Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Kon Tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.24 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG KHOÁI

QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH KON TUM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

HÀ NỘI – 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG KHOÁI

QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH KON TUM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Vũ Gia Lâm

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1.............................................................................................. 6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................................ 6
1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.. 6
1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định về quyền của bị
cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. ..................................................... 13
CHƯƠNG 2............................................................................................ 17
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VỀ QUYỀN CỦA BỊ
CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VIỆC BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN ....................................................................................... 17
2.1. Quyền của bị cáo trong xét xử theo quy định của luật pháp quốc
tế .................................................................................................................. 17
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam về quyền của bị cáo
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................. 23
2.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ...................................................................................... 32
CHƯƠNG 3............................................................................................ 39
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH KON TUM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ........................................................................... 39
3.1. Đặc điểm tình hình địa bàn tỉnh Kon Tum .................................. 39
3.2. Thực trạng thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trên địa bàn Tỉnh Kon Tum............................................................ 41
3.3. Kiến nghị nhằm thực hiện tốt quyền của bị cáo trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ...................................................................................... 54
KẾT LUẬN ............................................................................................ 68


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HTND: Hội thẩm nhân dân
KSV: Kiểm sát viên
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTHS: Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
HĐXX: Hội đồng xét xử
CQĐT: Cơ quan điều tra


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư
luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội ở tất
cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Các quốc gia đã hiện thực hóa và
phản ánh vào các quy phạm pháp của quốc gia mình để tạo cơ chế bảo đảm để
quyền con người được thực thi trên thực tế. Ở Việt Nam, việc bảo vệ và thúc
đẩy quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, đã
được ghi nhận trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đặc biệt đối với các quy định
pháp luật trong TTHS mà mấu chốt thực hiện các quyền này ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở cấp tỉnh hiện nay. Bởi lẽ, xét về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Tòa án nhân dân (TAND) cấp tỉnh xét xử
những vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với khung hình phạt
là trên 15 năm tù, chung thân, tử hình. Chế tài hình sự áp dụng cho bị cáo đối
với những vụ án sơ thẩm hình sự ở TAND cấp tỉnh nghiêm khắc như vậy nên

càng không cho phép bất cứ có sự sai sót, hay “tai nạn công lý” đối với cơ
quan, người tiến hành tố tụng. Điều này đặt ra yêu cầu ngày càng khắt khe
hơn trong hoạt động xét xử của TAND cấp tỉnh là phải bảo vệ quyền cho bị
cáo tốt nhất, hạn chế oan, sai trong hoạt động xét xử sơ thẩm.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc nâng cao chất
lượng xét xử vụ án hình sự nói chung và vụ án sơ thẩm hình sự của TAND
cấp tỉnh nói riêng. Một trong các chủ trương, chính sách đó là không ngừng
nâng cao năng lực xét xử của thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND), Kiểm
sát viên (KSV); kiện toàn tổ chức, hoạt động và phát huy vai trò của đội ngũ
luật sư, cơ quan bổ trợ tư pháp, qua đó bảo đảm các bản án được tuyên đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội.

1


Những nỗ lực trên đây được ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2003,
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014, Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật
Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015... Việc hoàn thiện về tổ chức các cơ quan
tư pháp và hệ thống pháp luật đã có tác động tích cực đến chất lượng hoạt
động của các cơ quan tư pháp trong đó có chất lượng hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh. Tỷ lệ các vụ án hình sự sơ thẩm
của TAND cấp tỉnh bị oan, sai, vi phạm tố tụng xâm phạm đến quyền của bị
cáo đã giảm đi rõ rệt.
Tuy nhiên, trên thực tế, các quyền của bị cáo ở một số phiên tòa xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh trong cả nước nói chung và ở
tỉnh Kon Tum nói riêng chưa thật sự được bảo đảm, nhiều quyền của bị cáo
vẫn còn bị hạn chế, vi phạm. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn để có những kiến nghị nhằm bảo đảm quyền của bị cáo

trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh là
nhiệm vụ cấp thiết. Từ những lý do trên đây, tác giả chọn đề tài: “Quyền của
bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Kon Tum”
làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự; Mã số:
60.38.01.04
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền bị cáo trong giai
đoạn xét xử được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc
độ khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công
trình “Quyền con người trong thế giới hiện đại” (Viện Thông tin khoa học xã
hội, 1995) của GS.TS Hoàng Văn Hảo và Phạm Khiêm Ích; “Quyền con
người và luật quốc tế về quyền con người”(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2


