình sự Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thi hành và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN DỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI
1.1 Khái quát về người phạm tội dưới 18 tuổi
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của người phạm tội dưới 18 tuổi
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần,
đặc biệt là về tâm - sinh lý, hạn chế trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống. Ở lứa
tuổi này, con người ta dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo
hiểm. Tuy nhiên, hoạt động cảm hóa, giáo dục, cải tạo đối với họ lại mang lại hiệu
quả cao.
Bộ luật Hình sự năm 2015 kế thừa các quy định của Bộ luật Hình sự năm

1999 về người phạm tội dưới 18 tuổi nhưng không sử dụng cụm từ “người chưa
thành niên phạm tội” mà sử dụng cụm từ “người phạm tội dưới 18 tuổi”. Việc quy
định như vậy nhằm cụ thể hóa và thống nhất cách hiểu về độ tuỏi của người chưa
thành niên phạm tội. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, các cụm từ
“người chưa thành niên”, “người chưa đủ 18 tuổi” được sử dụng với cùng một nội
hàm và ngữ nghĩa như “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”
(Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015) , “Người lao động chưa thành niên là
người lao động dưới 18 tuổi” (Điều 161 Bộ luật Lao động năm 2012)…
Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước quyền tự do (Quy tắc Havana) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua ngày 14/12/1990 ghi nhận cụ thể: “Người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được
tước quyền tự do của người chưa thành niên” [9, quy tắc 2.1 mục a].
Do cụm từ “người chưa thành niên phạm tội” được pháp luật hình sự sử dụng
phổ biến trước đây nên đã có nhiều nhà khoa học định nghĩa người chưa thành niên
phạm tội như: “Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về
tâm sinh lý và có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

8


hội bị luật hình sự cấm” [4, trang 9]; “Người chưa thành niên phạm tội là người mà
tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định
là tội phạm chưa đến tuổi trưởng thành nhưng có năng lực trách nhiệm hình sự và
đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định” [49, trang 14-15]; Người chưa
thành niên phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ 14 tuổi nhưng
chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Bộ luật Hình sự quy
định là loại tội phạm mà người đó phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm
phải”[49, trang 16]…

Người phạm tội dưới 18 tuổi là khái niệm được hợp thành từ hai khái niệm:
Người phạm tội (hay tội phạm - thực hiện hành vi bị pháp luật hình sự quy định là
tội phạm) và người dưới 18 tuổi.
Về khái niệm tội phạm, hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về tội phạm
như: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự” (Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015), “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình
phạt” [39, trang 50], “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy
định trong Luật hình sự và phải chịu hình phạt” [35, trang 64], “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi” [10, trang
111]… Như vậy, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn những yêu cầu nhất định về
năng lực pháp luật hình sự mà không phải tất cả người nào thực hiện các hành vi
thuộc mặt khách quan của tội phạm đều trở thành tội phạm. Tức là, họ phải là người
có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Năng lực trách
nhiệm hình sự thể hiện ở khả năng nhận thực và điều khiển hành vi của con người.

9


Khả năng nhận thức phụ thuộc vào độ tuổi và trạng thái thần kinh. Khả năng điều
khiển hành vi lại được quyết định bởi khả năng nhận thức cùng với sự tự do của ý
chí và sự lành mạnh về thể chất. Do đó, những người mất khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi sẽ không có năng lực trách nhiệm hình sự. Và ngược lại, người

có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi tại thời điểm thực hiện hành vi phạm
tội sẽ là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Mặt khác, người có năng lực trách
nhiệm hình sự cũng phải đạt đến độ tuổi nhất định. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
không thống nhất trong pháp luật hình sự của các nước trên thế giới, nó dao động từ
7 đến 17 tuổi như pháp luật Singapore, Ấn Độ, Kenya, Jamaica quy định tuổi chịu
trách nhiệm hình sự là 7 tuổi; Scotland quy định là 8 tuổi; Hà Lan, Canada quy định
là 12 tuổi, Việt Nam quy định là đủ 14 tuổi trở lên..
Về khái niệm, người chưa đủ 18 tuổi được xác định là những người mà tại
thời điểm cần xác định tuổi của họ đến trước ngày sinh nhật lần thứ 18 của họ. Điều
12 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội
mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều
173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái
phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua
bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);

