Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.78 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THÙY DƯƠNG

CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ
TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào khác
Tác giả luận văn

PHẠM THÙY DƯƠNG


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCNVN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

VKS

Viện kiếm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU…………………………………………………………
1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA
7 VỤ ÁN VỀ TỘ
1.1. Khái niệm, các thuộc tính của chứng cứ và phân loại chứng cứ..
7
1.2. Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản………………..
14
1.3. Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp
tài sản…………………………………………………………………..
21
Chương 2. THỰC TIỄN THU THẬP, KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN TẠI
TỈNH HẢI DƯƠNG…………………………………………………
29
2.1. Những yếu tố tác động tới hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương 29
………….
2.2. Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ
cướp tài sản tại tỉnh Hải Dương từ năm 2013 đến 2017……………
34
2.3. Đánh giá, nhận xét thực trạng hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải
Dương………………………………………………………………….
50
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
THU THẬP, KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG
ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI 56
DƯƠNG

3.1. Một số dự báo về các yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc thu
thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản
tại tỉnh Hải Dương trong thời gian tới……………………………….
56
3.2. Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
thu thập, kiểm tra xác minh và đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án
cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương………………………………
61
KẾT LUẬN………………………………………………………….
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………
76
PHỤ LỤC……………………………………………………………
78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cũng như các BLHS
trước đây, Tội cướp tài sản luôn là một trong những tội nghiêm trọng nhất của
Chương Các tội xâm phạm sở hữu và luôn được xếp ở vị trí đầu tiên của
Chương. Tội cướp tài sản là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vì cùng một lúc
xâm hại tới hai khách thể quan trọng đó là tính mạng, sức khỏe, tự do, danh
dự của con người và quyền sở hữu tài sản. Tính nguy hiểm của tội phạm này
còn được thể hiện ở việc các đối tượng phạm tội cướp tài sản có xu hướng
phạm tội có tổ chức, manh động, sử dụng các loại vũ khí và hoạt động gây án
liên tục. Tội cướp tài sản đã và đang gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về
người và tài sản, tác động xấu tới tình hình an ninh trật tự, tạo ra tâm lý hoang
mang, lo sợ cho cộng đồng dân cư, làm đảo lộn cuốc sống sinh hoạt và làm ăn
của người dân.

Đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp tài sản luôn là mối quan tâm lớn
của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội, đặc biệt là các cơ quan Tư pháp,
gồm Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án. Để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm
này thì việc điều tra, khám phá, làm rõ hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội và xử lý nghiêm minh, đúng tội, đúng pháp luật đối với
người phạm tội cướp tài sản có ý nghĩa vô cung to lớn. Tuy nhiên, để chứng
minh một người phạm tội cướp tài sản và buộc họ phải chịu hình phạt theo
quy định tài Điều 168 BLHS năm 2015 sứa đổi, bổ sung năm 2017 thì việc
dựa vào hệ thống chứng cứ để chứng minh có ý nghĩa quyết định. Điều 13
BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và
không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ
1


luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết
luận người bị buộc tội không có tội”. Điều đó có nghĩa là một người chỉ bị coi
là có tội và phải chịu hình phạt tương ứng khi đã có bản án kết tội có hiệu lực
của Tòa án. Để có được như vậy thì toàn bộ hoạt động của Cơ quan điều tra,
VKS và Tòa án phải được tiến hành đồng bộ mà thực chất là hoạt động thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Đây là nội dung cơ bản của việc áp dụng
pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong giải quyết vụ án hay nói cách khác
là một biện pháp đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống.
Nằm ở trung tâm các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Hải Dương có một vị trí
rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Là
một đô thị phát triển sớm ở đồng bằng Bắc bộ, Hải Dương là nơi có mật độ
dân cư cao. Trên địa bàn Tỉnh có nhiều trụ sở cơ quan Đảng, Nhà nước, các
trường học của địa phương và Trung ương. Hải Dương là một tỉnh khá năng
động và có nhiều tiềm năng nên có nhiều doanh nghiệp thuộc đủ mọi thành