1997) của PGS.TS Chu Hồng Thanh. Từ góc độ nghiên cứu quyền con người
trong lĩnh vực Tư pháp có “Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự
Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010);
“Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” (Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia, 2011).
Một số tác giả chọn vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền bị can, bị cáo
trong luật tố tụng hình sự làm đề tài Luận án tiến sĩ luật học (TS Nguyễn
Quang Hiền, Nguyễn Huy Hoàng, Lại Văn Trình). Trong các công trình này,
các tác giả có phân tích cơ quan Tòa án với vai trò là đại diện quan trọng nhất
của nhánh quyền lực Tư Pháp theo nghĩa rộng. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều
tác giả nghiên cứu về vai trò, vị trí của Tòa án trong cơ chế phân chia quyền
lực như (GS.TS Nguyễn Đăng Dung...). Luận án tiến sỹ của Võ Quốc Tuấn
về bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của Toà án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay bảo vệ thành công tại Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2017. Luận văn của Ngô Thị Thanh

về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự bảo vệ
thành công tại đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013. Các công trình nghiên cứu
đó chủ yếu tập trung vào vai trò của Tòa án với tư cách là trọng tâm của quá
trình xét xử, đi sâu phân tích vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền của bị
cáo trong giai đoạn tố tụng này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận
và thực tiễn về quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực
trạng thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
TAND tỉnh Kon tum giai đoạn 2012-2016 để đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về quyền của bị cáo, quy định của pháp luật tố tụng về quyền của bị cáo và
đánh giá thực tiễn thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự từ thực tiễn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2012-2016
Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại TAND cấp tỉnh nói chung nhất là tại Tòa án nhân dân
tỉnh Kon Tum nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quyền của bị cáo trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm trên phương diện lý luận; luật thực định và việc thực hiện
quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Kon
Tum.
Phạm vi nghiên cứu Luận văn là các quan điểm khoa học về quyền của

bị cáo, quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự và thực tiễn
thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND
tỉnh Kon Tum từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, bảo
đảm quyền con người trong xét xử các vụ án hình sự ghi nhận trong Cương
lĩnh chính trị, các Văn kiện của Đảng từ Đại hội VI đến đại hội XII làm cơ sở
phương pháp luận.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê - so sánh, phương pháp kết hợp lý
luận với thực tiễn; phương pháp lịch sử…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

4


Về lý luận: Luận văn giúp làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền
của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp tài liệu tham khảo
có giá trị đối với công tác xây dựng và thực hiện pháp luật về quyền của bị
cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Việt Nam. Kết quả của đề tài
có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên đại học chuyên ngành
luật hình sự - tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu thảm khảo, luận văn bao
gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền của bị cáo trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị cáo

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc bảo đảm thực hiện.
Chương 3: Thực trạng thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Kon Tum và một số kiến nghị

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người và quyền công dân
Dưới góc độ ngôn ngữ học, khái niệm “quyền” được hiểu là: điều mà
pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi;
khái niệm “quyền” cũng còn được hiểu là: những điều do chức vụ hoặc địa vị
mà làm1.
Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là
kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân
dân trên toàn thế giới. Được ghi nhận từ năm 1945 kể từ khi thành lập Liên
Hợp Quốc, quyền con người thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận và có
sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội ở tất cả các cấp
độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Nó không chỉ là nhận thức, là quan điểm mà
hữu hình bằng các quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận chung,
phản ánh quy luật và xu hướng tất yếu trong sự phát triển của xã hội loài
người cũng như sự hình thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người được
thực thi trên thực tế. Tại Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay. Việt Nam
luôn tích cực tham gia các Điều ước quốc tế và các hoạt động về quyền con
người của Liên hợp quốc. Chỉ thị 12/TW của Ban Bí Thư, ngày 12/7/1992
khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua

các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và
cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó quyền con
người trở thành giá trị chung của nhân loại”.
1

Từ điển tiếng Việt- Viện ngôn ngữ học- Trung tâm Từ điển học- Nxb Đà Nẵng, năm 2004, tr. 815