10



đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị,
phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương
trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng
máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội
sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương
tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự).
Ở đây còn xuất hiện thêm khái niệm “người từ đủ 14 tuổi trở lên”. Khái niệm
này được hiểu là tại thời điểm cần xác định tuổi tính từ ngày sinh nhật lần thứ 14
của họ trở đi.
Như vậy, có thể định nghĩa: Người phạm tội dưới 18 tuổi là người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm khi họ từ đủ
14 tuổi (ngày sinh nhật lần thứ 14) trở lên đến dưới 18 tuổi (trước ngày sinh nhật
lần thứ 18) và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Đặc điểm tâm, sinh lý là đặc thù của người phạm tội dưới 18 tuổi. Họ là
những người tuổi đời còn ít, chưa có nhiều kinh nghiệm sống, sự hiểu biết pháp luật
và các chuẩn mực xã hội còn hạn chế. Ở lứa tuổi này đang có sự biến đổi mạnh mẽ
về tâm, sinh lý và là giai đoạn quan trọng của quá trình hình thành và phát triển
nhân cách.
Về mặt sinh lý, sự phát triển mạnh mẽ của hệ tuần hoàn, đặc biệt là tim dẫn
đến sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ tim mạch. Cơ thể người dưới 18 tuổi,
đặc biệt là từ khi dậy thì, tuyết nội tiết hoạt động mạnh, tiết ra nhiều hooc môn tăng
trưởng và hooc môn sinh dục. Những thay đổi này gây ra sự mất cân bằng trong
hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Điều này làm cho người dưới 18 tuổi có


11


những cơ xúc động mạnh, những phản ứng nóng nảy vô cớ, mất kiểm soát và có
những hành vi bất thường. Do đó, họ dễ thực hiện các hành vi lệch chuẩn.
Về mặt tâm lý, ở lứa tuổi này, con người ra thường có nhu cầu độc lập cao.
Họ không muốn phụ thuộc vào người khác, quá tự tin vào khả năng của chính mình,
muốn tự khẳng định mình. Điều này thể hiện bằng các dạng hành vi ngang bướng,
cố chấp, bảo thủ, tự ái, phô trương, mạo hiểm, côn đồ. Tuy nhiên, họ cũng có nhu
cầu khám phá thế giới rất cao. Đồng thời, khả năng nhận thức, nhất là nhận thức
pháp luật và kinh nghiệm sống chưa nhiều, dẫn đến họ dễ bị kích động, lôi kéo vào
việc khám phá những điều chưa lành mạnh, trái với quy định của pháp luật và đạo
đức xã hội.
Như vậy, vể mặt sinh lý và về mặt tâm lý, người dưới 18 tuổi đều có nguy cơ
phạm tội rất cao. Tuy nhiên, đây là đặc tính tự nhiên của con người và điều này có
thể hiểu được, cần sự đối xử nhân đạo đối với họ. Chính vì vậy, không chỉ riêng
Việt Nam mà pháp luật quốc tế, pháp luật hình sự các quốc gia khác cũng dành dự
quan tâm, đối xử đặc biệt đối với họ để răn đe, giáo dục, cải tạo họ thành người có
ích cho xã hội nếu lỡ gây ra lỗi lầm.
1.1.2 Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Về mặt khoa học, khái niệm trách nhiệm hình sự được định nghĩa theo nhiều
phương diện khác nhau như “trách nhiệm hình sự là “hậu quả pháp lý của việc
phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình trước nhà nước” [41, trang 41]; “trách nhiệm hình sự là một dạng trách
nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng
tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực
hiện”[24, trang 14]; “trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định” [5, trang 609]...