phần kinh tế đang hoạt động, đáng chú ý là một số doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đang hoạt động trên địa bàn tỉnh. Tình hình đó có quan hệ chặt
chẽ tới diễn biến phức tạp về an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, Hải
Dương lại nằm trên trục giao thông quan trọng liên kết ba trung tâm kinh tế chính trị lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Điều này càng cho thấy
Hải Dương là một địa bàn phức tạp về an ninh trật tự, là một địa bàn nhạy
cảm đối với các băng nhóm tội phạm từ các tỉnh khác thâm nhập hoặc “lánh
nạn” mỗi khi có các chiến dịch truy quét tội phạm ở các địa phương lân cận.
Hàng năm trên địa bàn tỉnh Hải Dương xảy ra hàng trăm vụ phạm pháp hình
sự Bảng 2.1 – hụ lục Trong số các vụ án hình sự được thống kê, tỉnh Hải
Dương luôn có thống kê riêng về các vụ án Cướp tài sản, điều đó thể hiện sự
quan tâm đặc biệt của Công an tỉnh Hải Dương với loại tội phạm này. Qua
thống kê hàng năm, các tội phạm Cướp tài sản chỉ chiếm tỉ lệ không lớn,

2


trung bình chỉ khoảng 20 đến 30 vụ án 1 năm nhưng các vụ án Cướp tài sản
luôn gây ra những hậu quả lớn cho địa phương, các hành vi cướp thường làm
cho người dân lo lắng, ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt, học tập và làm việc
của dân cứ trên địa bàn.
Theo báo cáo kết quả điều tra khám phá các vụ án hình sự của CQĐT
Công anh tỉnh Hải Dương, trong 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017 đã phát
hiện 3888 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra làm rõ 3094 vụ đạt 80%. Đối với
vụ án cướp tài sản, có 143 được phát hiện, điều tra làm rõ 130 vụ với 255 bị
can đạt tỉ lệ 91%. Trong quá trình giải quyết các vụ án cướp tài sản, VKS đã
trả lại 05 trường hợp để điều tra bổ sung, chiếm 3,8% do chưa đủ chứng cứ
chứng minh tội phạm. Có vụ án còn phải gia hạn điều tra vì chưa thu thập đầy
đủ chứng cứ. CQĐT đã đình chỉ điều tra 03 vụ với 5 bị can. Những số liệu
trên cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng còn một số hạn chế như không thu
thập đầy đủ, kịp thời các loại chứng cứ, đôi khi còn vi phạm về thủ tục thu

thập chứng cứ, chưa đánh giá đúng giá trị của từng chứng cứ cũng như mối
liên hệ giữa các chứng cứ trong tổng thể các chứng cứ của vụ án cướp tài sản
xảy ra trên địa bàn. Những hạn chế này đã làm cho việc điều tra, khám phá
các vụ án cướp tài sản còn kéo dài, tỉ lệ điều tra phá án chưa cao. Như vậy
việc nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thu thập, kiểm tra và
đánh giá chứng cứ trong điều tra các vụ án cướp tài sản trên địa bản tỉnh Hải
Dương cũng như đánh giá thực trạng hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương, từ đó
đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này
trong tình hình hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì vậy tội chọn đề tài:
“Chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải
Dương” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có các công trình khoa học nghiên cứu về việc thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ như sau: Luận án Tiến sĩ Luật học: “Đấu tranh phòng,
chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội” của tác giả Đỗ Kim Tuyến
(2001); Luận án Tiến sĩ luật học: “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương
2000 Luận văn Thạc sĩ Luật học “chứng cứ trong các vụ án vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Cà
Mau" của tác giả Huỳnh Minh Tính (2016) Luận văn Thạc sĩ Luật học “Hoạt
động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác th o pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình hước” của tác giả Nguyễn Văn Chạm
(2017). Ngoài ra các nhà khoa học và một số tác giả cũng đã quan tâm đến
một số nội dung của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự và đã đề cập

đến trong một số giáo trình, sách, tài liệu, tạp chí chuyên ngành như: Chứng
cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư háp, Hà Nội – 2005, do
ThS. Nguyễn Văn Cừ chủ biên. Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự,
Nsb Tư háp, Hà Nội – 2006, do TS. Đỗ Văn Đương chủ biên. Giáo trình
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Bộ môn Pháp Luật – 2009, của Học viện An
ninh nhân dân. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2013, do GS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên. Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội – 2013, Trường
Đại học Luật Hà Nội. Bình Luận khoa học BLHS tập 2, Nxb Lao động, Hà
Nội – 2012, do tác giả Đinh Văn Quế chủ biên. Bình luận khoa học BLTTHS
của nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Tư háp, Học viện Khoa học xã hội, do
GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên. Các công trình nêu trên chủ yếu đi sâu
nghiên cứu về mặt lý luận quá trình chứng minh trong điều tra vụ án hình sự.
Hiện nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cụ thể