6


Điều 1 tuyên ngôn thế giới về nhân quyền ghi nhận: "mọi người sinh ra
đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền". Trong lời nói đầu của bản
tuyên ngôn này cũng ghi nhận "Điều cốt yếu là các quyền con người phải
được bảo vệ bằng luật pháp...".
Dưới góc độ pháp luật quốc gia, quyền con người cũng được đề cập rất
sớm. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã ghi nhận: "Những chân
lý sau đây đã được chúng tôi công nhận như những sự thật hiển nhiên là tất
cả mọi người sinh ra đều bình đẳng; tạo hóa đã cho họ các quyền không thể
thay thế được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, và
quyền mưu cầu hạnh phúc. Để bảo vệ những quyền này, các chính phủ, do
chính con người thiết lập nên có được quyền lực chính đáng xuất phát từ sự
đồng thuận của nhân dân”
Xuất phát điểm của khái niệm về quyền con người là khái niệm về
phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại được ghi
nhận trong Tuyên ngôn thế giới và các Công ước năm 1966. Các công ước
này cũng ghi nhận ý tưởng về con người tự do trong việc hưởng quyền tự do
khỏi sự sợ hãi, tự do làm điều mong muốn và được hưởng các quyền bình
đẳng và không thể chuyển nhượng. Theo đó, quyền con người mang tính phổ
quát và không thể chuyển nhượng, có nghĩa là chúng được áp dụng ở khắp
nơi và không thể lấy đi. Như Tổng thư ký Liên hiệp quốc Boutros-Ghali đã

nói trong Hội nghị Thế giới Vienna về quyền con người vào năm 1993:
“quyền con người là các quyền bẩm sinh”.
Dưới góc độ pháp lý quyền con người được hiểu là điều mà pháp luật
của tất cả các quốc gia trên thế giới ghi nhận cho bất cứ ai cũng được hưởng,
được, được làm, được đòi hỏi.
Quyền con người là một bộ phận không thể tách rời trong phạm vi quyền
công dân. Theo Từ điển tiếng Việt - Nxb Đà Nẵng 2004 (tr 815) thì quyền

7


công dân là "quyền của người công dân bao gồm những quyền tự do dân chủ
và các quyền lợi cơ bản về kinh tế, văn hóa, xã hội... được Hiến pháp công
nhận". Theo định nghĩa này, quyền công dân là điều mà theo pháp luật của
mỗi quốc gia, người được công nhận là công dân của quốc gia đó được
hưởng, được làm, được đòi hỏi. Quyền công dân của quốc gia này có thể có
sự giống nhau trong một lĩnh vực nào đó, dưới góc độ nào đó nhưng quyền
công dân tại quốc gia này có thể có sự khác biệt so với quyền công dân của
quốc gia khác do khác nhau về chế độ chính tri, truyền thống, văn hóa, tín
ngưỡng, tôn giáo….
Quyền con người và quyền công dân luôn có mối quan hệ mật thiết với
nhau và nằm trong một thể thống nhất, cụ thể :
- Quyền con người là quyền của tất cả cá nhân, cho dù họ có quyền công
dân của một quốc gia cụ thể nào đó hay không.
- Quyền công dân là các quyền cơ bản được bảo đảm cho các công dân
của một quốc gia cụ thể (được ghi nhận trong hiến pháp của quốc gia đó và
được bảo đảm thực hiện bằng các quy định pháp luật được thể chế hóa từ hiến
pháp. Ví dụ như quyền bầu cử và được bầu cử hay được quyền tiếp cận với
các dịch vụ công cộng tại một quốc gia nào đó.
- Quyền công dân là sự thể hiện cụ thể quyền con người và là một bộ

phận không tách rời quyền con người.
Hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự ở Việt Nam vấn đề về quyền con
người, quyền công dân được phản ảnh ở nhiều góc độ khác nhau, thể hiện tính
nhân văn và nghiêm minh trong đường lối xử lý đối với người phạm tội của
Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động tố tụng hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc
biệt của nhà nước. Theo đó các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng thực hiện các hành vi pháp lý mà pháp luật tố
tụng hình sự quy định để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Đây