Mặc dù được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như vậy, nhưng tựu
trung lại, trách nhiệm hình sự có những đặc điểm sau:

12


Thứ nhất, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm,
chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội xảy ra. Người phạm tội thực hiện hành vi bất hợp
pháp, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác; lợi ích của
tập thể, lợi ích của nhà nước. Chính vì vậy, họ phải gánh chịu hậu quả pháp lý được
pháp luật hình sự quy định - hậu quả xấu đối với bản thân họ (có thể là tước đoạt tự do,
giới hạn sự tự do, mất đi lợi ích kinh tế…. của họ) để thể hiện sự trừng trị nghiêm khắc
của xã hội đối với hành vi đi ngược lại pháp luật, đạo đức, văn minh của họ, và cùng từ
đó giúp họ nhận ra lỗi lầm, cải tạo họ thành người có ích.
Thứ hai, trách nhiệm hình sự luôn luôn được thực hiện trong phạm vi quan
hệ pháp luật hình sự giữa một bên là Nhà nước và một bên là người phạm tội. Mối
quan hệ pháp luật hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Khác
với xã hội cổ xưa, xã hội có Nhà nước là xã hội văn minh. Nếu như ở xã hội nguyên
thủy, sự xâm hại quyền, lợi ích của nhau được đáp trả tương ứng và thường đó là
mối quan hệ giữa nạn nhân với người gây hại. Tuy nhiên, trong xã hội văn minh xã hội có Nhà nước, Nhà nước đại diện cho toàn xã hội sẽ lên án và áp đặt ý chí,
trừng trị người phạm tội về những điều xấu mà họ gây ra cho xã hội, cho cá nhân, tổ
chức khác một cách bất hợp pháp.
Thứ ba, trách nhiệm hình sự được áp dụng theo trình tự đặc biệt bởi cơ quan
tư pháp hình sự có thẩm quyền. Bản chất của trách nhiệm hình sự là sự trừng trị,
hậu quả xấu mà người phạm tội phải gánh chịu khi họ thực hiện hành vi phạm tội.
Vì vậy, cần phải có quy trình chặt chẽ để đảm bảo sự công bằng cho nạn nhân cũng
như chính người vi phạm, đảm bảo các mục đích áp dụng trách nhiệm hình sự được
thực hiện, đảm bảo tính nhân văn, nhân đạo cũng như tính văn minh… Trình tự này
được Nhà nước quy định một cách chặt chẽ trong pháp luật tố tụng hình sự - các
quy định về mặt hình thức nhằm thực hiện pháp luật hình sự.

Thứ tư, trách nhiệm hình sự chỉ được thể hiện tại bản án của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật bằng việc kết tội và áp dụng đối với người phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định.
Thứ năm, đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân, trách nhiệm hình sự áp
dụng đối với người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật hình sự

13


quy định. Trách nhiệm hình sự đối với cá nhân mang tính cá biệt đối với mỗi người
vi phạm, mặc dù nhiều người cùng thực hiện hành vi vi phạm giống nhau, có vai trò
như nhau nhưng trách nhiệm hình sự đối với mỗi cá nhân thực hiện hành vi phạm
tội là riêng biệt.
Đây là trách nhiệm hình sự của mọi loại tội phạm. Tuy nhiên, đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi, như phân tích trên, họ có những điểm đặc biệt trong phát
triển tâm sinh lý, thêm vào đó, trách nhiệm hình sự đối với họ chủ yếu mang tính
cải tạo, giáo dục là chủ yếu, tính chất trừng trị chỉ là thứ yếu. Do đó, trách nhiệm
hình sự của người phạm tội dưới 18 tuổi có những nét đặc thù riêng, theo hướng có
lợi hơn so với với người phạm tội từ đủ 18 tuổi trở lên (người phạm tội đã thành
niên) như:
Về mức độ, trách nhiệm hình sự của người phạm tội dưới 18 tuổi có tính chất
giảm nhẹ hơn so với người phạm tội đã thành niên.
Về điều kiện áp dụng các chế định ở Phần chung của Bộ luật Hình sự như
xóa án tích, giảm mức hình phạt…. đối với người phạm tội phạm tội dưới 18 tuổi
thấp hơn so với điều kiện áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội như án đã
tuyên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm…
Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự, người phạm tội dưới 18 tuổi, đặc biệt
là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
một số tội phạm nhất định như tội cướp tài sản, tội giết người…