4


về hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp
tài sản nói chung, từ thực tiễn tỉnh Hải Dương nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của việc nghiên cứu là trên cơ sở sáng tỏ lý luận về chứng cứ
và hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội
cướp tài sản, đánh giá hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng
cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hải
Dương, Luận văn đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản.
- Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
+ Nghiên cứu các vấn đề lý luận về Chứng cứ và hoạt động thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản;

Đánh giá thực tiễn thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra
vụ án về tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản trên địa bản
tỉnh Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng hoạt động thu thập, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài sản của Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương trên cơ sở BLTTHS năm 2003,
năm 2015 và những văn bản pháp luật có liên quan.
- hạm vi nghiên cứu: Về không gian là địa bàn tỉnh Hải Dương, về thời
gian từ năm 2013 đến 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chính sách hình
sự quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội
Cướp tài sản nói riêng.
5


hương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể
như: hương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, nghiên cứu thực
tiễn, ví dụ điển hình thông qua những hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra, bản
án, quyết định, báo cáo tổng kết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh
Hải Dương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về khoa học cũng như thực
tiễn.
- Về khoa học: Luận văn góp tiếng nói khiêm tốn vào lý luận về thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp tài.

- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được tham khảo trong hoạt động
lập pháp cũng như thực tiễn hoạt động điều tra các vụ án về tội cướp tài sản.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về tố tụng hình sự, điều tra tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về chứng cứ trong điều tra vụ án về tội cướp
tài sản.
Chương 2: Thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án
cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, kiểm tra và
đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải
Dương.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ
ÁN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, các thuộc tính của chứng cứ và phân loại chứng cứ
1.1.1. Khái niệm chứng cứ
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
chỉ có thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng
minh về việc phạm tội cũng như con người thực hiện tội phạm và những tình
tiết có liên quan. Việc tiến hành chứng minh làm rõ vụ án là quá trình nhận
thức chân lý, sự việc phạm tội đã xảy ra, bằng việc thu thập các tài liệu dùng
làm căn cứ để khôi phục toàn bộ diễn biến của vụ án đưa đến một nhận thức
đúng đắn mang tính khách quan về sự việc phạm tội và con người phạm tội.

Trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì bất
kỳ tội phạm nào xảy ra chúng ta đều có thể phát hiện và chứng minh được. Vì
vậy, không thể có tội phạm không bị phát hiện, chỉ có điều chúng ta có chứng
minh làm rõ vụ án hay không. Về nguyên tắc, hoạt động của con người bao
giờ cũng để lại dấu vết trong thế giới khách quan, trong đó có hành động
phạm tội. Những dấu vết của hành vi phạm tội có thể được thể hiện dưới dạng
vật chất như: dấu vết phạm tội, tồn tại trên công cụ, phương tiện phạm tội,
dấu vân tay của người phạm tội để lại trên hiện trường, vết dao đâm của
người phạm tội để lại trên nạn nhân… Hoặc được phản ánh, ghi nhận trong trí
nhớ của con người có thể là nạn nhân hay người khác… Thu thập những dấu
vết này một cách có hệ thống qua quá trình tiến hành tố tụng sẽ đưa đến sự
nhận thức đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại được toàn bộ diễn biến của
sự việc phạm tội.
Như vậy, chứng cứ là phương tiện duy nhất để chứng minh tội phạm, làm
rõ những tình tiết của vụ án. Chứng cứ được quy định trong Luật tố tụng hình