8


là lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, bởi lẽ nó tác tạch trực tiếp đến các quyền
nhân thân cơ bản nhất của con người như quyền sống, quyền tự do…Do vậy,
cần thiết phải có những quy định cụ thể về quyền con người của người tham
gia tố tụng nhất là bị cáo với tư cách là người bị buộc tội và xác lập cơ chế
hữu hiệu cho việc thực hiện quyền của người tham gia tố tụng để giúp họ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Từ khái niệm chung về quyền con người ở trên, có thể đưa ra khái niệm
quyền con người trong tố tụng hình sự như sau: Quyền con người trong tố
tụng hình sự là những điều mà bất cứ ai (không phân biệt giới tính, độ tuổi,
dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần xã hội…) khi tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự đều được hưởng, được làm và được đòi hỏi.
1.1.2. Khái niệm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Việt Nam đã gia nhập công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 của Liên Hợp quốc (ICCPR) từ năm 1982. Việt Nam cũng đã gia
nhập tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UHDR), Công ước
về quyền trẻ em... Nghiên cứu các văn bản này đưa đến một khẳng định
quyền con người trong tố tụng hình sự chẳng qua là sự cụ thể quyền được
sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu

chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự. Theo đó, quyền con người trong
tố tụng hình sự bao gồm những quyền được “Điều 10, 11 Tuyên ngôn nhân
quyền thế giới và Điều 14, 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị năm 1966” quy định thống nhất như sau:
- Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục tố tụng hình sự;
- Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và
quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế
trách nhiệm hình sự phải trên cơ sở luật định;
- Quyền được suy đoán vô tội;

9


- Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức
chậm trễ;
- Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc
biệt;
- Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh
chóng minh oan, quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi;
- Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử…
Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội – đối tượng
quan trọng nhất cần bảo vệ trong đó có bị cáo là người bị buộc tội và có thể bị
áp dụng các biện pháp của trách nhiệm hình sự trong giai đoạn xét xử vụ án.
Trong quá trình nội luật hóa Nhà nước ta đã đưa những quy định trong các
văn kiện nói trên về quyền con người, trong đó có quyền của bị cáo trong tố
tụng hình sự, nhất là quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vào
hệ thống pháp luật quốc gia Việt Nam một cách tương đối đầy đủ và hoàn
thiện. Pháp luật tố tụng hình sự nước ta không chỉ quy định các quyền của bị
cáo mà còn có những quy định bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện.
Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

thông qua việc thực hiện trong thực tiễn các nghĩa vụ, trách nhiệm của các
chủ thể ở các giai đoạn xét xử. Gắn với hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự có thể phân chia nội dung bảo đảm quyền của bị cáo hai giai đoạn là trước
khi mở phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) và tại phiên tòa xét xử.
Trong pháp luật Việt Nam thì quyền con người, quyền công dân được ghi
nhận trước tiên tại Điều 3 Hiến pháp 2013 “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân”. Quyền này sau đó được cụ thể hóa trong các Bộ
luật và các đạo luật cụ thể trở thành quyền của các chủ thể của các quan hệ
pháp luật khác nhau.

10


Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS), quyền con người, quyền
công dân (cá nhân) được ghi nhận tại Điều 8: “Khi tiến hành tố tụng, trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của
những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp
đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.”
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, bị cáo là người đã bị tòa án
quyết định đưa ra xét xử. Với tư cách là một chủ thể của tố tụng hình sự, bị
cáo có các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Quyền của bị cáo được pháp luật (Hiến
pháp, Bộ luật tố tụng hình sự, các văn bản pháp luật khác có liên quan) quy
định và bảo đảm thực hiện trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Quyền của bị cáo nằm trong nội hàm của quyền con người, quyền công dân
do vậy là những giá trị, nhu cầu và lợi ích hợp pháp vốn có của bị cáo, phù
hợp với chuẩn mực quốc tế và quốc gia được ghi nhận trong Hiến pháp và các
văn bản quy phạm pháp luật khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong

giai đoạn xét xử.
Trong các giai đoạn đó, bị cáo có các quyền phù hợp với tính chất và đặc
điểm của việc tiến hành tố tụng của từng giai đoạn và tư cách chủ thể của bị
cáo. Quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự nói chung và trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự nói riêng chính là sự thể hiện quyền con người và quyền
công dân của bị cáo với tư cách là người tham gia tố tụng hình sự. Quyền của
bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là: tất cả những gì mà
pháp luật tố tụng hình sự cho phép bị cáo được hưởng, được làm, được đòi
hỏi trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Việc quy định và bảo đảm thực hiện quy định về quyền của bị cáo trong
TTHS có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì trong lĩnh vực này con người dễ