Về hình phạt, người phạm tội dưới 18 tuổi chỉ phải chịu một số hình phạt mà
Bộ luật Hình sự quy định. Đặc biệt, họ không phải chịu hai hình phạt nghiêm khắc
nhất là tù chung thân và tử hình và họ không phải chịu hình phạt bổ sung. Đối với
cùng hình phạt, người phạm tội dưới 18 tuổi chịu hình phạt nhẹ hơn so với người
phạm tội đã thành niên nếu họ có cùng điều kiện áp dụng và vị trí, vai trò trong thực
hiện hành vi phạm tội.
Về mặt hình thức, việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi được tiến hành theo thủ tục đặc biệt. Không chỉ riêng pháp luật Việt
Nam mà pháp luật các quốc gia khác trên thế giới đều có những quy định tố tụng

14


riêng để áp dụng đối với đối tượng là người phạm tội dưới 18 tuổi được thể hiện ở
các quy định về tiêu chuẩn của những người tham gia tố tụng; về điều kiện áp dụng
các biện pháp ngăn chặn; về việc tham gia bắt buộc của người bào chữa; về sự tham
gia của gia đình, nhà trường trong quá trình tố tụng…
Như vậy, trách nhiệm hình sự của người phạm tội dưới 18 tuổi có những
điểm đặc biệt và mang tính đặc thù xuất phát từ chính đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt
của người phạm tội dưới 18 tuổi.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, mục đích và ý nghĩa áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Hình phạt là một trong những đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học luật
hình sự. Khái niệm hình phạt cũng được nhiều nhà khoa học định nghĩa khác nhau như:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong
Bộ luật Hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm, nhằm
trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ
chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân" [15,
trang 29]; “hình phạt là biện pháp cưỡng chế của nhà nước do Toà án áp dụng đối với
người thực hiện tội phạm theo quy định của luật hình sự, tước bỏ hoặc hạn chế những

quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người
phạm tội và ngăn ngừa tội phạm" [44, trang 23]; "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật của Toà án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy
định của pháp luật hình sự" [2, trang 10]…
Dưới góc độ pháp luật thực định, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chỉ đến
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999, Nhà nước mới quy định khái niệm hình
phạt tại Điều 26: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt
được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Toà án quyết định”. Kế thừa quy định
này, tại Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định khái niệm hình phạt: Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong
Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương

15


mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân
thương mại đó.
Như vậy, cho dù khái niệm hình phạt được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau như trên, nhưng về bản chất, cho dù là định nghĩa như thế nào thì hình phạt
đều mang những đặc trưng sau:
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước.
Tính nghiêm khắc của hình phạt ở việc mặc dù Nhà nước đặt ra nhiều biện pháp cưỡng
chế như xử phạt hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về tài sản, xử lý kỷ luật… nhưng
chỉ có hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, vì: hình phạt hạn chế hoặc
tước bỏ quyền tự do thân thể, lợi ích kinh tế, cá biệt hình phạt còn loại bỏ quyền được
sống của người phạm tội….
Thứ hai, hình phạt chỉ được và phải được quy định trong Bộ luật Hình sự. Chỉ
có Bộ luật Hình sự mới có thể xác định tội phạm và hình phạt dành cho mỗi tội phạm

cụ thể, không thể có văn bản nào khác được quy định điều này.
Thứ ba, hình phạt được áp dụng theo bản án của Tòa án. Mặc dù có hệ thống
cơ quan tư pháp và trình tự, thủ tục tư pháp áp dụng đối với chủ thể tội phạm nhưng
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền tuyên án - xác nhận tội danh cho người phạm
tội đồng thời cũng là cơ quan duy nhất áp dụng hình phạt đối với chủ thể đó.
Thứ tư, hình phạt được áp dụng đối với chủ thể của tội phạm. Chỉ chủ thể
nào phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự mới phải chịu và bị áp dụng hình
phạt được quy định tương ứng với tội danh đó.
Thứ năm, hình phạt là công cụ để luật hình sự thực hiện nhiệm vụ của mình là
bảo vệ chế độ, bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong
xã hội; là công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng chống tội phạm.
Hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi mang đầy đủ
các đặc trưng trên của hình phạt. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, người chưa
thành niên phạm tội là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý, chưa
nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện,
người chưa thành niên dễ có nguy cơ thực hiện tội phạm nếu họ sống trong một môi
trường xã hội không lành mạnh, tỷ lệ tội phạm cao. Bên cạnh đó, người chưa thành