7


sự, tùy vào bản chất giai cấp của mỗi nhà nước và trên cơ sở phương pháp
luận nhận thức khác nhau mà có những quy định khác nhau về chứng cứ.
Trên nền tảng của học thuyết duy vật biện chứng và thực tiễn cuộc đấu
tranh chống tội phạm ở Việt Nam, Điều 86 BLTTHS năm 2015 đã quy định
về chứng cứ như sau:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do
Bộ Luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có
ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án” [12. Tr.88, 89].
Khái niệm chứng cứ trong Luật TTHS Việt Nam phản ánh nội dung và
hình thức của chứng cứ. Về nội dung, chứng cứ là những gì có thật được dùng

làm căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành
vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án. Về hình thức, chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do
BLTTHS quy định. Chứng cứ được phát hiện, thu thập nhằm mục đích chứng
minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội và làm rõ những tình tiết
khác liên quan đến vụ án để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ
Chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự được sử dụng làm phương tiện
duy nhất để chứng minh tội phạm, làm rõ các tình tiết của vụ án. Cho nên,
bất kỳ thông tin, tài liệu nào chỉ được coi là chứng cứ trong vụ án hình sự
khi đảm bảo đầy đủ ba thuộc tính, đó là tính khách quan, tình liên quan và
tính hợp pháp.
- Tính khách quan của chứng cứ
Thuộc tính khách quan của chứng cứ đòi hỏi chứng cứ phải là những gì
có thật, tồn tại khách quan độc lập với ý thức chủ quan của con người. Những
gì có thật đó phải phù hợp với các tình tiết của vụ án đã xảy ra. Trên cơ sở
8


nhận thức đó những gì là sản phẩm của sự suy đoán chủ quan, không xuất
phát từ thực tế khách quan thì không thể là căn cứ chứng minh đối với vụ án
hình sự.
- Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan của chứng cứ là sự thể hiện mối liên hệ khách quan của sự
kiện có thật với những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, nghĩa
là nó đòi hỏi những gì có thật (sự việc, hiện tượng, dấu vết, tài liệu… phải
liên quan đến những vấn đề cần chứng minh đối với vụ án hình sự.
Như vậy, không phải bất kỳ cái gì có thật tồn tại trong thế giới khách
quan đều trở thành chứng cứ, mà chỉ những cái có thật, liên quan đến những
vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự thì mới có thể trở thành

chứng cứ.
Thuộc tính liên quan của chứng cứ không phải bao giờ cũng dễ nhận
thấy, cũng dễ xác định mà nhiều lúc rất khó xác định trong một khoảng thời
gian nhất định. Do đó trong công tác điều tra, truy tố, xét xử phải luôn luôn
chủ ý thu thập các sự kiện có thật một cách tỷ mỉ, rộng rãi để không bỏ sót
mọi sự kiện có liên quan đến vụ án nhưng cũng tránh tình trạng thu thập một
cách tràn lan, tùy tiện, thu thập chứng cứ ở một phạm vi quá rộng so với vụ án
hoặc quá hẹp so với yêu cầu chứng minh của một vụ án cụ thể.
- Tính hợp pháp của chứng cứ
Tính hợp pháp của chứng cứ được hiểu là những gì có thật, liên quan đến
những vấn đề cần chứng minh trong vụ án phải được ghi lại, phản ánh lại từ
những nguồn của chứng cứ và được thu thập bằng những biện pháp do
BLTTHS quy định.
Nguồn chứng cứ là hình thức pháp lý mà trong đó chứa đựng những gì
có thật, có liên quan đến vụ án hình sự được dùng làm căn cứ để chứng minh

9


tội phạm. Luật tố tụng hình sự đã quy định những loại nguồn chứng cứ sau
đây:
+ Vật chứng;
+ Lời khai, lời trình bày;
+ Dữ liệu điện tử;
+ Kết luận giám định, định giá tài sản;
+ Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
+ Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
+ Các tài liệu, đồ vật khác.
Khoản 1, 2, 3 Điều 88 BLTTHS quy định:
“1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có

quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu
điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình
bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi,
nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào
chữa.
3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá
nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình
bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.” [12. Tr. 89,90].
Từ nội dung trên, thấy rằng chứng cứ ngoài việc phải được rút ra từ
những loại nguồn luật định mà còn phải được thu thập bằng những biện pháp
được Luật tố tụng hình sự quy định. Để thu thập chứng cứ, các cơ quan tiến
hành Tố tụng có quyền áp dụng các biện pháp thu thập sau đây:

10


+ Triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về
những vấn đề liên quan đến vụ án;
+ Trưng cầu giám định;
+ Tiến hành khám xét khám người, chỗ ở, nơi làm việc, khám đồ vật,
thư tín, bưu kiện, bưu phẩm th o quy định của pháp luật);
+ Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi;
+ Tiến hành các hoạt động điều tra khác (hỏi cung bị can, đối chất, nhận
dạng, thực nghiệm điều tra… th o quy định của pháp luật);
+ Yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài liệu, trình bày
những tình tiết làm sáng tỏ vụ án;
Ngoài các cơ quan tiến hành Tố tụng có quyền áp dụng các biện pháp thu

thập chứng cứ thì những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất
cứ cá nhân nào cũng đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề
có liên quan đến vụ án. BLTTHS năm 2015 còn bổ sung quyền tự thu thập
chứng cứ của người bào chữa, cho phép người bào chữa có cơ sở pháp lý để tự
mình thu thập chứng cứ hoặc đề nghị các cơ quan khác thu thập chứng cứ.
Chứng cứ phải được phát hiện, thu thập bởi những người có thẩm quyền
do Luật tố tụng hình sự quy định. Để bảo đảm việc áp dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ được tốt, tránh sai sót, BLTTHS đã quy định trình tự, thủ tục
phải tiến hành để đảm bảo tính khách quan và giá trị chứng minh của chứng
cứ, cũng như cấm những việc làm sai trái có thể ảnh hưởng đến giá trị chứng
minh của chứng cứ đồng thời nhằm hạn chế tối đa sự lạm quyền của người
tiến hành tố tụng.
Mặt khác, để giúp cho việc kết luận bản chất vụ án được đúng đắn, khách
quan BLTTHS còn quy định chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá th o đúng
quy định của pháp luật nhằm kết luận về tính xác thực và giá trị chứng minh
của chứng cứ. Điều 108 BLTTHS quy định về kiểm tra, đánh giá chứng cứ:

11


“1. Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp
pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu
thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự.
2. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi
chứng cứ đã thu thập được về vụ án.” [12. Tr. 100].
Đã là chứng cứ thì bao giờ cũng tồn tại trong nó các thuộc tính: tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Những thuộc tính này không
tách rời nhau mà chúng có mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất, thiếu một trong

những thuộc tính đó thì sẽ không có chứng cứ. Song mỗi thuộc tính đều có
một vị trí, vai trò của nó, có ảnh hưởng đến sự hình thành của chứng cứ. Nếu
một trong các thuộc tính của chứng cứ không tốt thì sẽ ảnh hưởng đến giá trị
của chứng cứ.
1.1.3. Phân loại chứng cứ
Việc phân loại chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình chứng
minh vụ án cho phép xác định đúng vị trí, hiệu lực và giá trị chứng minh của
từng chứng cứ trong toàn bộ hệ thống chứng cứ của vụ án. Dựa vào những
căn cứ khác nhau, Luật tố tụng hình sự phân chia thành nhiều loại chứng cứ,
mỗi loại chứng cứ có những đặc điểm riêng biệt.
- Chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại
Căn cứ vào mối quan hệ giữa nguồn phản ánh và sự kiện có thật dùng làm
căn cứ để chứng minh mà chia thành chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại.
Chứng cứ gốc là chứng cứ được ghi lại, phản ánh lại từ nguồn tài liệu
gốc hoặc từ một người trực tiếp biết sự việc mà không phải thông qua khâu
trung gian. Chẳng hạn: thu được khẩu súng kẻ phạm tội dùng để bắn nạn nhân
ngay tại hiện trường xảy ra vụ án; Hoặc công dân A nhìn thấy B dùng dao
12


khống chế để cướp xe máy của một người phụ nữ đi trên đường, A đã thuật
lại sự việc mà mình biết với CQĐT, lời khai của công dân A trước CQĐT tra
là chứng cứ gốc.
Chứng cứ sao lại, thuật lại là những chứng cứ được ghi lại, phản ánh lại
từ nguồn tài liệu sao hoặc từ một người không trực tiếp chứng kiến sự việc
xảy ra mà nghe lời người khác kể lại. Chẳng hạn: A nhìn thấy B dùng dao đ
dọa chị C để cướp dây chuyền vàng, A kể lại chuyện đó cho D nghe và D đã
đến trình bày với CQĐT về sự việc mà A đã nhìn thấy, lời khai của D trong
trường hợp này là chứng cứ thuật lại. Cần phân biệt chứng cứ sao lại, thuật lại
với việc sao chụp th o nghĩa cơ học, kỹ thuật, chẳng hạn lời khai của người