11


bị xâm phạm, dễ bị tổn thương và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng
về vật chất, thể chất lẫn tinh thần. Trong các chủ thể của hoạt động TTHS thì
Tòa án giữ vai trò quan trọng. Đảng đã khẳng định khâu trọng tâm của chiến
lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 là cải cách h ệ thống TAND: “Trung
tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND” và… xét xử là
trọng tâm” (Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị). Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ X (tháng 4/2006) cũng đã chỉ rõ sự cần
thiết phải xây dựng cơ chế tài phán đối với những vi phạm.
Thời gian gần đây xảy ra nhiều vụ án oan, sai do những vi phạm tố tụng
nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Kết luận điều tra vụ án trong
nhiều trường hợp luôn là kết quả của sự truy xét qua áp đặt chủ quan của
người tiến hành tố tụng, có dấu hiệu mớm cung, bức cung trong quá trình điều
tra (song hầu như không chứng minh được hoặc không được Hội đồng xét xử
xem xét). Thực tế số người bị làm oan, bị làm sai trong quá trình TTHS được
bồi thường theo pháp luật cũng chưa đáng là bao. Và việc bồi thường đó,

không bao giờ tương xứng với những gì mà những người bị oan, bị sai đã
phải gánh chịu. Do đó, để tránh oan sai trong TTHS, Tòa án cần phải xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Có như vậy thì quyền con người mới
được đảm bảo. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là chức năng quan trọng nhất
của Tòa án, là giai đoạn quyết định của toàn bộ quá trình TTHS. Trong giai
đoạn này, Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại
tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà CQĐT và VKS đã
thông qua trước khi chuyển vụ án sang Tòa án, nhằm và khắc phục, sửa chữa
loại trừ các hậu quả tiêu cực do sơ suất, sai lầm, vi phạm của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trước đó... Đồng thời trên cơ sở kết quả tranh
tụng công khai và dân chủ tại phiên tòa để ra bản án, quyết định công minh và
đúng pháp luật, có căn cứ và sức thuyết phục. Giai đoạn này được bắt đầu từ

12


khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự, quyết định truy tố của Viện kiểm
sát và kết thúc bằng việc ra bản án (hoặc quyết định) giải quyết vụ án về nội
dung. Đây là giai đoạn trung tâm của quá trình TTHS và có tính quyết định
nhất, giúp giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ, bảo đảm pháp chế,
bảo vệ các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là việc ghi nhận
trong Hiến pháp, luật tố tụng hình sự, được tôn trọng và bảo đảm thực nhiện
bằng pháp luật; đồng thời, thông qua thực tiễn hoạt động xét xử tại phiên tòa
các chủ thể thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm và bảo vệ các quyền của bị cáo
cũng như tạo ra các điều kiện cần thiết để bị cáo sử dụng các quyền của họ
theo quy định của pháp luật. Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân;

thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã
áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi
phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định về quyền của bị
cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2.1. Ý nghĩa chính trị - Xã hội
Việc quy định quyền của bị cáo và những bảo đảm pháp lý cho việc thực
hiện quyền của bị cáo trong xét xử nói riêng và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
nói chung có ý nghĩa chính trị -xã hội sâu sắc, cụ thể:
- Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thể hiện sự dân chủ của chế độ Nhà
nước Xã hội chủ nghĩa; thể hiện sự dân chủ của chế độ tố tụng nước ta; thể
hiện quyết tâm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải cách tư

13


pháp mà trước hết là đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo
hướng công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng tôn trọng và bảo đảm
quyền con người trong đó có quyền của bị cáo - người bị buộc tội trong vụ án
hình sự.
- Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân vì dân và do dân. Một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của Nhà nước pháp quyền là xây dựng và hoàn thiện một nền tư
pháp hiện đại, công bằng, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người,
quyền cá nhân.
- Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thể hiện quan điểm nhất quán của Nhà
nước ta trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài là đưa nước ta nhanh

chóng hội nhập với đời sống pháp lý quốc tế tiến bộ và nhân văn, bảo đảm sự
công bằng, dân chủ trong xã hội. Đây cũng là sự phản ánh rõ ràng quan điểm
cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tố tụng theo định
hướng lấy con người làm trung tâm, pháp luật về tư pháp nói chung và tư
pháp hình sự nói riêng trước hết vì con người.
1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm xác lập điều kiện thuận lợi để bị cáo trực tiếp hay gián
tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ví dụ: việc quy định quyền
tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa; quyền được trợ giúp của người đại
diện trong trường hợp bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về
tâm thần, thể chất…chính là các trường hợp bị cáo vừa có thể tự mình (trực
tiếp) hoặc được người khác (gián tiếp) bảo vệ quyền lợi của mình. Qua đó