16


niên cũng là người dễ uốn nắn, cải tạo, việc giáo dục, cải tạo người chưa thành niên
thường dễ dàng hơn so với người đã thành niên, đạt hiệu quả của hình phạt cao hơn.
Trong pháp luật hình sự, người phạm tội dưới 18 tuổi là chủ thể đặc biệt và cũng là
đối tượng bảo vệ của pháp luật hình sự. Trách nhiệm hình sự, hình phạt áp dụng đối
với người phạm tội dưới 18 tuổi chủ yếu mang tính chất giáo dục, cải tạo họ là
chính, việc trừng trị đối tượng này cũng chỉ yếu hướng đến mục đích trên. Do đó,
người phạm tội dưới 18 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự ở mức nhẹ hơn so với
người phạm tội thành niên. Tức là, hình phạt áp dụng đối với họ sẽ ít nghiêm khắc
hơn so với hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên trong cùng điều kiện và

họ cùng thực hiện hành vi có mức độ nguy hiểm ngang nhau. Và chỉ một số hình
phạt được áp dụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi, không áp dụng hình phạt bổ
sung hay hình phạt tù chung thân, hình phạt tử hình đối với chủ thể tội phạm này.
Như vậy, có thể khái quát, hình phạt áp dụng đối với người phạm tội dưới 18
tuổi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do Tòa án quyết định cụ thể áp dụng đối người phạm tội từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi bị tuyên án được thể hiện bằng sự tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của
người đó nhằm giáo dục, cải tạo, trừng trị họ để họ trở thành thành người có ích cho
xã hội, góp phần bảo vệ chế độ, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội, của toàn xã hội và của Nhà nước.
Do đó, có thể định nghĩa: Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18
tuổi được hiểu là việc xác định hình phạt cụ thể được áp dụng đối với người phạm
tội dưới 18 tuổi sau khi đã tuyên án đối với họ, bao gồm: loại hình phạt áp dụng,
mức độ hình phạt áp dụng. Như vậy, sau khi tuyên án đối với người phạm tội dưới
18 tuổi, Tòa án sẽ xác định cụ thể hình phạt được áp dụng đối với họ. Tuyên án và
áp dụng hình phạt là quá trình liên tiếp nhau. Tuyên án là điều kiện cần và áp dụng
hình phạt là điều kiện đủ để xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
nói chung và người phạm tội dưới 18 tuổi nói riêng. Có thể có tuyên án nhưng
không có áp dụng hình phạt khi Tòa án xác định người phạm tội thuộc trường hợp
miễn trách nhiệm hình sự. Nhưng về cơ bản và phổ biến vẫn là tuyên án và áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội.

17


Hoạt động áp dụng hình phạt đối với người phạm tội có những đặc điểm
chính sau:
Thứ nhất, đây là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự do Tòa án
thực hiện. Chỉ có Tòa án mới có chức năng áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội. Các cơ quan tư pháp khác hoặc chỉ có chức năng tham gia vào việc làm rõ tội

phạm, đề xuất Tòa án xử lý đối với tội phạm đã xảy ra hoặc là tổ chức thực hiện bản
án của Tòa án, tức là tổ chức thi hành hình phạt đối với người phạm tội. Việc áp
dụng hình phạt của Tòa án ngoài việc tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng
hình sự quy định còn phải căn cứ vào tội danh cụ thể, hình phạt được quy định, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… do pháp luật hình sự quy định.
Đây là việc Tòa án hiện thực hóa hình phạt được quy định trong pháp luật hình sự
đối với tội phạm cụ thể xảy ra trên thực tế.
Thứ hai, áp dụng hình phạt là giai đoạn kế tiếp của tuyên án - xác định tội
danh của tội phạm đã xảy ra và không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm
hình sự. Nếu không xác định được tội danh thì có nghĩa người đó không phải là tội
phạm, do đó, không phải chịu trách nhiệm hình sự, tức là không thể bị trừng trị
bằng hình phạt. Việc áp dụng hình phạt chỉ có thể được tiến hành sau khi xác định
tội danh của tội phạm - việc phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm được
pháp luật quy định và cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với chủ thể của tội phạm
đã thực hiện.
Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ngoài
việc mang các đặc điểm chính trên còn có một số điểm đặc thù như:
Một là, người phạm tội dưới 18 tuổi, đặc biệt là người phạm tội từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội danh nhất
định, do đó, hình phạt đối với họ cũng chỉ trong phạm vi và khi họ thực hiện các tội
danh này.
Hai là, người phạm tội dưới 18 tuổi chỉ phải chịu một số hình phạt nhất định mà
không phải tất cả các hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự như họ không
phải chịu hình phạt tù chung thân, án tử hình; họ cũng không phải chịu hình phạt bổ
sung. Mặt khác, khi không cần thiết áp dụng hình phạt thì người phạm tội dưới 18 tuổi