nhìn thất sự việc phạm tội trước CQĐT được ghi vào biên bản. Cán bộ điều
tra đã phô tô biên bản đó để lưu vào hồ sơ thì biên bản được phô tô đó là
chứng cứ gốc chứ không phải là chứng cứ sao lại.
- Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chứng cứ với những vấn đề cần phải chứng
minh trong vụ án hình sự mà chia thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Chứng cứ trực tiếp là những chứng cứ trực tiếp xác định được những tình
tiết thuộc đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự. Ví dụ: Một nhân chứng
có mặt tại nơi xảy ra vụ cướp tài sản của công dân, đã trình bày trước CQĐT
diễn biến của vụ cướp mà mình đã chứng kiến. Lời khai này của người làm
chứng là chứng cứ trực tiếp vì nó đã chứng minh có sự việc phạm tội đã xảy ra.
Chứng cứ gián tiếp là những chứng cứ không trực tiếp xác định được
những tình tiết thuộc đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự, nhưng khi
kết hợp với các sự kiện khác sẽ xác định được tình tiết nào đó thuộc đối tượng
chứng minh. Ví dụ: Khi khám nghiệm hiện trường vụ án giết người cướp tài
sản, CQĐT thu được một con dao dính máu. Một nhân chứng khai trước

13


CQĐT xác nhận con dao này là của X vì đã có lần mượn X con dao đó. Lời
khai của người làm chứng trong trường hợp này là chứng cứ gián tiếp.
- Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội
Căn cứ vào kết quả chứng minh của chứng cứ mà chia thành chứng cứ
buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
Chứng cứ buộc tội là những chứng cứ xác định có tội phạm xảy ra, một
người nào đó đã thực hiện tội phạm hoặc xác định những tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Chứng cứ gỡ tội là những chứng cứ xác định không có sự việc phạm tội
xảy ra, một người nào đó không thực hiện tội phạm, hành vi không cấu thành

tội phạm hoặc xác định những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo.
Hai loại chứng cứ này tuy đối lập nhau nhưng chúng đều xác định sự thật
khách quan của vụ án. Do vậy, trong quá trình chứng minh phải chú ý thu
thập đầy đủ cả hai loại chứng cứ này, nếu chỉ chú ý về một loại chứng cứ nào
đó thì có thể dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
1.2. Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
1.2.1. Khái niệm, phân loại đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
- Khái niệm: Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản là tổng hợp
những sự kiện và tình tiết của vụ án phải được xác định, làm rõ bằng chứng
cứ để giải quyết đúng đắn vụ án cướp tài sản.
Điều 85 BLTTHS năm 2015 đã quy định về những sự kiện, tình tiết phải
chứng minh trong vụ án hình sự mà khi điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự,
các CQĐT, VKS, Tòa án phải chứng minh được, bao gồm:
+ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội;

14


+ Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố
ý hay vô ý có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm
tội;
+ Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
+ Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
+ Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
+ Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Những sự kiện, tình tiết trên là đối tượng chứng minh bắt buộc đối với tất

cả các vụ án hình sự nói chung và như vậy nó cũng chính là đối tượng chứng
minh của vụ án cướp tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh làm
rõ.
Ngoài những tính tiết đó, tùy th o tính chất của từng vụ án cơ quan tiến
hành tố tụng phải chứng minh, làm rõ cả những tình tiết khác có ý nghĩa đối
với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Chẳng hạn đối với vụ án mà bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải
chứng minh một số vấn đề sau:
+ Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tâm thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người chưa thành niên
+ Điều kiện sinh sống và giáo dục;
+ Có hay không có người thành niên xúi giục.
- Phân loại đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản
Trong vụ án cướp tài sản có nhiều nội dung phải chứng minh khác nhau.
Khoa học pháp lý tố tụng hình sự phân loại đối tượng chứng minh thành ba
nhóm như sau:

15


Nhóm thứ nhất: Đối tượng chứng minh thuộc về bản chất của vụ án cướp
tài sản – Các yếu tố cấu thành tội Cướp tài sản. Muốn chứng minh được
những vấn đề thuộc về bản chất của vụ án cướp tài sản, chúng ta phải thu thập
chứng cứ chứng minh được những dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm
Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung 2017), bao gồm: khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm;
mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của tội phạm.
Nhóm thứ hai: Đối tượng chứng minh có ảnh hưởng đến trách nhiệm
hình sự và hình phạt, bao gồm: Chứng minh những tình tiết dẫn đến miễn
trách nhiệm hình sự, quy định tại Điều 29 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm

2017); Chứng minh những tình tiết dẫn đến miễn hình phạt, quy định tại Điều
59 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Chứng minh những tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo quy định tại Điều 52 BLHS
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Chứng minh những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017 .
Nhóm thứ ba: Đối tượng chứng minh là những tình tiết có ý nghĩa đối
với việc giải quyết đúng đắn vụ án cướp tài sản. Đây là nhóm đối tượng
chứng minh không thuộc yếu tố cấu thành tội phạm, không ảnh hưởng trực
tiếp đến trách nhiệm hình sự và hình phạt nhưng có ý nghĩa nhất định đối với
việc giải quyết đúng đắn vụ án. Đó là những tình tiết có liên quan đến sự vô
tư, khách quan của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng, cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng
đắn vụ án. Ví dụ như: mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng với bị can, bị
cáo hoặc giữa người làm chứng với người bị hại…
Đối tượng chứng minh trong vụ án cướp tài sản là hệ thống những vấn đề
cần phải chứng minh làm rõ, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn xác

16


định đúng đối tượng chứng minh của vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng
phải có cách tiếp cận tổng thể đối với cả ba nhóm đối tượng chứng minh trên
và vận dụng vào từng trường hợp cụ thể cho phù hợp với quy định của pháp
luật. Có xác định đúng đối tượng chứng minh mới giúp cho công việc xác
định hướng điều tra thu thập chứng cứ và từ đó có cơ sở để kết luận đúng đắn
về vụ án cướp tài sản.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành Tôi cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015 sủa
đổi, bổ sung năm 2017)
Th o Điều 85 BLTTHS năm 2015 để làm rõ bản chất của vụ án cướp tài

sản thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ để chứng minh: Có
hành vi phạm tội cướp xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội Ai là người thực hiện hành vi phạm tội cướp;
có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý có năng lực trách nhiệm hình sự
hay không; mục đích, động cơ phạm tội. Đó là các dấu hiệu pháp lý trong cấu
thành tội phạm Tội cướp tài sản được quy định trong BLHS.
Khoản 1 Điều 168 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy
định:
“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành
vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm”. [11. Tr. 125].
Th o quy định của BLHS, Tội cướp tài sản có những dấu hiệu pháp lý
sau:
- Khách thể của tội phạm
Hành vi cướp tài sản xâm phạm đồng thời hai quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Bằng hành vi
phạm tội của mình, người phạm tội cướp tài sản xâm phạm trước hết đến thân
thể, đến tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm được quan hệ sở
17


hữu, nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài
sản không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được. Nếu chỉ xâm hại một
trong hai quan hệ xã hội này thì chưa phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi cướp tài sản. Do vậy, cả hai quan hệ xã hội bị xâm hại
đều được coi là khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản.
- Mặt khách quan của tội phạm
Th o quy định của điều luật, mặt khách quan của tội phạm gồm ba dạng
hành vi khách quan. Đó là: Hành vi dùng vũ lực Hành vi đ dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc Hành vi làm cho người bị tấn công lầm vào tình trạng không

thể chống cự được.
Hành vi dùng vũ lực
Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có
hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội tác động vào người khác nhằm
đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người này chống lại việc chiếm đoạt.
Hành vi dùng vũ lực trước hết phải là hành vi nhằm vào con người. Những
hành vi không nhằm vào con người đều không phải là hành vi dùng vũ lực theo
quy định của điều luật. Người bị tấn công ở đây có thể là chủ tài sản, người có
trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài sản nhưng cũng có thể là người bất kỳ mà
người phạm tội cho rằng người này đã hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc
chiếm đoạt của mình. Hành vi dùng vũ lực trong tội cướp tài sản phải ở mức độ
có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự, nghĩa là có khả năng làm cho
sự chống cự về mặt thực tế không xảy ra được hoặc xảy ra nhưng không có kết
quả hoặc làm cho người bị tấn công bị tê liệt về ý chí, không dám kháng cự.
Những hành vi dùng vũ lực có tính chất như vậy có thể là đánh, chém, trói,
nhốt…
Hành vi đ dọa dùng vũ lực ngay tức khắc