14


giúp bảo vệ có hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trong xét
xử nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng.
- Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá
trình áp dụng các chế tài hình sự đối với bị cáo. Đặc biệt, việc quy định quyền
bào chữa, quyền được suy đoán vô tội, quyền được xét xử công bằng, công
khai, quyền tranh luận tại phiên tòa, quyền kháng cáo bản án, quyết định của
tòa án còn giúp cho việc giải quyết vụ án của tòa án được khách quan, toàn
diện và đầy đủ hơn, tránh sự áp đặt một phía do có sự cọ sát về quan điểm
giữa bên buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa.
- Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự giúp nâng cao trách nhiêm của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự, có căn cứ pháp lý để phát hiện và xử lý các vi phạm quyền của bị cáo từ
phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Kết luận chương 1
Trong thế giới phát triển đa chiều như hiện nay thì vấn đề quyền con
người luôn là trung tâm chi phối các hoạt động của mọi quốc gia. Nó mang
tính phổ biến chung của nhân loại. Các quốc gia đã hiện thực hóa và phản ánh
vào các quy phạm pháp của quốc gia mình để tạo cơ chế bảo đảm để quyền
con người được thực thi trên thực tế. Ở Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, đã được ghi
nhận trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đặc biệt đối với các quy định pháp
trong TTHS mà mấu chốt thực hiện các quyền này đối với bị cáo ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự hiện nay. Để có cơ sở nghiên cứu quy định

15


của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền của bị cáo và việc thực hiện
quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong chương này của
luận văn, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền của bị
cáo trên cơ sở làm rõ các khái niệm khác có liên quan như: quyền, quyền con
người, quyền công dân. Từ việc nghiên cứu những khái niệm này trên phương
diện ngôn ngữ học tác giả đi đến định nghĩa về quyền của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; nêu và phân tích ý nghĩa của việc quy
định và thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.

16



Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VỀ QUYỀN CỦA BỊ
CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VIỆC
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
2.1. Quyền của bị cáo trong xét xử hình sự theo quy định của luật
pháp quốc tế
Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử thuộc phạm trù quyền con
người. Trong phạm vi quyền con người được ghi nhận tại các công ước quốc
tế như: “Không người nào bị giam hoặc cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào bị
tra tấn hay đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân
phẩm. Không được viện dẫn bất kỳ hoàn cảnh nào để biện minh cho việc tra
tấn hay đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm”
[24; 698]. Bình luận chung số 32 tại phiên họp thứ 19, 2007 của UNHRC
cũng xác định tại Điều 27: “Một khía cạnh của phiên tòa công khai là tính
chất nhanh chóng. Vấn đề xét xử không chậm trễ trong TTHS được đề cập
trong khoản 3c Điều 14, theo đó sự chậm trễ trong thủ tục tố tụng không thể
biện minh bởi sự phức tạp của vụ án hoặc những hành vi của các bên là trái
với nguyên tắc xét xử công bằng theo đoạn 1 của Điều 14. Trong trường hợp
chậm trễ này là do thiếu nguồn lực thì cần bổ sung ngân sách cho thực thi
pháp luật” [23, 367]
Quyền này có một ý nghĩa quan trọng trong TTHS vì việc áp dụng pháp
luật không chỉ cần đúng đắn mà còn phải kịp thời. Nếu công lý không được
thực hiện kịp thời thì cũng không còn nhiều ý nghĩa. Trước hết đối với quyền
lợi của những người bị hại thì rõ ràng là vụ án càng kéo dài càng bị ảnh
hưởng (trừ trường hợp có sự thỏa thuận bồi thường giữa các bên trong vụ án).
Ngoài ra, tâm lý theo đuổi vụ án kéo dài cũng rất mệt mỏi, ảnh hưởng đến