18


có thể được xem xét để chuyển sang áp dụng các biện pháp tư pháp khác dành riêng

cho loại chủ thể tội phạm này như khiển trách, hòa giải tại cộng đồng…
Ba là, về mức hình phạt cụ thể, người phạm tội dưới 18 tuổi phải chịu mức
hình phạt nhẹ hơn người đã thanh niên nếu họ phạm tội trong cùng điều kiện.
1.3 Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
Người dưới 18 tuổi phạm tội là một thực tế mà đỏi hỏi pháp luật hình sự của
các quốc gia trên thế giới đều phải điều chỉnh. Mặc dù xuất phát từ nguyên tắc nhân
đạo trong pháp luật quốc tế và quốc gia nhưng việc phạm tội của người dưới 18 tuổi
không thể không bị truy cứu để đảm bảo an toàn xã hội, đảm bảo sự ổn định và phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị, truyền
thống pháp luật và các yếu tố chi phối khác mà mỗi quốc gia có quan điểm riêng và
quy định nó pháp luật trong pháp luật hình sự của mình để giải quyết vấn đề người
phạm tội dưới 18 tuổi.
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, thực tế tồn tại ở tất cả
các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội bằng những cách thức khác nhau tùy theo
điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp luật và quan điểm của nhà lập pháp.
* Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trong
pháp luật hình sự Liên bang Nga
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga được ban hành năm 1996 và được sửa đổi, bổ
sung năm 2010 hiện đang có hiệu lực. Trong Bộ luật này, người phạm tội dưới 18
tuổi được gọi là người chưa thành niên phạm tội như cách gọi trong Bộ luật Hình sự
năm 1999 của Việt Nam. Cũng giống như pháp luật hình sự Việt Nam, Bộ luật Hình
sự Liên bang Nga cũng ban hành một chế định (một chương riêng) quy định về
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội tại Mục 5 Chương 14 [38,
trang 126].
Điều 87 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga quy định: “người chưa thành niên là
người thực hiện tội phạm đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi”. Với chủ thể tội phạm
này, quan điểm của Nhà nước và pháp luật Liên bang Nga là nhằm mục đích giáo dục,


19


phòng ngừa là chủ yếu. Do đó, Điều 88 quy định: “Đối với người chưa thành niên
phạm tội có thể quyết định hình phạt hoặc áp dụng biện pháp giáo dục bắt buộc”.
Người chưa thành niên phạm tội được áp dụng áp dụng biện pháp giáo dục khi: “Người
chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng có thể được miễn trách
nhiệm hình sự nếu xác định được rằng việc giáo dục cải tạo người chưa thành niên
phạm tội có thể đạt được hiệu quả thông qua áp dụng các biện pháp giáo dục bắt
buộc” (Điều 90).
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga ưu tiên áp dụng các quy định có lợi cho
người chưa thành niên. Việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giáo
dục bắt buộc được quy định tại Điều 90 và miễn chấp hành hình phạt được quy định
tại Điều 92 với những điều kiện rõ ràng, có lợi và hướng đến người chưa thành niên
nên quy định rất mở và tạo điều kiện để áp dụng một cách triệt để đối với các
trường hợp người chưa thành niên phạm tội. Ngoài ra, Bộ luật Hình sự Liên bang
Nga còn cho phép áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa
thành niên, tức là áp dụng các biện pháp thay thế trong trường hợp không cần thiết
phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội như: Cảnh cáo; giao
cho cha mẹ hoặc người thay cha mẹ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; buộc
bồi thường thiệt hại gây ra; hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những đòi hỏi riêng đối
với cư xử người chưa thành niên được quy định tại các Điều 90, Điều 91.
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga quy định chỉ một số hình phạt được áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội, gồm: phạt tiền; tước quyền làm công việc
nhất định; lao động bắt buộc; lao động cải tạo; hạn chế tự do và tù có thời hạn, đồng
thời quy định rõ điều kiện và thời hạn áp dụng đối với mỗi loại hình phạt này. Bộ
luật hình sự Liên bang Nga quy định không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử
hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Hình phạt tù giam được áp dụng đối
với người chưa thành niên ở mức nhẹ hơn so với người trưởng thành và chỉ áp dụng
đối với người từ 16 tuổi trở lên. Mức phạt tù đối với người chưa thành niên bị kết án