18


Đây là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả
hai) đ dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt.
Vũ lực đ dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đ dọa nhưng
cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thuộc với người bị de dọa.
Ở tội cướp tài sản, tính chất của sự đ dọa, th o quy định của luật phải là đ
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Dấu hiệu “ngay tức khắc” ở đây có ý nghĩa
quan trọng để phân biệt hành vi đ dọa dùng vũ lực ở tội cướp với hành vi đ
dọa (sẽ dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Dấu hiệu này vừa dùng để chỉ
sự nhanh chóng về mặt thời gian (sẽ xảy ra ngay lập tức) và vừa dùng để chỉ

sự mãnh liệt của hành vi đ dọa. Hành vi đ dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài
sản có tính chất mãnh liệt là làm cho người bị đ dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy
ra ngay, họ không hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Sự đ dọa đã làm ý chí
của người bị đ dọa tê liệt. Để đánh giá hành vi đ dọa dùng vũ lực có tính
chất như vậy hay không và qua đó khẳng định có phải là cướp tài sản hay
không, cần dựa vào những tình tiết sau: Nội dung và hình thức của hành vi đ
dọa (dọa làm gì? Thái độ đ dọa ra sao? Tương quan lực lượng giữa bên đ
dọa và bên bị đ dọa; Hoàn cảnh không gian và thời gian; Tình hình trật tự xã hội
nơi và lúc xảy ra hành vi phạm tội …
Dấu hiệu ngay tức khắc chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ,
thái độ thể hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi
hỏi họ phải thực sự có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như phải có
đủ điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc. Như vậy, những trường hợp chỉ
làm ra vẻ sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không có ý định hoặc không có
điều kiện dùng vũ lực ngay tức khắc cũng bị coi là cướp tài sản. Ví dụ: Dùng
súng giả dọa sẽ bắn chết ngay.
Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
cự được.

19


Hành vi ở dạng thứ ba này tuy không phải là vũ lực cũng như không phải
là lời đ dọa nhưng có khả năng như những hành vi đó – khả năng làm cho
người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt. Do vậy, những
hành vi này được coi là cùng tính chất như hành vi dùng vũ lực và hành vi đ
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Chúng đều có khả năng đè bẹp hoặc làm tê
liệt sự kháng cự. Hành vi đầu độc, hành vi dùng thuốc gây mê là những ví dụ
về dạng hành vi thứ ba này của tội cướp tài sản.
+ Hậu quả của tội phạm

Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt
hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.
- Mặt chủ quan của tội phạm
+ Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện
hành vi phạm tội, người phạm tội biết mình có hành vi dùng vũ lực hoặc biết
mình có hành vi đ dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc biết mình có hành vi
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể kháng cự được.
Người phạm tội mong muốn hành vi đó đè bẹp hoặc làm tê liệt được sự chống
cự của người bị tấn công, để có thể thực hiện được mục đích chiếm đoạt tài
sản.
+ Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội cướp tài
sản. Việc thực hiện những hành vi khách quan trên chỉ trở thành hành vi phạm
tội của tội cướp tài sản nếu việc thực hiện những hành vi đó nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản.
Mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng được coi là dạng đặc biệt
của mục đích chiếm đoạt. Như vậy, những hành vi dùng vũ lực, đ dọa dùng
vũ lực, đ dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay hành vi làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích giữ tài sản

20


vừa chiếm đoạt được cũng bị coi là cấu thành tội cướp tài sản. Đây là trường
hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản bằng thủ đoạn không phải là
cướp như bằng thủ đoạn trộm cắp, cướp giật… nhưng ngay sau đó đã bị phát
hiện người phạm tội đã tấn công lại người ngăn cản (bằng những thủ đoạn
của tội cướp) nhằm giữ bằng được tài sản vừa chiếm đoạt trước đó. Thực tiễn
xét xử từ trước đến nay coi trường hợp này là trường hợp chuyển hóa từ một
số hình thức chiếm đoạt tài sản thành cướp tài sản.

- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ đòi hỏi có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Người phạm tội cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và khi
thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của
mình. Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 BLHS là tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên th o quy định tại Điều
12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.
1.3. Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án cướp tài
sản
1.3.1. Khái niệm điều tra vụ án cướp tài sản
Điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án cướp tài sản nói riêng là quá
trình áp dụng pháp luật nhằm làm rõ sự thật khách quan toàn diện về vụ án
cướp tài sản. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT tiến hành các hoạt động theo
quy định của BLTTHS để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có
tội, chứng cứ xác định vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng, chứng cứ

21


×