17



cuộc sống, công việc hàng ngày của những người tham gia tố tụng. Sau đó,
chính bản thân những người bị tình nghi phạm tội, những người bị buộc tội
cũng bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Đó là những trường hợp như do sự chậm
trễ của hoạt động tư pháp mà nhiều người bị bắt, tạm giữ, tạm giam sau nhiều
ngày mới được xác định là vô tội và được trả tự do. Ngay cả người bị buộc tội
có bị kết án đi chăng nữa thì việc chờ đợi quá lâu một hình phạt đối với mình
cũng bị xem là một hành động tra tấn [23, 287].
Nội dung về quyền được xét xử công bằng được đề cập tại các Điều 10,
11 tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên Hợp Quốc, 1948
(UDHR), là quyền cơ bản của bị cáo, có vai trò quan trọng đối với việc thực
hiện các quyền khác trong quá trình xét xử. Tại Điều 10 có nêu: “Mọi người,
với tư cách bình̀ đẳng về mọi phương diêṇ , đều có quyền được một toà án
độc lập và vô tư phân xử công bằng và công khai để xác đinḥ quyền, nghĩa vụ
hoặc bất cứ một lời buộc tội nào đối với người đó”. Điều 11 nêu: “(1) Mọi
người, nếu bị quy tội hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi một
toà án công khai nơi người đó đã có được tất cả nhưng đảm bảo cần thiết để
bào chữa cho mình chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sơ
luật pháp. (2) Không ai bi ̣ kết tội hình sự vì một hành vi hay sự tắc trách
không bi ̣coi là một tội hình sự theo quy đinḥ của luâṭ pháp quốc gia hay quốc
tế vào thời điểm đó. Cũng như không cho phép áp dụng hình thức xử phạt đối
với một tội hình sự nặng hơn so với quy định của luật pháp lúc bấy giờ cho
mức độ phạm tội cụ thể như vậy”[31].
Theo định nghĩa của “Tìm hiểu về quyền con người” – tài liệu hướng
dẫn về giáo dục về quyền con người, Nhà xuất bản tư Pháp (dịch ra từ: tài liệu
của mạng lưới an ninh con người dựa trên sáng kiến của Bộ Ngoại giao Áo)
thì: Quyền được xét xử công bằng liên quan đến thi hành công lý trong lĩnh
vực dân sự và hình sự. Ngay từ đầu cần phải hiểu rằng việc thi hành công lý

18



phù hợp gồm hai khía cạnh: mang tính thể chế (chẳng hạn như sự độc lập và
không thiên vị của tòa án) và mang tính thủ tục (chẳng hạn như sự công bằng
trong xét xử). Nguyên tắc xét xử công bằng duy trì một loạt các quyền cá
nhân đảm bảo cho việc thi hành công lý thích hợp từ lúc nghi ngờ đến khi thi
hành công lý. Theo pháp luật quốc tế, các quyền tối thiểu của bị cáo:
- Tất cả mọi người sẽ được bình đẳng trước tòa án và có quyền được đảm
bảo tối thiểu đối với việc xét xử công bằng với sự bình đẳng thực sự;
- Mọi người có quyền được xét xử công bằng và công khai. Do đó công
chúng rộng rãi có thể chứng kiến việc xét xử;
- Mọi người bị kết tội phạm tội sẽ có quyền được coi là vô tội cho đến
khi chứng minh được sự phạm tội theo luật pháp;
- Mọi người đều có quyền được xét xử kịp thời;
- Mọi người đều có quyền được có mặt khi xét xử. Bị cáo có quyền tự
bào chữa hoặc thông qua trợ giúp pháp lý, bị cáo sẽ được thông báo về quyền
này, trong bất kỳ trường hợp nào đòi hỏi phải có quyền lợi về công lý thì bị
cáo sẽ được trợ giúp pháp lý miễn phí nếu bị cáo không đủ khả năng chi trả;
- Bị cáo có quyền thẩm vấn nhân chứng chống lại anh ta và có quyền tham
gia và tiến hành thẩm vấn nhân chứng vì quyền lợi của mình. Bị cáo có quyền
không bị ép buộc nhận tội;
- Bị cáo có quyền nhận sự giúp đỡ miễn phí của phiên dịch nếu anh ta
không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ mà tòa án sử dụng;
Theo luật pháp quốc gia hoặc quốc tế sẽ không ai bị buộc phạm tội hình
sự do bất kỳ hành vi hay sai sót nào không cấu thành tội hình sự tại thời điểm
sự việc xảy ra. Cũng không áp đặt hình phạt nào nặng hơn hình phạt đã áp
dụng tại thời điểm tội phạm xảy ra. [11,179-180]. Trong các quyền đó đáng
chú ý nhất là các quyền sau:

19



Thứ nhất, quyền được xét xử công bằng. Quyền này tồn tại trong cả các
vụ án hình sự và phi hình sự. Luật quốc tế bảo vệ những người bị bắt giữ vì
cho rằng khi bị cáo buộc tội danh hình sự thì bị cáo sẽ phải đối mặt với cả một
guồng máy nhà nước, mà ở đó nhân phẩm, thân thể, tính mạng của bị can, bị
cáo…có thể bị đe dọa bởi sự lạm dụng quyền hạn của nhân viên công lý trong
khi thực thi pháp luật. Do đó, “xét xử công bằng” có nghĩa là cho đương sự
được bình đẳng về vũ khí (phương tiện) và cơ hội trong phiên xử. Các bên
liên quan đến vụ án phải được đối xử ngang nhau khi tham dự phiên toà,
nghĩa là phải được thông tin giống nhau, được trình bày và biện hộ trong
những điều kiện như nhau. Muốn đảm bảo cho việc xét xử được công bằng thì
quyền của bị cáo phải được bảo vệ nghiêm túc từ khi bị bắt cho đến khi có
bản án chung thẩm (hoặc giám đốc thẩm). Tính phổ biến của quyền được xét
xử công bằng thể hiện ở chỗ đó là quyền mang tính phổ biến của con người,
khi một người nào đó bị khởi tố về các tội hình sự đều có quyền được xét xử
công bằng, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì; chẳng hạn như về
chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân... xét xử
công bằng sẽ có mối liên hệ phụ thuộc và tác động đến các quyền khác. Khi
quyền được xét xử công bằng bị vi phạm hay không được đảm bảo sẽ trực
tiếp hoặc gián tiếp ảnh hướng, tác động đến các quyền khác. Chẳng hạn một
người bị vi phạm quyền được xét xử công bằng dẫn đến bị xử oan sai về tội
phạm hình sự có thể bị ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại, quyền sống… và
khi quyền được xét xử công bằng được đảm bảo thì các quyền khác cũng
được tôn trọng đảm bảo theo. Ngược lại, khi các quyền con người khác được
đảm bảo như quyền tự do đi lại, quyền tự do tiếp cận thông tin… được đảm
bảo thì sẽ có ảnh hưởng tích cực đến quyền được xét xử công bằng.
Thứ hai, quyền được suy đoán vô tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội được
hình thành tương đối sớm trong nhiều nền tư pháp trên thế giới. Tuyên ngôn

20



nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) đã khẳng định mọi người đều được
coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội (Điều 9). Quyền được suy đoán
vô tội là một nguyên tắc quyết định cách thức đối xử với bị can, bị cáo trong
suốt quá trình điều tra và xét xử. Quyền này được quy định tại Điều 14
ICCPR: “Người bị buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho
tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”. Liên quan đến
quyền được suy đoán vô tội, tại bình luận chung số 13 của Ủy ban Nhân
quyền nêu: “Trách nhiệm đưa ra chứng cứ phạm tội thuộc về bên công tố,
nhưng bị cáo có quyền được nghi ngờ. Không một tội nào được quy kết cho
đến khi lời buộc tội đã có chứng cớ không thể phủ nhận. Hơn nữa, quyền
được suy đoán vô tội cũng ngầm khẳng định quyền được đối xử công bằng
đúng theo nguyên tắc này. Vì vậy, mọi cơ quan, chức trách có trách nhiệm
hạn chế việc kết tội trước khi có kết luận của tòa án” [30].
Thứ ba, quyền được bào chữa. Quyền bào chữa của bị cáo là một quyền
cơ bản, quan trọng để bảo vệ các quyền khác. Trong quá trình xét xử hình sự,
mọi người phải được đảm bảo tối thiểu liên quan đến quyền bào chữa, bao
gồm: Quyền được biết lý do buộc tội, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý,
được xét xử nhanh chóng, được đối chất với người làm chứng, được có mặt
khi xét xử, được phiên dịch miễn phí… Quyền bào chữa của người bị buộc tội
bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ Luật sư. Liên quan đến quyền bào
chữa, trong bình luận chung số 13 về Điều 14, Ủy ban nhân quyền nhấn
mạnh: “Bị cáo hoặc Luật sư của bị cáo phải có quyền hành động một cách
mẫn cán và mạnh dạn trong việc đưa ra những biện hộ hiện có và quyền phản
đối việc tiến hành vụ án nếu cho rằng vụ án xét xử không công bằng. Trừ
trường hợp phiên tòa xử vắng mặt có những lý do chính đáng, cần phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quyền được bào chữa”[32, 125].

21



×