là không quá 10 năm Điều 88 (trong khi đó thời hạn phạt tù đối người thành niên
quy định tại Điều 57 là không quá 20 năm).
Chỉ khi thật cần thiết Bộ luật Hình sự Liên bang Nga mới cho phép áp dụng

20


hình phạt tù đối với người phạm tội. Và ngay cả khi còn có thể áp dụng án treo thì
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga vẫn cho phép áp dụng trong trường hợp tái
phạm:“Trong trường hợp phạm nhân là người chưa thành niên được hưởng án
treo, mà trong thời gian thử thách lại phạm một tội mới, nhưng không đặc biệt
nghiêm trọng thì Tòa án sẽ căn cứ vào những tình tiết của vụ án và nhân thân người
phạm tội có thể lặp lại quyết định về hình phạt án treo đối với người đó sau khi đã
xác định thời hạn thử thách mới và buộc người này phải thực hiện những trách
nhiệm đã được quy định đối với được hưởng án treo căn cứ vào khoản 5 Điều 73
Bộ luật này” [38, trang 130].
Việc quyết định áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
được Bộ luật Hình sự Liên bang Nga quy định rất chặt chẽ tại Điều 89. Theo đó,
việc quyết định áp dụng hình phạt ngoài việc tuân thủ các căn cứ chung như: tính có
lỗi của hành vi phạm tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội; các tình tiết tăng
nặng giảm nhẹ thì khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên, Tòa án
có thẩm quyền còn phải căn cứ vào các yếu tố:
Thứ nhất, tính đến hoàn cảnh sinh sống và giáo dục, mức độ phát triển tâm
sinh lý, các đặc điểm khác về nhân thân khác và cả tầm ảnh hưởng của những người
lớn tuổi hơn đối với người phạm tội chưa thành niên.
Thứ hai, căn cứ độ tuổi chưa thành niên và xem đây như một tình tiết giảm
nhẹ được cân nhắc cùng với các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ hình phạt khác. Tức
là, tuổi càng nhỏ thì việc giảm nhẹ càng phải được lưu ý và đây là tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
Các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga (trừ biện pháp giáo dục hoặc chữa bệnh dành
riêng cho người chưa thành niên) còn được phép áp dụng trong trường hợp đặc biệt
đối với người tù 18 đến 20 tuổi sau khi Tòa án cân nhắc tính chất của hành vi phạm
tội và nhân thân người phạm tội (Điều 96). Quy định này giúp cho những người trẻ
tuổi mắc sai lầm có thêm cơ hội hưởng khoan hồng của pháp luật để phấn đấu trở
lại làm người có ích cho xã hội.

21


* Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo
pháp luật hình sự Nhật Bản
Bộ luật Hình sự hiện hành của Nhật Bản được ban hành năm năm 1907, và
được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, lần gần đây nhất là sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật này thì: “Hành vi của người dưới 14 tuổi
không bị xử phạt”. Bộ luật Hình sự của Nhật Bản không phân biệt người phạm tội
chưa thành niên với người phạm tội đã thành niên (trưởng thành), do đó, không có
chế định riêng quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội.
Do đó, về nguyên tắc, tất cả các hình phạt được quy định tại Điều 9 và chương II Bộ
luật Hình sự Nhật Bản đều có thể được áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội, bao gồm các hình phạt: Tử hình; Tù có lao động bắt buộc; Tù không có
lao động bắt buộc; Phạt tiền; Phạt giam hình sự; Phạt tiền về tội hình sự nhỏ; Phạt
giam vì không nộp đủ tiền phạt [50].
Nhật Bản có nền giáo dục tiên tiến và truyền thống xã hội kỷ luật cao, trong
nhiều năm gần đây tỷ lệ sinh rất thấp, do đó, người chưa thành niên được xã hội đặc
biệt quan tâm chăm sóc, giáo dục nên tình hình người chưa thành niên phạm tội
không là đáng kể. Nhật Bản cũng dành sự quan tâm, đối đãi đặc biệt đối với người
chưa thành niên phạm tội. Tuy không được quy định trong Bộ luật Hình sự nhưng
trong Luật người chưa thành niên quy định mang tính nguyên tắc là “không trừng
phạt những người chưa thành niên phạm tội mà giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến

hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của người chưa thành niên phạm
tội và tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh người chưa thành niên đã mắc
phải sai lầm” [50]. Theo đó, việc xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội phải
phải “chân tình, có lợi” cho người chưa thành niên và “cần có mọi cố gắng để bảo
vệ cho được những thuộc tính cao đẹp nhất của người chưa thành niên và làm cho
người chưa thành niên có niềm tin”. Do đó, trên thực tế, người chưa thành niên ở
Nhật Bản ít bị xét xử về hình sự và áp dụng hình phạt mà chủ yếu được xử lý bằng
các biện pháp cải tạo phi hình sự. Vì vậy, nghiên cứu Bộ luật hình sự Nhật Bản cho
thấy không quy định riêng về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên,

22


mà chỉ có nguyên tắc chung phục vụ cho thực tiễn khi xét xử phải theo hướng giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt không quá nghiêm khắc mà thôi.
* Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo
pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển
Pháp luật hình sự hiện hành của Vương quốc Thụy Điển là Bộ luật hình sự năm
1962 và được sửa đổi, bổ sung lần gần đây nhất năm 2009. Bộ luật Hình sự Vương
quốc Thụy Điển thể hiện chính sách hình sự hết sức nhân đạo của Nhà nước Thụy Điển
và không quy định hình phạt tử hình, hình phạt cao nhất chỉ là tù chung thân.
Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự là đủ 15 tuổi trở lên và người chưa thành niên theo pháp luật hình sự của Thụy
điển là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 21 tuổi.
Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội quy định trong Bộ luật
Hình sự Vương quốc Thụy Điển bao gồm: phạt tiền, phạt tù có thời hạn, hình phạt
có điều kiện, buộc phải chịu thử thách và đưa vào cơ sở chăm sóc đặc biệt. Khi
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Bộ luật Hình sự
Vương quốc Thụy Điển quy định: Tòa án phải đặc biệt cân nhắc đến độ tuổi của
người đó, hình phạt áp dụng phải nhẹ hơn hình phạt quy định đối với tội phạm

tương ứng do người đã thành niên thực hiện [37, trang 282] (Điều 3 Chương 1 và
Điều 7 Chương 29).
Điều 7 chương 29 Bộ luật Hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định: “Khi
quyết định hình phạt đối với người phạm tội dưới 21 tuổi, Tòa án cần đặc biệt cân
nhắc đến độ tuổi của người đó nhưng hình phạt không được nhẹ hơn so với hình
phạt đã quy định đối với tội đã thực hiện. Hình phạt tù chung thân không áp dụng
đối với người phạm tội dưới 21 tuổi”.
Các hình phạt được phép áp dụng đối với người chưa thành niên được quy
định trong Bộ luật hình sự bao gồm: phạt tiền, phạt tù có thời hạn, hình phạt có điều
kiện, buộc phải chịu thử thách và đưa vào cơ sở chăm sóc đặc biệt. Hình phạt tù
chung thân - hình phạt nghiêm khắc nhất trong Bộ luật Hình sự Vương quốc Thụy
Điển đối với người dưới 21 tuổi phạm tội.
Theo quy định tại Điều 5 Chương 30: “Đối với người phạm tội dưới 18 tuổi,

23


×